Trường Cao Đẳng Sư Phạm Gia Lai
Khoa: Giáo dục mầm non
TIỂU LUẬN
ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ KHIẾM THÍNH
Tiểu luận mơn: Giáo dục hịa nhập
Tên đề tài: Đặc điểm phát triển của trẻ khiếm thính
Giáo viên hướng dẫn: Vương Thị Luận
Sinh viên thực hiện: Trương Bảo Ngân
Mã số sinh viên : 231279267
Lớp : CCMN19
Năm học: 2021 – 2022
Mục lục
I.
Mở đầu.....................................................................................................................................................3
1.
Một số khái niệm trẻ khiếm thính là gì ?.........................................................................................4
2.
Những khó khăn của trẻ khiếm thính..............................................................................................4
3.
4.
2.1.
Giao tiếp.......................................................................................................................................4
2.2.
Học hành.....................................................................................................................................4
2.3.
Xã hội...........................................................................................................................................5
2.4.
Tâm lý...........................................................................................................................................5
Nguyên nhân trẻ khiếm thính...........................................................................................................5
3.1.
Trước khi sinh.............................................................................................................................6
3.2.
Sau khi sinh.................................................................................................................................6
3.3.
Nguyên nhân sau khi sinh..........................................................................................................6
Các đặc điểm hoạt động nhận thức của trẻ khiếm thính...................................................................6
5.
4.1.
Nhận thức cảm tính....................................................................................................................6
4.2.
Nhận thức lý tính........................................................................................................................7
Đặc điểm của trẻ khiếm thính...........................................................................................................8
5.1.
Đặc điểm cảm giác – tri giác của trẻ khiếm thính....................................................................8
5.2.
Đặc điểm tư duy tưởng tượng của trẻ khiếm thính..................................................................9
5.3.
Đặc điểm trí nhớ trẻ khiếm thính...............................................................................................9
5.4.
Đặc điểm hoạt động nhận thức của trẻ khuyết tật ngôn ngữ..................................................9
5.5.
Đặc điểm ngơn ngữ nói của trẻ khiếm thính..........................................................................10
5.6.
Đặc điểm sử dụng các phương tiện giao tiếp của trẻ khiếm thính........................................11
6.
Vai trị các cơ quan trong cơ thể khi giao tiếp của trẻ khiếm thính...........................................11
7.
Hậu quả của trẻ khiếm thính..........................................................................................................14
8.
Vai trị của gia đình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ khiếm thính......................................15
9.
Cách giao tiếp với trẻ khiếm thính.................................................................................................15
9.1.
Hình thức giao tiếp nào phù hợp với trẻ.................................................................................15
9.2.
Lưu ý khi giao tiếp với trẻ khiếm thính......................................................................................15
III.
Kết luận.............................................................................................................................................17
IV.
Tài liệu tham khảo...........................................................................................................................18
I.
