TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Xuất phát từ mục tiêu của việc thực hiện chương trình Giáo Dục Mầm non "
nhằm phát triển toàn diện nhân cách trẻ". Đồng thời đứng trước thực trạng trẻ
Mầm Non đang ngày một thụ động, khơng biết ứng phó trong những hồn cảnh
nguy cấp, khơng biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp
đỡ...Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng này, trong đó việc thiếu kĩ
năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất. Trước thực tế đó tơi nhận thấy việc dạy kĩ
năng sống cho trẻ là vô cùng cấp bách và cần thiết và phải thực hiện ngay từ khi trẻ
còn ở độ tuổi nhà trẻ phải "uốn nắn" ngay từ khi "cây vẫn cịn non". Do đó tơi đã
lựa chọn "Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng" làm đề
tài nghiên cứu. Nó giúp trẻ biết cách tổ chức cá nhân, cách chào hỏi, cách sắp xếp
đồ chơi, cách trình bày vấn đề ngắn gọn xúc tích.
Tóm lại, trong tình hình đất nước đang hội nhập và phát triển thì phát triển sự
nghiệp giáo dục nói chung và Giáo Dục Mầm Non nói riêng là tất yếu. Đồng thời
giáo dục kĩ năng sống cho trẻ trong các trường Mầm Non cần phát triển hơn nữa
xứng đáng với tầm cao chiến lược của đất nước ta là đào tạo con người phát triển
toàn diện. Do đó cần tuyên truyền nội dung giáo dục kĩ năng sống khơng chỉ bó
hẹp trong phạm vi gia đình và nhà trường mà còn tất cả các cơ quan, ban ngành
khác nữa để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thực sự là của toàn dân.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Điều kiện: Giáo viên phải có trình độ chuẩn trở lên, có năng lực, trình độ chun
mơn vững vàng và hiểu được tâm lí của trẻ để giúp trẻ có thể tự tin và biết cách tự
phục vụ mình.
- Thời gian: được tiến hành từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 1 năm 2020 tại lớp nhà
trẻ với 15 trẻ do tôi phụ trách.
- Đối tượng: Trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi.
3. Nội dung sáng kiến:
* Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
1
Lựa chọn đề tài này chính là việc đầu tư cho con người mới của xã hội mới, là sự
quan tâm trú trọng tới Đức - Trí - Thể - Mĩ mang tính chất nền tảng. Việc dạy kĩ
năng sống từ sớm sẽ giúp trẻ hình thành lối sống, nếp sống có ý thức cho trẻ. Học
kĩ năng sống khơng đơn giản là các kĩ năng nói chung mà cịn là việc tạo ra nhân
cách cho trẻ. Và trong sự nghiệp phát triển đó rèn kĩ năng sống cho trẻ chiếm một
vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ.
3.1 Dạy trẻ các kĩ năng ứng xử với một số tình huống để bảo vệ bản thân.
3.2 Dạy trẻ các kĩ năng sống mọi lúc mọi nơi
3.3. Tuyên truyền và phối kết hợp với các bậc phụ huynh cách dạy trẻ kĩ năng
sống trong gia đình
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
* Đối với trẻ
Kĩ năng hợp tác đã hình thành rõ rệt, trong lớp trẻ đã biết chia sẻ đồ chơi với bạn,
biết phối hợp với bạn khi học, khi chơi. Trẻ biết tự đi vệ sinh, biết gọi cơ khi có
nhu cầu khát nước,…Biết chào hỏi, cảm ơn xin lỗi rất lễ phép. Các nề nếp thói
quen như tự đi vệ sinh, tự xúc cơm ăn,…đã trở nên thuần thục.
* Đối với giáo viên.
Về phía giáo viên, chúng tôi đã xác định rõ và nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ
năng sống. Biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ
trẻ đồng thời giải quyết hợp lý, cơng bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ
trong lớp.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng sáng kiến:
- Cần đưa chương trình giáo dục kĩ năng sống vào các trường đào tạo chuyên
nghiệp giáo viên Mầm Non.
- Tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên về nội dung,
phương pháp, hình thức giáo dục kĩ năng sống cho trẻ Mầm Non.
- Cần tăng cường hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị, tài liệu tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình giáo dục kĩ năng sống của giáo viên.
2
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
“ Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con cịn ngây thơ”
Câu nói ấy quả thực khơng sai, một đứa trẻ cũng giống một cái cây nếu
không được uốn nắn ngay từ nhỏ khi lớn lên sẽ cứng và khó uốn. Nếu cố uốn thì sẽ
rất dễ gãy cành. Con người cũng vậy, một đứa trẻ nếu được rèn rũa, đưa vào nề
nếp, khn khổ, có những kĩ năng sống cơ bản ngay từ thuở nhỏ khi lớn lên chắc
chắn sẽ là một cơng dân có ích cho xã hội với những tầm nhìn khả quan, khả năng
làm việc cao, sự quyết đoán, tự tin trong cuộc sống. Biết yêu thương, chia sẻ, hợp
tác, giúp đỡ, quan tâm đến những người xung quanh, có kĩ năng bảo vệ bản thân và
vượt qua những khó khăn thử thách, sống có trách nhiệm, biết cho và nhận… đó
chẳng phải là cái đích Chân - Thiện – Mĩ mà xã hội lồi người hướng tới sao? Vì
vậy cung cấp và hình thành các kĩ năng sống cho trẻ ngay từ bậc học Mầm Non là
một việc làm cần thiết để phát triển tồn diện nhân cách trẻ. Điều đó phù hợp với
quan điểm giáo dục “ lấy trẻ làm trung tâm” mà toàn ngành giáo dục đang thực sự
quan tâm.
2. Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây người ta quan tâm rất nhiều đến cụm từ " kĩ năng
sống". Nhu cầu học kĩ năng sống, các chuẩn mực đạo đức của trẻ em đã " bùng
nổ". Theo tổ chức y tế thế giới WHO kĩ năng sống là khả năng có hành vi thích
ứng và tích cực giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước và trong nhu cầu thách
thức của cuộc sống hàng ngày. Theo UNICO kĩ năng sống gắn với bốn trụ cột của
giáo dục đó là : Học để biết, học làm người, học để sống với người khác, học để
làm. Theo Bộ Giáo Dục và đào tạo , thống nhất quan điểm của UNICEF, kĩ năng
sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới, phát động ngành
giáo dục " tăng cường rèn kĩ năng sống cho trẻ". Căn cứ vào nhiệm vụ trên tôi đã
chú trọng rèn kĩ năng sống cho trẻ.