Mở đầu
Trẻ em là tương lai của đất nước. Tuy nhiên, trẻ em sinh ra và lớn lên không
phải trẻ nào cũng giống trẻ nào, không phải trẻ nào cũng may mắn như nhau. Hiện
nay, trong xã hội đang tồn tại một bộ phận lớn trẻ khuyết tật mà 20% trong số đố
là trẻ khiếm thính. Việc phát hiện, chẩn đốn và can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Can thiệp sớm sẽ giúp giảm thiểu đáng kể ảnh
hưởng của khuyết tật đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt về khả năng ngơn ngữ
và giao tiếp. Ngồi ra, can thiệp sớm cịn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
và cuộc sống của trẻ, gia đình trẻ sau này, chuẩn bị tiền đề cho trẻ học hịa nhập ở
các trường phổ thơng. Hiện nay công tác giáo dục trẻ khuyết tật rất được quan
tâm, hầu như các tỉnh thành trên cả nước đều có trường chuyên biệt để chăm sóc
giáo dục cho trẻ khuyết tật. Chiến lược Giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam đã được
Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định chủ yếu là giáo dục hòa nhập. Hướng tới các
trẻ khuyết tật sẽ được tạo cơ hội học tập như trẻ bình thường. Để thực hiện được
mục tiêu trên thì vai trị cơng tác can thiệp sớm cho trẻ có ý nghĩa rất quan trọng
trong cơng tác giáo dục trẻ khuyết tật, là bước đầu quyết địnhsự thành công của
giáo dục hòa nhập và được tiến hành trong giai đoạn trẻ từ 0 đến 6 tuổi. Công tác
can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Gia Lai hiện nay hiệu quả chưa cao, xã hội
và phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác can thiệp sớm nên
gia đình có con em bị khuyết tật nói chung và các em khiếm thính nói riêng cịn
gặp nhiều hạn chế trong cuộc sống, học tập và sinh hoạt giao tiếp. Có những trẻ
nếu được can thiệp sớm có thể phục hồi chức năng nghe, nói bình thường, mang
lại hiệu quả rất cao nếu chậm trễtrẻ sẽ bị thiệt thòi rất lớnmất đi khả năng nhận
thức, khả năng phát triển ngơn ngữ. Có nhiều gia đình vì hồn cảnh kinh tế khó
khăn nên khơng mua được máy trợ thính phù hợp cho con em để hỗ trợ phục hồi
sức nghe cho trẻ.Trẻ em không được phát hiện sớm về tật thính giác, nhất là ở vùng
sâu vùng xa chưa được quan tâm sâu sát, trẻ khơng có cơ hội được hợp tác can
thiệp sớm kịp thời như những trẻ em khác có đủ điều kiện hơn. Mạng lưới phục vụ
y tế tâm lí, giáo dục... chưa phối hợp chặt chẽ cùng gia đình , nhà trường và xã
hội.Chính vì thế, tơi chọn đề tài “ Đặc điểm phát triển của trẻ khiếm thính ” mong
muốn được chia sẻ những kiến thức, kỹ năng trong giáo dục trẻ khiếm thính tại gia
đình nhằm tạo mọi điều kiện cho trẻ hòa nhập và phát triển tốt hơn so với trẻ
phát hiện và can thiệp muộn.
II.
-
-
-
Nội dung thực hiện
1. Một số khái niệm trẻ khiếm thính là gì ?
Trước hết, trẻ khuyết tật là những trẻ có khiếm khuyết về cấu trúc hoặc chức
năng cơ thể hoạt động khơng bình thường dẫn đến gặp khó khăn nhất định
và khơng thể theo học được chương trình giáo dục phổ thơng nếu không
được hôc trợ đặc biệt về phương pháp giáo dục – giáo dục và những trang
thiết bị trợ giúp cần thiết.
Trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm sức nghe ở các mức độ khác nhau
trong giao tiếp và ảnh hưởng đến q trình nhận thức của trẻ.
Khiếm thính là một khuyết tật vơ hình, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển về mọi mặt của trẻ, nhất là trong việc tiếp nhận giáo dục. Các học sinh
bình thường có thể phản ứng, ghi chép ngay lập tức khi nghe được bài giảng,
tiếp thu nhanh chóng. Cịn trẻ khiếm thính chúng có thể tiếp thu kém hơn, tư
duy và phản ứng cũng chậm hơn, ngay cả khi có máy trợ thính. Để hỗ trợ trẻ
khiếm thính có được cơ hội học tập tốt hơn, cần có phương pháp giáo dục
phù hợp.
Trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm sức nghe ở các mức độ khác nhau
trong giao tiếp và ảnh hưởng đến quá trình nhận thức của trẻ.
Khiếm thính bẩm sinh có thể ảnh hưởng tới khả năng phát triển ngơn ngữ.
Nếu khơng có hướng điều trị sớm ngay từ khi cịn nhỏ chỉ sẽ khơng thể nói
được ảnh hưởng tới trí tuệ và tư duy của trẻ.
2. Những khó khăn của trẻ khiếm thính
2.1.