3
Rèn kĩ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các con
không chỉ học giỏi về kiến thức mà cịn phải được tơi luyện những kĩ năng sống
qua đó tạo cho các con một mơi trường lành mạnh, an tồn, tích cực, vui vẻ để
trang bị cho các con vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.
Đó là những kĩ năng chúng ta phải biết để có được sự điều chỉnh, ứng xử phù hợp
với những thay đổi diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Qua học tập và rèn luyện các kĩ
năng sống, trẻ sẽ cảm nhận, thấu hiểu và trân trọng những giá trị căn bản của cuộc
sống đó là khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng
làm chủ bản thân, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Vậy giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là gì? Là giáo dục cách sống tích cực trong
xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kĩ năng mang tính chất cá nhân và xã hội
nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng
thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong
cuộc sống. Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có
kĩ năng sống ( bao gồm nhiều kĩ năng) và chưa biết sử dụng linh hoạt những kĩ
năng này thì khơng đảm bảo cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý, giao
tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt với mọi người.
Do đó việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngay từ khi cịn nhỏ là hồn tồn
cần thiết giúp hình thành những thói quen tốt ăn sâu vào trong tiềm thức, chi phối
lối sống của trẻ, song hành với trẻ trong suốt q trình hình thành và phát triển
nhân cách. Đó cũng chính là lý do để tơi lựa chọn “Một số biện pháp rèn kĩ năng
sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng” làm đề tài nghiên cứu.
3. Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống cho trẻ.
Xã hội càng phát triển địi hỏi con người càng cần phải có tâm thế để sống
phù hợp, để khơng bị xốy vào vịng cơ chế thị trường song không phải ai, cá nhân
nào cũng ý thức được điều đó. Xã hội đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều các vụ
trầm cảm, tệ nạn xã hội… trong gia đình ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Với lứa tuổi
Mầm non thì bệnh tự kỉ, tăng động giảm chú ý xuất hiện ngày càng nhiều. Mà
nguyên nhân sâu xa chính là việc thiếu các kĩ năng sống cần thiết, thiếu sự quan
tâm chia sẻ của gia đình, cộng đồng và xã hội. Trước thực tế đó đòi hỏi người giáo
4
viên như tơi cần có trách nhiệm với bản thân, với xã hội đó là phải làm sao truyền
thụ các kĩ năng sống cần thiết cho các con từ độ tuổi Mầm non đồng thời trang bị
thêm những kĩ năng cần thiết để dạy trẻ cho các bậc phụ huynh. Trong khi nghiên
cứu đề tài này tôi đã gặp không ít những thuận lợi và khó khăn.
3.1 Thuận lợi:
Là một ngôi trường đã đạt chuẩn quốc gia giai, và nằm ở khu trung tâm của
xã. Giáo viên 100% có trình độ chuẩn trở lên. Trẻ thì nhanh nhẹn, hoạt bát, phụ
huynh cũng rất tin yêu, ủng hộ nhiệt tình. Tập thể cán bộ giáo viên trong trường
cũng rất sôi nổi, nhiệt huyết trong các phong trào, hội thi.
3.2 Khó khăn
Ngày nay xuất hiện nhiều trẻ mắc bệnh " tự kỉ" do khơng được bố mẹ gần
gũi, trị chuyện mải mê kiếm tiền mà phó mặc cho ơng bà hoặc người giúp việc. Có
những bậc phụ huynh lại chiều chuộng, bao bọc con q mức khiến trẻ khơng có kĩ
năng tự phục vụ, khơng có khả năng ứng xử với hồn cảnh cuộc sống. Có nhiều trẻ
ích kỉ chỉ biết mỗi bản thân không biết chia sẻ với người khác. Không biết học
cách cho và nhận. Lại có những trẻ tự ti, nhút nhát, chậm phát triển. Cha mẹ chưa
thực sự quan tâm hoặc còn thiếu hiểu biết về cụm từ “ kĩ năng sống”.
Về phía giáo viên thì lại chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi
mầm non những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch
định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ Mầm non.
Hơn nữa lớp tơi phụ trách lứa tuổi 24-36 tháng cịn có 1 số cháu ở độ tuổi 1824 tháng mới đến lớp còn lạ lẫm, rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin, trẻ đến lớp cịn quấy
khóc, khơng muốn tiếp xúc với mọi người. Hơn nữa độ tuổi của trẻ lại còn rất nhỏ,
mọi kĩ năng sống còn non nớt, khả năng nhận thức còn kém, kĩ năng tự phục vụ
chưa thành thạo điều đó gây khơng ít khó khăn tới việc giáo dục kĩ năng sống cho
trẻ.
Vì vậy tơi đã tiến hành điều tra thực trạng thu được kết quả như sau:
Các kĩ năng
Tỉ lệ đạt %
5
Thời
gian
Số
Tốt
Khá
Đạt yêu cầu
2 = 13%
2=13%
8=53%
5=33%
5=33%
8=53%
Sự mạnh dạn tự tin
1=7%
8=53%
6= 40%
Kĩ năng nhận thức
Kĩ năng ứng xử các
3=20%
8=53%
4=26%
trẻ
điều tra
9/2019 15
Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng hợp tác
1=7%
6=40
8=53%
tình huống
Nhìn vào con số khảo sát trên mới thấy các con rất thiếu sự tự tin, e dè trong
giao tiếp, chưa mạnh dạn bày tỏ nhu cầu, chưa biết chia sẻ hợp tác với bạn, cịn ích
kỉ, khả năng nhận thức chưa cao, chưa biết cách bảo vệ bản thân cũng như ứng xử
phù hợp trong cuộc sống. Nếu để kéo dài tình trạng này các con sẽ ra sao trong
tương lai? Trăn trở với suy nghĩ ấy, tơi quyết định nghiên cứu tìm tịi đưa ra các
biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết tình trạng trên.
4. Các giải pháp thực hiện.
- Xác định những kĩ năng sống cơ bản cần dạy trẻ:
Đối với tâm sinh lý trẻ em ở độ tuổi Mầm non thì có nhiều kĩ năng quan
trọng cần phải dạy trẻ biết trước khi dạy trẻ kiến thức. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học đó chính là sự hợp
tác, tự kiểm sốt, tính tự tin, tự lập, tị mị, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc
xác định được các kĩ năng sống cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa
chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ.
- Cụ thể hóa những kĩ năng sống cần dạy trẻ:
+ Kĩ năng sống tự tin: Một trong những kĩ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là
phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là
ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống
này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống, mọi nơi.
Ví dụ: Giờ phát triển vận động cô chia lớp ra thành hai tổ thi đua nhau. Cơ
khuyến khích hai đội thi đua và giúp trẻ tự tin đội mình sẽ chiến thắng.
6
Ví dụ 2: Biểu diễn văn nghệ theo chủ đề, cơ khuyến khích trẻ mạnh dạn, tự
tin biểu diễn trước đám đơng.
+ Kĩ năng sống hợp tác: Bằng các trị chơi, câu chuyện, bài hát tôi giúp trẻ học
cách cùng làm việc với bạn, từ đó giúp trẻ biết cảm thông và chia sẻ với người
khác. Đây là một công việc khơng hề dễ với trẻ 24-36 tháng. Vì vậy tơi thường
xun đưa ra các tình huống để tạo cho trẻ có cơ hội hợp tác.
Ví dụ: Giờ hoạt động ngồi trời “ bé gieo hạt” tơi hướng dẫn phân cơng nhóm
trẻ thì xới đất, nhóm thì gieo hạt, nhóm thì tưới nước cho hạt,….
+ Kĩ năng giao tiếp: Tơi dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của
mình cho người khác khác hiểu. Biết trả lời các câu hỏi cái gì đây? Màu gì đây? Để
làm gì? Dạy trẻ biết bày tỏ nhu cầu khi đi vệ sinh, ăn, ngủ, chơi, học,…biết cảm
ơn, xin lỗi,…biết nói năng lễ phép, khơng nói chống khơng.
4.1. Dạy trẻ các kĩ năng ứng xử với một số tình huống để bảo vệ bản thân.
4.1.1 Không đi theo người lạ:
Gần đây dấy lên tình trạng bắt cóc trẻ em vì nhiều lý do. Dù thế nào, với trẻ
đều rất nguy hiểm. Cô dạy bé không được đi theo người lạ, khi người lạ đến đón
hoặc rủ đi chơi bé cần từ chối. Khi bé chơi một mình nơi cơng cộng hoặc gần nhà
nếu thấy có người lạ bám theo, bé không được sợ hãi, hãy bước đi thật nhanh rồi
chạy tới chỗ đông người hoặc chạy về nhà hoặc gọi cầu cứu những người dân gần
đó sau đó nhờ họ gọi điện hoặc liên lạc với cha mẹ bé.
4.1.2. Không trèo cây
Khi bé chơi đùa có thể có những vật rơi vào lùm cây, bé khơng được trèo lên
lấy vì có những cành cây rất mảnh hoặc đã mục rỗng, khi bé trèo lên sẽ bị ngã
xuống hoặc bị những cành cây nhọn đâm chọc vào da bé khiến bé bị thương. Trên
cây cịn có nhiều cơn trùng, sâu bọ rất ngứa và độc. Hãy nhờ người lớn giúp đỡ.
4.1.3. Bé ứng phó với biến đổi khí hậu (mưa, gió, sấm chớp,...)
Trẻ 24-36 tư duy còn chưa trừu tượng do đó để cung cấp giảng giải cho trẻ
hiểu cần sử dụng các từ ngữ, hình ảnh dễ hiểu, ngắn gọn. Để dạy trẻ tơi ln đưa ra
các tình huống có vấn đề hoặc những mẩu chuyện ngắn. Ví dụ " Ngồi trời đang
mưa, tơi kể cho trẻ nghe chuyện: Bạn Nam đang chơi ở ngõ thì bỗng trời nổi cơn
7
gió lốc ù ù ù tối sầm lại. Nam cuống quýt định chạy về nhà nhưng không kịp nữa.
Những cơn cuồng phong cuốn theo cát bụi bẩn ập tới khiến Nam phải nhắm tịt mắt
lại. Các con đoán xem bạn Nam sẽ làm gì? Các con đã bao giờ gặp gió lốc chưa?
Chúng mình hãy học cách giữ an tồn trong gió lốc nhé! Cơ cho trẻ xem hình ảnh
minh họa!
Dạy trẻ khi gặp gió to, các con cần ngay lập tức tránh xa khỏi cây to, cột
điện… không sẽ bị xuống đầu. Cũng không được men dưới nhà cao tầng kẻo đồ
vật trên nhà rơi xuống đầu. Không được lấy quần áo, túi xách trùm lên đầu hoặc
chạy toán loạn. Phải nhìn rõ đường đi để khơng bị vướng vào các thứ trên đường.
4.1.4 Bé vui chơi thả diều
Tôi kể cho các con nghe một số tình huống " Bạn Quân được bố mẹ mua cho
một chiếc diều rất đẹp. Quân rủ chị ra lên trần nhà thả diều, hai chị em mải thả vừa
thả vừa đi giật lùi". Bé đốn xem chuyện gì sẽ xảy ra? Tơi để các con đốn qua
việc nhìn hình ảnh sau đó giáo dục các con không nên leo lên sân thượng thả diều
vì trong lúc mải mê chạy theo diều rất nhiều người bị ngã từ tầng thượng xuống và
bị thương rất nặng. Đặc biệt cũng không nên thả diều cạnh bờ ao, hồ cống...vì khi
các con tập trung vào cái diều trên cao rất dễ bước hụt xuống nước. Các con cũng
8
không nên thả diều trên đường cái hoặc những nơi có dây điện chi chít. Khi diều bị
mắc vào dây điện sẽ rất nguy hiểm.
4.1.5 Bé đi công viên
Tôi kể cho trẻ nghe chuyện " Bé Mai đi công viên" kèm hình ảnh minh họa rồi
qua đó cung cấp cho trẻ vốn kĩ năng cần thiết. Bé có thể tùy ý ngắm những bông
hoa đẹp nhưng không nên chạm vào chúng. Vì nhiều lồi hoa đẹp có gai sắc nhọn,
có lồi hoa thì giấu những chiếc gai nhỏ dưới đám lá mềm, đụng vào gai sẽ đau và
chảy máu. Nhiều lồi hoa có mùi hương gây dị ứng, mẩn ngứa, rất nguy hiểm.