Giao tiếp
Trẻ khiếm thính thường khó bắt kịp vào các cuộc nói chuyện đang diễn ra
xung quanh do khả năng nghe kém và hiểu khơng thấu đáo ý nghĩa của cuộc nói
chuyện. Dẫn đến việc trẻ thường ngơ ngác khi được hỏi và phải hỏi lại người đối
thoại. Nếu bị điếc, trẻ hoàn toàn phải sử dụng dấu và cử chỉ để giao tiếp. Đây được
xem là khó khăn đối với mọi người xung quanh vì phải học ra dấu, ký hiệu để có
thể giao tiếp với trẻ.
2.2.
Học hành
Trẻ khiếm thính có thể gặp khó khăn khi đọc khẩu hình miệng vì rất nhiều
âm có hình miệng giống nhau, hoặc khơng thể thấy trên hình miệng. Vì trẻ khiếm
thính khơng nghe được như bình thường nên việc nghe giảng cũng rất khó khăn,
dẫn tới các trở ngại trong học tập.
Độ tuổi tốt nhất để học ngôn ngữ là từ khi sinh ra đến 7 tuổi. Từ 2 - 4 tuổi là
giai đoạn trẻ tiếp thu kỹ năng ngơn ngữ nhiều nhất. Vì vậy, việc phát hiện trẻ
khiếm thính sớm, trợ thính sớm và giúp trẻ học ngơn ngữ sớm là rất quan trọng.
Nếu đến 7 - 8 tuổi trẻ vẫn chưa có ngơn ngữ thì việc học sau này rất khó khăn,
khơng có ngơn ngữ trẻ sẽ rất khó khăn để phát triển những kỹ năng tư duy.
Các mơn học như văn học, Tiếng Việt, Sử, Địa...địi hỏi kĩ năng nghe nói và
viết nhiều nên trẻ khiếm thính thường gặp khó khăn khi học những mơn này. Trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay, khơng có đủ giáo viên và giáo viên cũng không
đủ thời gian để kèm thêm cho trẻ. Những điều này trở thành trở ngại cho trẻ trong
học tập.
Để các trẻ em khác có thể giao tiếp tốt hơn với trẻ khiếm thính, giáo viên
nên làm một bảng chữ cái ngón tay treo ở một bên cạnh bảng đen. Mọi người trong
lớp học và trong gia đình nên học cách giao tiếp này để dễ dàng tương tác nói
chuyện với trẻ hơn.
2.3.
Xã hội
Trẻ khiếm thính thường bị hạn chế trong việc giao lưu, quan hệ xã hội và kết
bạn do gặp khó khăn về giao tiếp. Cha mẹ, thầy cô nên lưu ý về điều này và nên
tạo điều kiện để một vài bạn khác hỗ trợ trẻ trong các hoạt động chơi nhóm. Nếu
trẻ muốn tham gia chơi nhóm cần nắm được luật chơi và những quy định thưởng
phạt, tốt nhất nên chủ động sắp xếp người giải thích kỹ cho trẻ về việc này.
2.4.
Tâm lý
Đối với trẻ khiếm thính ở độ tuổi còn nhỏ, những trở ngại tâm lý chủ yếu
liên quan đến giao tiếp. Do gặp khó khăn trong việc thể hiện được nhu cầu hoặc vì
bất lực khơng hiểu những điều người xung quanh mong muốn, trẻ có thể cáu gắt,
hay nổi khùng, dễ gây gổ, đây là tâm lý bình thường và nên được thơng cảm.
Cịn ở độ tuổi thiếu niên, trẻ khiếm thính có thể bị mặc cảm, tự ti, ngại giao
tiếp, tránh người lạ... Cha mẹ và giáo viên cần tinh tế trước những thay đổi và
những biểu hiện tâm lý của trẻ để giúp trẻ tự tin, bình tĩnh hơn..
-
3. Nguyên nhân trẻ khiếm thính
3.1. Trước khi sinh
Do di truyền, nhiễu loạn về gen.
Do bị nhiễm độc trong thời lì thai nghén do thuốc, hóa chất
Do mắc bệnh trong thời kỳ thai nghén như cúm, sởi, giang mai...
Do đối kháng nhóm máu Rh giữa mẹ và con.