Đi chơi công viên khi đi đạp vịt, bơi thuyền cần ngồi ngay ngắn giữa thuyền,
không nên cúi người sang hai bên nghịch nước, cũng không nên ngửa mặt lên trời
đùa nghịch hoặc đi lại trên mặt thuyền bấp bênh sẽ bị ngã xuống nước...
4.1.6 Chú ý khi chơi cầu trượt
Khi cho các con xuống sân trường chơi cầu trượt tôi giáo dục các con khi
chơi cầu trượt phải bám chắc hai tay vào hai bên thành cầu trượt, leo từng bậc
thang lên nóc cầu trượt. Đừng xơ đẩy, chen lấn bạn phía trước kẻo bạn ấy bị ngã.
Khi lên đến nóc, khơng được giằng co, xơ đẩy các bạn. Phải chờ tuần tự đến mình
rồi mới được trượt xuống . Hãy ngồi thấp xuống rồi trượt xuống đất thì mới an
tồn...
4.1.7 Phịng ngừa điện giật
Trẻ lứa tuổi 24-36 tháng nhận thức còn non nớt, chưa hiểu biết sự nguy hiểm
xung quanh vì vậy khi thấy có sợi dây điện rơi xuống trẻ có thể sờ vào dây điện vì
vậy trong q trình dạy trẻ tơi ln lồng ghép chương trình " sử dụng năng lượng
tiết kiệm, hiệu quả" vào dạy trẻ không tùy ý nghịch ổ cắm điện, không bật tắt lung
tung, không được tháo hoặc nghịch các đồ điện khi chưa hỏi người lớn. Không
được chọc tay, chọc dao, chọc bút máy vào ổ cắm điện dễ bị điện giật.
4.1.8 Tránh xa các công trường xây dựng và hố ga, miệng cống ngầm
Tôi đã từng nghe và đọc về những vụ trẻ em bị chết dưới hố ga, miệng cống
ngầm do còn nhỏ chưa ý thức được việc làm đồng thời cũng do nguyên nhân chủ
quan từ phía các bậc cha mẹ. Rất xót xa khi các con cịn đang độ tuổi Mầm non
ngây dại. Vì vậy hơn ai hết cần có sự giáo dục các con ngay từ độ tuổi Nhà Trẻ để
9
cung cấp cho các con những kĩ năng sống cần thiết. Tơi dạy trẻ khơng nhịm vào
những ống cống ngầm, miệng hố ga vì đơi khi nó được đậy khơng kín dễ rơi
xuống. Nếu khơng chú ý giẫm phải sẽ bị lật nắp hố ga và rơi xuống hố rất nguy
hiểm đến tính mạng. Nếu bé bắt buộc phải đi qua thì nên đi vịng qua miệng hố ga,
ống cống, không chơi nghịch chạy nhảy bên trên và bên cạnh miệng hố.
Giải thích cho các bé hiểu khơng nên chơi nhảy, đùa nghịch cạnh cơng trường
đang xây dựng vì dễ bị gạch ngói , gỗ vụn rơi trúng đầu bị thương hoặc có thể
giẫm phải đinh ốc gây chảy máu, nhiễm trùng,….
4.2. Dạy trẻ các kĩ năng sống mọi lúc mọi nơi
Tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể hoặc chủ đề mà cô dạy trẻ các kĩ năng nhưng
hàng ngày có rất nhiều các tình huống để dạy trẻ.
4.2.1 Đón trẻ:
Cô dạy trẻ kĩ năng giao tiếp, biết đến lớp chào cô, chào các bạn và quay lại
chào người đưa mình đi lớp. Ai hỏi phải lễ phép thưa gửi. Biết cảm ơn và xin lỗi.
4.2.2 Giờ học
Tôi dạy các con: Không may giẫm phải chân làm bạn ngã hoặc trêu bạn phải
biết xin lỗi bạn. Giờ học cần mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến. Khi bạn cào, cấu,
đánh,...phải biết bảo cô. Cô dạy trẻ biết bày tỏ nhu cầu nếu khát nước, đau bụng,
buồn nôn, buồn đi vệ sinh, yếu mệt, nóng bức, lạnh,...
Tơi lồng ghép dạy trẻ nhận biết và cách phòng tránh các vật dụng nguy hiểm,
những nơi nguy hiểm, những hành động nguy hiểm. Tôi giáo dục trẻ không nghịch
ổ cắm điện, không sử dụng các vật dụng sắc nhọn, hột hạt nhỏ tránh những thương
tích đáng tiếc xảy ra....
4.23. Giờ ngủ
Trước khi đi ngủ tơi giáo dục trẻ khơng chùm chăn che kín mặt, khơng ngậm
hột hạt, dây buộc tóc trong miệng rồi ngủ. Buồn đi vệ sinh phải biết thưa cô. Biết
bảo cô khi bạn đạp chăn ra, bạn đái dầm...
4.2.4 Giờ ăn:
Ngay từ khi tiếp nhận trẻ vào lớp tôi đã uốn nắn giáo dục trẻ thói quen ăn
uống lịch sự, nghiêm túc. Khơng đánh rơi vãi thức ăn, khơng có thói quen xấu như
10
nhai tóp tép làm bắn thức ăn, nói chuyện bắn nước bọt vào người khác, không nên
húp canh gây tiếng động, khơng gõ bát thìa, trước khi ăn biết mời cô, mời các bạn,
tự lập xúc cơm cho hết xuất,...hắt hơi phải biết che miệng...Biết bày tỏ nhu cầu khi
thức ăn không phù hợp hoặc ho và buồn nôn....Ăn xong biết cất ghế đúng nơi quy
định và đi lau mồm, đi vệ sinh sau khi ăn xong.