3.2. Sau khi sinh
Do đẻ non, đẻ khó, đẻ ngạt.
Do sang chấn khi đẻ, làm fooc – xep lấy thai.
3.3. Nguyên nhân sau khi sinh
Các nhiễm khuẩn, nhiễm vi-rút như viêm màng não, quai bị...
Các loại viêm tai, xương chũm.
Nhiễm độc do sử dụng thuốc đặc biệt là streptomycin.
Suy dinh dưỡng.
Các nguyên nhân khác.
4. Các đặc điểm hoạt động nhận thức của trẻ khiếm thính
4.1. Nhận thức cảm tính
Một đặc trưng của trẻ khiếm tính đó là cơ quan phân tích thính giác bị tổn
thương, dẫn đến trẻ bị giảm đáng kể khả năng tri giác âm thanh, đặc biệt âm thanh
ngôn ngữ. Sự hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức cảm tính. của trẻ. Khi
cơ quan thính giác bị tổn thương, những kích thích của các sự vật, hiện tượng lên
cơ quan phân tích thính giác khơng gây ra cảm giác nghe và không thể tạo ra tri
giác nghe. Chẳng hạn, nguồn âm thanh là tiếng trống tác động vào cơ quan thính
giác (trước hết tác động vào hệ thống dẫn truyền bắt đầu từ màng nhĩ của tai).
Nhưng cơ quan thính giác đã bị hỏng, cho nên tác động của tiếng trống không gây
ra cảm giác nghe và tri giác nghe. Tức là đứa trẻ không hề nhận biết được cường
độ, cao độ cũng như tính chất của tiếng trống. Do đó, trẻ khơng thể nhận thức được
một cách đầy đủ các yếu tố về tác nhận kích thích, bản chất của sự vật, hiện tượng
và hậu quả là có sự sai lệch nhất định trong nhận thức.
Cơ quan phân tích thính giác bị rối loạn làm cho q trình phối hợp giữa các
cơ quan cảm thụ khơng thực hiện được hoặc sự phối hợp đó khơng tốt. Điều đó
cũng ảnh hưởng đến việc nhận thức được tính toàn vẹn của sự vật, hiện tượng
(chẳng hạn như khi đứa trẻ nhìn thấy con vật hung dữ, nhưng lại nghe thấy tiếng
gầm rú của nó nữa thì sự nhận thức khơng chỉ hình dáng dữ tợn bề ngồi mà còn
về tính hung dữ của con vật này, do đó, q trình nhận thức này sẽ mang tính đầy
đủ, tồn vẹn về bản chất hơn). Sự rối loạn trong quá trình phối hợp cịn thể hiện ở
việc định hướng của cơ thể trong thế giới xung quanh, trẻ khiếm thính khó định vị
được những đồ vật, sự vật, hiện tượng không ở trong tầm quan sát bằng mắt mà
bằng âm thanh phát ra. Đây là một cản trở cho hoạt động nhận thức cảm thính của
trẻ khiếm thính.
Tuy nhiên, trẻ khiếm tính sẽ có khả năng nhạy bén hơn, tinh tế hơn ở cảm
giác nhìn. Trẻ có thể “ nghe được bằng mắt ”, cảm thụ được độ rung của âm thanh
bằng xúc giác khi phát âm đưa tay đặt lên cổ. Vì vậy, trong quá trình dạy học, nhất
là trong các tiết dạy ngôn ngữ cần đặc biệt chú ý rèn luyện cảm giác nhìn để làm
chức năng thay thế (đọc hình miệng, lĩnh hội ngơn ngữ kí hiệu).
4.2.
Nhận thức lý tính
Tư duy trực quan hành động và ngơn ngữ của trẻ khiếm thính kém phát triển
nên trong quá trình nhận thức trẻ thường bắt đầu từ cấp độ tư duy trực quan hành
động. Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng các
hành động vận động cụ thể, trong những tình huống nhất định và có thể quan sát
được. Ví dụ như bắt chước viết theo mẫu chữ có sẵn, làm phép tốn bằng cách sử
dụng đồ vật, que tính, các con số… Vì vậy, trong quá trình dạy học trẻ khiếm thính
cần chú ý đặc biệt đến việc tổ chức hoạt động với vật, hoạt động thực hành. Trẻ
cần được nhìn thấy, sờ mó vật và có những hành động trực tiếp trên đồ vật qua đó
để hình thành và phát triển tư duy trực quan hành động.