4.2.5 Giờ chơi:
Bị chảy máu cam, chảy nước mũi, sốt, sứt sát chân tay,....biết gọi cô, mách
cô. Khi chơi biết hợp tác chia sẻ, nhường đồ chơi với bạn. Chơi xong biết cất đồ
chơi đúng quy định
4.3. Tuyên truyền và phối kết hợp với các bậc phụ huynh cách dạy trẻ kĩ năng
sống trong gia đình
Trong và ngồi lớp tơi đều có những mảng tuyên truyền về việc dạy trẻ các kĩ
năng sống cần thiết. Trong các buổi họp phụ huynh học sinh và trong giờ đón trả
trẻ tơi đều tun truyền cho các bậc phụ huynh nắm được sự cần thiết của việc rèn
kĩ năng sống cho trẻ sau đó phơ tơ mỗi bậc phụ huynh một bản. Các điều cần thiết
dạy trẻ gồm:
4.3.1 Luôn đặt việc quan tâm tới người khác lên hàng đầu.
Các bậc cha mẹ thường có xu hướng cung phụng cho con cái, cung cấp đáp
ứng đầy đủ vật chất cho con mà không quan tâm chú trọng đến việc dạy con biết
chia sẻ với người khác. Chính điều đó tạo nên tính ích kỉ, ỷ lại ở trẻ. Vì vậy cha mẹ
cần dạy trẻ biết quan tâm, chia sẻ với người khác: chia đồ chơi cho bạn, có bánh
kẹo biết sẻ chia, ông bà bố mẹ ốm đau biết hỏi han, động viên và có các cử chỉ ân
cần. Cha mẹ cần tạo cơ hội để trẻ tập quan tâm, chăm sóc người khác bởi trẻ khơng
thể trở thành người tốt khi khơng có sự hướng dẫn dìu dắt của người lớn, trẻ sẽ
khơng thể tự mình trưởng thành được. Chúng cần được thực hành thường xuyên
việc quan tâm, chăm sóc người khác, cũng như bày tỏ sự biết ơn đối với những
người yêu thương, quan tâm tới chúng. Cha mẹ cần là tấm gương lớn cho trẻ noi
theo. Trẻ sẽ học các giá trị đạo đức bằng cách quan sát hành động của những người
xung quanh. Cha mẹ hãy thành thật, công bằng với trẻ và luôn quan tâm đến người
11
khác, biết thừa nhận sai lầm và khuyết điểm cũng như tôn trọng suy nghĩ và lắng
nghe quan điểm của chúng.
4.3.2 Hãy để con vấp ngã
Ngày nay khơng ít phụ huynh nâng niu và bao bọc con mình quá mức khiến trẻ
mất đi sự tự do phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và trong tương lai trẻ khó
có khả năng kiểm sốt chính cuộc sống của mình. Nhiều cha mẹ không cho phép
con cái tự do chạy nhảy vui chơi vì lo chúng bị thương, khơng cho con trải nghiệm
thú vị chơi với màu nước, chơi với đất cát vì sợ bẩn khiến trẻ rất thụ động. Thấy
con ngã thì xót xa vội chạy đến nâng niu, đánh chừa cái chỗ làm trẻ ngã. Điều đó
khiến trẻ cứ bị ngã là ăn vạ, chờ người chạy ra đỡ chứ nhất định không chịu đứng
dậy hoặc điệu bộ xuýt xoa kêu đau mãi. Vì vậy cha mẹ hãy để bé vấp ngã và
khuyến khích trẻ tự đứng lên cũng là một kĩ năng sống cần thiết. Có đứa trẻ nào
lớn lên mà không một lần vấp ngã? Mỗi lần ngã là mỗi lần trẻ tự đứng dậy và học
được cách để không ngã lần nữa. Sự học hỏi đó dần dần sẽ giúp trẻ tự đối mặt
được với những khó khăn, trắc trở trong cuộc sống. Một con tằm phải trải qua đau
đớn để tự chui ra khỏi kén và trở thành con bướm biết bay, hãy để trẻ tự trải
nghiệm những vấp ngã để có thể bước ra khỏi vịng tay của gia đình và bay cao,
bay xa. Khi con ngã cha mẹ hãy để con tự đứng lên, hãy động viên con tìm nguyên
nhân vấp ngã, hãy để con chịu trách nhiệm nếu do con gây ra, hãy khuyến khích
con tự tìm cách tránh vấp ngã lần sau. Có như vậy con mới tự tin và dũng cảm đối
mặt với các khó khăn cũng như các trách nhiệm của bản thân sau này.
4.3.3 Dạy con làm việc nhà
Thơng qua các cơng việc nhà, trẻ có thể biết được lao động là vất vả như thế
nào và hình thành ý thức coi trọng thành quả của lao động. Nếu không các con sẽ
trở nên lười biếng, ỷ lại và sau này sẽ thiếu tự tin trong cuộc sống do khơng biết
làm gì cả. Khi bé bắt tay vào làm việc nhà cha mẹ hãy bật một bản nhạc vui tươi,
dí dỏm lên điều đó giúp cho bé và mọi người cảm thấy hào hứng. Hãy nên dành
cho con những lời khen ngợi tích cực cho dù đơi khi bé còn làm cha mẹ bận thêm
ra. Khi giao việc nhà cho con, cha mẹ cũng cần lưu ý rằng trẻ rất nhanh chán và
thường chỉ hào hứng với những điều mới lạ. Do đó phải thường xuyên thay đổi để
12
cơng việc thêm thú vị. Khơng nên q kì vọng vào kết quả làm việc của con. Khi
mới bắt đầu cơng việc của mình, bé có thể làm sai, làm hỏng hoặc bỏ dở dang
không theo ý cha mẹ nhưng cha mẹ cũng không nên cáu gắt hoặc tỏ ý thất vọng,
bình phẩm, soi mói kết quả mà con đã đạt được mà nên quan tâm đến nỗ lực mà
con đã cố gắng. Hãy biến lao động trở thành niềm vui của con để con thêm hào
hứng và tự hào vì mình đã làm được những việc có ích.
Cha mẹ dạy con làm việc nhà tức là đã chia sẻ được sự vất vả của mình để các
thành viên trong gia đình cùng nhau gánh vác. Ngồi ra khi các con làm việc nhà là
lúc mà cha mẹ có cơ hội khám phá thêm nhiều đặc tính của con mà bình thường
chưa phát hiện ra như sự khéo léo, tính kiên nhẫn, tính sáng tạo,...Nhưng khi quyết
định cho con tham gia cùng làm việc nhà, trước tiên cần cân nhắc xem công việc
nào là phù hợp với tuổi của con.
4.3.4 Dạy trẻ cách tự làm vệ sinh cá nhân
Vệ sinh cá nhân tốt trẻ trông sẽ rất sạch sẽ và đáng yêu, thêm vào đó sẽ tác
động tốt đến sức khỏe của trẻ do đó phụ huynh rất cần phải tạo cho trẻ có thói quen
và ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân. Ở độ tuổi 24-36 tháng phụ huynh có thể dạy con
cách rửa mặt, rửa tay, chân, đánh răng, mặc quần áo, tự đi vệ sinh,…
Tôi khuyến khích phụ huynh tạo hứng thú cho trẻ khi vệ sinh cá nhân bằng
cách khuyến khích trẻ hát mỗi khi rửa tay chân “ đôi bàn tay”, đánh răng “ vui đến
trường”, rửa mặt “ rửa mặt như mèo”…Những điều này sẽ khiến trẻ vui vẻ hơn khi
thực hiện các cơng việc vệ sinh cá nhân. Cha mẹ cũng có thể thơng qua trị chơi để
hướng dẫn trẻ vệ sinh cá nhân như: chơi nấu ăn và sau đó ăn cơm. Trước khi ăn
phải đi rửa tay sạch bằng xà phịng, sau khi ăn cần rửa mặt, rửa tay,….Cần khuyến
khích trẻ và nhẹ nhàng hướng dẫn. Cha mẹ nên là những tấm gương về việc giữ
gìn vệ sinh cá nhân để trẻ học theo, vì trẻ nhỏ thường bắt chước các hành vi của
người lớn, nhất là cha mẹ. Vì thế hãy vừa dạy vừa hướng dẫn trẻ làm theo một
cách thật kiên trì.
4.3.5 Dạy trẻ khơng sống ích kỉ:
4.3.5.1 Dạy trẻ biết sẻ chia, cảm thông
13
Trẻ em ngày nay rất dễ trở nên ích kỉ, khơng biết chia sẻ nếu cha mẹ khơng
có những biện pháp quan tâm thích đáng. Chỉ cần một câu khích lệ trẻ là cha mẹ đã
củng cố thêm mong muốn thực hiện những hành động tốt của trẻ. Cha mẹ hãy
khuyến khích bé mang một món đồ chơi mà bé u thích (ơ tơ, búp bê, thú bơng,
…) mang đến nhà bạn và rủ bạn chơi cùng. Chia sẻ là một việc quan trọng, không
phải đứa trẻ nào cũng dễ mang cái “ của tơi” đi “ cho bạn” vì thế cha mẹ cần hết
sức khéo léo trong vấn đề này. Phải làm sao để khơi dậy tình cảm yêu thương của
trẻ với mọi người xung quanh. Dạy trẻ biết dỗ dành khi bạn khóc, động viên quan
tâm và có những cử chỉ thể hiện cử chỉ ân cần khi thấy người thân ốm mệt, ...
Dạy trẻ cư xử tử tế cũng quan trọng như việc dạy trẻ cách chia sẻ đồ chơi và
bán kẹo của chúng. Trẻ sẽ ích kỉ cho tới khi có điều gì đó khơi dậy sự cảm thông
trong chúng. Hãy để trẻ trải nghiệm cảm giác tuyệt vời thế nào khi quan tâm tới
người khác thơng qua những hành vi u thương của mình. Cha mẹ hãy thể hiện sự
cảm thông với con và bé sẽ học được cách để làm việc tương tự ấy với người khác.
Hãy để trẻ diễn đạt cảm xúc và cư xử với người khác bằng sự tôn trọng được học
từ bố mẹ.
4.3.5.2 Dạy trẻ biết cho – tặng
Đó gọi là việc chia sẻ cấp cao trong cái thế giới cho - nhận của chúng ta - cho
đi thật vui vẻ và dễ dàng. Khi trẻ nhận được một món đồ chơi hay quần áo mới, trẻ
phải quyết định bỏ một thứ gì đó để thay thế vị trí. Hãy cho trẻ biết nên quyên góp
những thứ này cho một tổ chức từ thiện. Họ sẽ mang tới cho các bạn nghèo ở vùng
cao, các bạn ấy rất thiếu thốn khơng bao giờ có được những thứ này. Khi nhận
được các bạn ấy sẽ rất vui và rất biết ơn con. Cha mẹ cũng có thể tạo cơ hội cho trẻ
tham gia giúp đỡ cộng đồng khó khăn như cùng cha mẹ đến thăm các bạn trong
trại trẻ mồ côi, khuyết tật, phục vụ bữa ăn ở các mái ấm tình thương, dọn dẹp vệ
sinh nơi cơng cộng,…Đó là cách để trẻ trực tiếp nhìn thấy hồn cảnh khó khăn của
người khác và trải lịng mình ra dễ dàng hơn.
4.3.5.3 Dạy trẻ chịu trách nhiệm
14
Trách nhiệm giúp trẻ sống có trách nhiệm với bản thân và những người xung
quanh, làm nhiều việc có ích cho gia đình và xã hội. Khơng khó để dạy trẻ trở lên
khơng ích kỉ nếu cha mẹ biết quan tâm và dạy con đi đúng hướng.
Trẻ sẽ trở thành một đứa con ngoan, một cơng dân có ích nếu cha mẹ và thầy
cô thường xuyên rèn luyện những kĩ năng sống cần thiết để trẻ vững tin bước vào
đời với một tương lai sáng lạng.
5. Kết quả đạt được
Sau một thời gian thực hiện nhờ những biện pháp thích hợp đã giúp trẻ phát
triển đúng tâm lý lứa tuổi trẻ lớp tơi có rất nhiều tiến bộ, trẻ có sức khỏe tốt, tự tin,
mạnh dạn để học tập và sống tích cực, phát huy tốt những khả năng và sở trường
của mình. Cùng với những bài tuyên truyền, trao đổi cởi mở với phụ huynh về
quan điểm của mình về việc dạy những kỹ năng sống cho trẻ, từ đó phụ huynh
ngày càng tin tưởng, có ý thức và trách nhiệm cao hơn khi phối hợp cùng cô để dạy
những kỹ năng sống phù hợp cho trẻ.