Mặc dù bị khiếm khuyết về chức năng thính giác song bù lại trẻ khiếm thính
thường có đơi mắt tinh nhanh. Do đó, khả năng quan sát các đồ vật thay thế bằng
hình ảnh, tranh vẽ là một trong những điểm mạnh của trẻ khiếm thính. Trẻ khiếm
thính có thể so sánh, phân biệt, khái qt hóa những hình ảnh khác nhau của sự vật,
hiện tượng trong thời gian nhanh với độ chính xác cao; trẻ cũng có thể dễ dàng làm
đúng các bài tốn thơng qua các vật thật hay vật thay thế tương ứng với các dữ
kiện của bài toán…
Tuy nhiên, tư duy trừu tượng ( tư duy ngôn ngữ - logic ) là loại tư duy mà
việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên việc sử dụng các khái niệm, các kết cấu
logic được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ. Trong q trình tư duy các thao tác
phân tích, tổng hợp, so sánh, khái qt hóa đều lấy ngơn ngữ làm phương tiện. Đối
với trẻ khiếm thính loại tư duy này gặp nhiều khó khăn vì ngơn ngữ nói của trẻ mất
hồn tồn hoặc kém phát triển.
-
-
5. Đặc điểm của trẻ khiếm thính
5.1. Đặc điểm cảm giác – tri giác của trẻ khiếm thính
Trẻ khiếm thính khơng thể tụ mình lĩnh hội được ngơn ngữ.
Trẻ khiếm thính sẽ bị cảm nếu nó khơng được phát hiện sớm những khó
khăn về thính giác và được hỗ trọ bằng những phương pháp chuyên biệt
trong việc tiếp nhận ngơn ngữ.
Ở trẻ khiếm thính do thiếu cảm giác nghe hoặc cảm giác nghe bị phá hủy,
cảm giác thị giác và cảm giác vận động có một vai trị đặc biệt quan trọng.
Thị giác của trẻ khiếm thính trở thành chủ đạo và chủ yếu trong việc nhận
thức thế giới xung quanh và trong việc tiếp nhận ngôn ngữ.
Trẻ khiếm thính có thể tiếp nhận ngơn ngữu dựa trên tri giác nhìn.
- Trẻ khiếm thính thường để ý những chi tiết nhỏ của thế giới xung quanh mà
trẻ bình thường khơng để ý đến.
Ví dụ:
Phân biệt phân biệt màu sắc: Việc phân biệt màu sắc gần giống nhau
như xanh đỏ da cam thì trẻ khiếm thính Phân biệt tinh tế hơn so với trẻ bình
thường
Phân biệt người tiếp xúc: Trẻ khiếm thính có thể nhận được thấy từng
chi tiết trên khn mặt thân hình cách ăn mặc màu sắc và chất liệu của quần
áo nhanh hơn so với người bình thường.
- Ở trẻ khiếm thính, tri giác phân tích thường trội hơn tri thức tổng giác.
- Trẻ khiếm thính thường làm chúng ta ngạc nhiên bằng khả năng dùng thị
giác tiếp nhận và phân biệt tinh tế những gì mà chúng ta nói với chúng.
- Xúc giác và cảm giác vận động đóng vai trị quan trọng trong qua trình nhận
thức của trẻ khiếm thính.
- Ở trẻ khiếm thính, sự mất thính lực khơng chỉ ảnh hưởng xấu đến sự vận
dộng của bộ máy hơ hấp mà cịn ảnh hưởng đến sự phối hợp các động tác
của cơ thể.
- Trẻ khiếm thính thường vụng về khơng khéo léo, rất khó khăn với những kỹ
năng lao động và thể thao, đòi hỏi sự phối hợp tinh tế và sự thăng bằng của
các động tác.