Qua việc rèn kĩ năng sống cho trẻ kết quả thu được như sau:
Thời
gian
Số
trẻ
Tỉ lệ đạt %
Các kĩ năng
Tốt
Khá
Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng hợp tác
13=86%
13=87%
1=7 %
2=13%
Sự mạnh dạn tự tin
14= 93%
1=7%
Kĩ năng nhận thức 14=93%
Kĩ năng ứng xử các
11=73%
tình huống
So sánh đối chứng:
1=7%
điều tra
1/2020 15
3=20%
Đạt yêu cầu
1= 7%
1=7%
* Trước khi chưa áp dụng các biện pháp: (Tháng 9 năm 2019)
Thời
Số
gian
trẻ
Các kĩ năng
Tỉ lệ đạt %
Tốt
điều tra
15
Khá
Đạt yêu cầu
9/2019
15
Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng hợp tác
Sự mạnh dạn tự tin
2 = 13%
2=13%
1=7%
8=53%
5=33%
8=53%
5=33%
8=53%
6= 40%
Kĩ năng nhận thức
3=20%
8=53%
4=26%
6=40
8=53%
Kĩ năng ứng xử các 1=7%
tình huống
* Sau khi áp dụng các biện pháp: (Tháng 1 năm 2020)
Thời
Số
gian
trẻ
Các kĩ năng
Tỉ lệ đạt %
Tốt
Khá
Đạt yêu cầu
điều tra
1/2020
15
Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng hợp tác
Sự mạnh dạn tự tin
13=86%
13=87%
14= 93%
1=7 %
2=13%
1=7%
Kĩ năng nhận thức
14=93%
1=7%
Kĩ năng ứng xử các 11=73%
3=20%
1=7%
1=7%
tình huống
Qua việc thực hiện các biện pháp trên tơi thấy kết quả đạt được rất khả quan:
Về phía giáo viên, chúng tôi đã xác định rõ và nhận thức sâu sắc về việc dạy
trẻ kĩ năng sống. Mạnh dạn tự tin điều khiển các buổi họp phụ huynh, biết tự chuẩn
bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ đồng thời giải quyết
hợp lý, cơng bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp. Trong giảng
dạy, đã chú trọng hơn đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm. Các tiết đánh giá
dự giờ của các cấp đều đạt loại giỏi.
Về phía các bậc phụ huynh, ln coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các
hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường. Các buổi họp phụ huynh được các bậc cha mẹ
tham gia có mặt chiếm tới 95%. Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp
chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy các kĩ năng sống. Giao tiếp giữa cha mẹ và con
cái tốt hơn, trò chuyện và chơi cùng với trẻ nhiều hơn. Cha mẹ đã thay đổi trong
cách rèn kĩ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, khơng
cịn tình trạng bố mẹ bế trẻ đặt vào tận ghế ngồi ở lớp, đi vệ sinh bắt bế trẻ để xi rồi
16
phải kéo quần lên cho trẻ, khơng cịn hình ảnh bố mẹ đút cho trẻ ăn sáng phải đuổi
trẻ khắp sân trường mà xuất hiện nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lơ tới lớp chạy ùa
vào lịng cơ, chào cô, chào bố mẹ rồi cất ba lô vào vị trí quy định. Cha mẹ cảm
thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà
trường, khơng chê bai chỉ trích cơ giáo ngược lại cha mẹ rất thơng cảm , chia sẻ
những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp,
làm đồ chơi.
Rất nhiều phụ huynh rất vui qua một thời gian cho con ra lớp đã trao đổi với
cô "Từ khi cháu ra lớp về nhà cháu biết chào hỏi rất cởi mở, giao tiếp với mọi
người một cách tự tin hơn, hay cháu nhà tơi đến bữa cơm cịn địi cầm thìa và nhận
"để con tự xúc cơm như ở lớp cơ"..ngồi ra cịn biết tự đi vệ sinh…khơng ỷ lại
hay có phụ huynh còn khoe " cháu về nhà biết lấy tăm cho ông, …làm cho cả nhà
ai cũng rất vui"...
Về phía trẻ: Kết quả khảo sát cho thấy 100% trẻ rất mạnh dạn tự tin, có kĩ
năng giao tiếp và khả năng tự lập cao. Kĩ năng hợp tác đã hình thành rõ rệt, trong
lớp trẻ đã biết chia sẻ đồ chơi với bạn, biết phối hợp với bạn khi học, khi chơi. Trẻ
biết tự đi vệ sinh, biết gọi cô khi có nhu cầu khát nước, mệt, sổ mũi,…Biết chào
hỏi, cảm ơn xin lỗi rất lễ phép. Có khách bước vào lớp không cần cô nhắc nhở trẻ
biết chào hỏi ngay. Các nề nếp thói quen như tự đi vệ sinh, tự xúc cơm ăn, biết mặc
quần áo,…đã trở nên thuần thục.
Có được thành quả trên khơng chỉ là sự nỗ lực của bản thân tơi mà cịn là sự
quan tâm của Ban Giám Hiệu, sự phối kết hợp chặt chẽ của các bậc phụ huynh.
Chính điều đó là nhân tố quyết định nên kết quả này.
6. Điều kiện để sáng kiến nhân rộng:
6.1 Về nhân lực:
Các bậc phụ huynh chính là nguồn nhân lực quan trọng nhất bởi khơng có sự
giáo dục kĩ năng sống thường xuyên liên tục mà chỉ dừng lại ở phạm vi trong nhà
trường là thì sự giáo dục kĩ năng sống cũng chỉ là con số khơng. Bởi khơng có sự
đồng nhất trong giáo dục sẽ là “ trống đánh xuôi kèn thổi ngược” trẻ sẽ bị “ lỗng”
khi sự giáo dục mang tính chất đối chiều. Giáo viên cũng đóng góp một phần
17
không nhỏ trong việc truyền bá kiến thức nuôi dạy trẻ, các phong trào thi đua, các
cuộc vận động,....tới các bậc phụ huynh. Và để làm được điều đó địi hỏi người
giáo viên cần phải có kiến thức nhất định cùng với việc tìm tịi, nghiên cứu, sáng
tạo nên các phương pháp truyền thụ.
Hơn nữa sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, các cấp, các ngành về vấn đề dạy
kĩ năng sống cho trẻ cũng là một điều hết sức cần thiết và nên làm bởi “ Một cây
làm chẳng nên non- Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Cấp trên có quan tâm chỉ
đạo thì cấp dưới mới hồn thành tốt được nhiệm vụ rồi từ đó nhân rộng ra, đi sâu
tới các hộ gia đình.
6.2 Về trang thiết bị:
Các trang thiết bị dạy học hiện đại ( vi tính, , ti vi, băng đĩa,, sách, tranh ảnh,..) là
điều không thể thiếu để mang tới cho trẻ những hình ảnh sống động trực quan giúp trẻ
dễ hiểu và cảm nhận mọi thứ hơn. Các đồ dùng mang tính trải nghiệm, khuôn viên,
cảnh quan, vườn trường, bể cá,.... giúp trẻ phát huy tính tích cực cũng là nhân tố làm
nên sự thành công trong công tác dạy và học.
6.3. Truyền thơng:
Truyền thơng đóng vai trị rất quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến
kiến thức tới tất cả cộng đồng. Làm cho cộng đồng ai ai cũng biết đến, cũng quan
tâm và thực hiện theo. Có như vậy giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mới thực sự là
giáo dục của toàn dân.
18
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, các con không chỉ được học về kiến thức mà cịn được tơi luyện những kĩ năng
sống qua đó tạo cho các con một mơi trường lành mạnh, an tồn, tích cực, vui vẻ.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngay từ độ tuổi nhà trẻ sẽ rút ngắn thời gian để
trang bị cho các con vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước
vào đời. Chính vì vậy người giáo viên mầm non và những người làm cha làm mẹ
chính là những chuyên gia tuyệt vời nhất giúp trẻ hình thành và phát triển tối đa
khả năng của trẻ từ những việc làm giản dị nhất trong cuộc sống hàng ngày.
Giáo dục kĩ năng sống là một nhiệm vụ quan trọng của hệ thống giáo dục và
là nhiệm vụ quan trọng của mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường làm nền tảng
quan trọng để các con hội nhập vào đời sống xã hội một cách tự tin. Sống, học tập,
lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ
bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây đời mãi mãi xanh tươi.
Các con được trau dồi kĩ năng sống cũng chính là đang ươm mầm cho thế hệ tương
lai, những cơng dân có ích cho xã hội Việt Nam.
2. Khuyến nghị
* Về phía Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
- Cần sớm có các quy định hướng dẫn cụ thể về chương trình giáo dục kĩ
năng sống cho bậc học Mầm Non.
- Cần đưa chương trình giáo dục kĩ năng sống vào các trường đào tạo chuyên
nghiệp giáo viên Mầm Non.
* Về phía lãnh đạo Sở Giáo Dục, Phịng Giáo dục:
- Cần có những biện pháp chỉ đạo thống nhất các lực lượng giáo dục nhằm
tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho giáo viên và học sinh.
19
- Tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên về nội
dung, phương pháp, hình thức giáo dục kĩ năng sống cho trẻ Mầm Non.
* Về phía nhà trường:
- Cần tăng cường hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị, tài liệu tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình giáo dục kĩ năng sống của giáo viên.
- Tổ chức các hoạt động theo định kì như các hoạt động: Thi đua chào mừng
các ngày lễ lớn, các trò chơi tập thể vui tươi , lành mạnh, tổ chức các ngày hội của
bé tạo khơng khí sôi nổi , mạnh dạn, tự tin cho cô và trị.
* Về phía giáo viên:
- Cần nhận thức đúng về vai trò ý nghĩa của giáo dục kĩ năng sống, nội dung
giáo dục, cách thức và biện pháp thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
- Giáo viên cần có chuẩn mực về kĩ năng sống, phương pháp và kĩ năng giáo dục
kĩ năng sống cho trẻ. Thường xuyên cập nhật kiên thức về nội dung, phương pháp,
các hình thức tích hợp, lồng ghép giáo dục vào chương trình dạy trẻ.
- Cần lắng nghe ý kiến của trẻ, không gị bó, áp đặt trẻ, tích cực đổi mới
phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích cực ở trẻ .
Trên đây là “ Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho trẻ 24-36 tháng”, có lẽ
cũng cịn rất nhiều điều cần sự đóng góp, bổ sung của các cấp. Rất mong nhận
được sự giúp đỡ, đóng góp nhiệt tình của các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
20
PHỤ LỤC
THƠNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
TĨM TẮT SÁNG KIẾN
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
2. Cơ sở lý luận
3. Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống cho trẻ.
3.1 Thuận lợi
3.2 Khó khăn
4.Các giải pháp thực hiện
4.1. Dạy trẻ các kĩ năng ứng xử với một số tình huống để bảo vệ bản thân.
4.1.1 Khơng đi theo người lạ
4.1.2 khơng trèo cây
4.1.3 Bé ứng phó với biến đổi khí hậu
4.1.4 Bé vui chơi thả diều
4.1.5 Bé đi cơng viên
4.1.6 Chú ý khi chơi cầu trượt
4.1.7 Phịng ngừa điện giật
4.1.8. Tránh xa các công trường xây dựng và hố ga, miệng cống ngầm
4.2 Dạy trẻ các kĩ năng sống mọi lúc mọi nơi
4.2.1Đón trẻ
4.2.2 Giờ học
4.2.3 Giờ ngủ
4.2.4 Giờ ăn
4.2.5 Giờ chơi
4.3 Tuyên truyền và phối kết hợp với các bậc phụ huynh cách dạy trẻ kĩ năng sống
trong gia đình.
21
4.3.1 Luôn đặt việc quan tâm tới người khác lên hàng đầu
4.3.2 Hãy để con vấp ngã
4.3.3 Dạy con làm việc nhà
4.3.4 Dạy trẻ cách tự làm vệ sinh cá nhân
4.3.5 Dạy trẻ khơng sống ích kỉ
4.3.5.1 Dạy trẻ biết sẻ chia, cảm thông
4.3.5.2 Dạy trẻ biết cho – tặng
4.3.5.3 Dạy trẻ chịu trách nhiệm
5. Kết quả đạt được
6. Điều kiện để sáng kiến nhân rộng
6.1 Về nhân lực
6.2 Về trang thiết bị
6.3. Truyền thông
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
22
23