- Xúc giác rung của trẻ khiếm thính là đặc thù và độc đáo nhát. Đây là phương
tiện quan trọng trong giao tiếp nhận ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính.
-
-
-
-
-
-
5.2. Đặc điểm tư duy tưởng tượng của trẻ khiếm thính
Mất sự tưởng tượng, biểu thị ở chỗ con người khống chế lãng qn tình
hướng cụ thể, thay đổi nó, cải biến những thành tố riêng biệt của nó, thốt
khỏi ảnh hưởng của cái trực tiếp đã có.
Sự khó khăn hiểu được những ẩn dụ, những từ ở nghĩa bóng.
Người bị mất ngơn ngữ rất khó nhắc lại một câu trong đó khẳng định điều gì
đó trái với điều họ thấy, điều đó tróng lĩnh vực tri giác trực tiếp của họ.
Tưởng tượng tái tạo, giúp tầm hiểu biết của trẻ được mở rộng qua giới hạn
kinh nghiệm của loài người.
Sự hình thành tư duy bằng khái niệm quá chậm, làm chúng raatskhos thoát
khỏi ý nghĩa cụ thể, nghĩa đen của từ điều đó làm khó khăn cho sự bồn
chỉnh hình tượng mới.
5.3. Đặc điểm trí nhớ trẻ khiếm thính
Ta biết rằng vào lúc gần tròn một tuổi, trẻ bắt đầu ghi nhớ được từ. Tuy
nhiên, sự ghi nhớ này mang tính tự phát và khơng có chủ định. Ở trẻ khiếm
thính ghi nhận từ ngữ bắt đầu muộn hơn nhiều vì mất hẳn một khaongr thời
gian dài ban đầu rất quan trọng để tiếp nhận ngơn ngữ.
Một cơng trình nghiên cứu quá trình ghi nhớ dạng từ sau của học sinh điếc
và học sinh nghe được.
Trẻ khiếm thính kém hơn trẻ nghe được trong việc ghi nhớ những từ biểu thị
hiện tượng âm thanh. Trong khi đó, so với trẻ nghe được, trẻ khiếm thính
ghi nhớ tốt hơn những từ biểu thị chất lượng của những đồ vật tiếp nhận
được nhờ xúc giác.
Ở trẻ khiếm thính, biểu thị về âm thanh về các khách thể xuất hiện dựa trên
hoạt động của các giác quan còn lại.
Việc ghi nhớ những từ thuốc phạm vi những hiện tượng âm thanh diễn ra
nhờ hoạt động phức tạp của mỗi loạt cơ quan chức năng của trẻ điếc, dó là
sự hoạt động đồng thời và tác động qua lại của cơ quan thị giác, xúc giác,
vận động và cảm giác rung.
5.4. Đặc điểm hoạt động nhận thức của trẻ khuyết tật ngôn ngữ.
Từ vựng nghèo nàn và cực kỳ hạn chế, sử dụng từ khơng sat được đồng ý
nghĩa cơ bản của nó.
Trẻ bị giảm sức nghe và thiếu ngôn ngữ sự phá hủy ngôn ngữ thường xuất
hiện sự phá hủy ngôn ngữ viết và cấu trúc ngữ pháp.
Trẻ khơng hình thành được sự liên hệ, liên tưởng giữa từ tín hiệu của hiện
thực và vật cụ thể, sự phát triển ngôn ngữ bị tụt hậu.
Ví dụ: Khi đức trẻ sinh ra đơi đã bị điếc hay mất thính giác ở giai đoạn sớm
nhất của sự phát triển ngôn ngữ trong tháng đầu của cuộc sống. Khơng dễ có thể
nhận ra được trẻ có vấn đề hay khơng. Trẻ khiếm thính phât ra âm thanh phản xạ
linh hoạt với đồ chơi nào đập vào mắt nó, nhưng khơng nghe được tiếng nói của
người xung quanh, khơng thể hiểu họ nói gì và khơng thể bắt chước được tiềng nói
của người xung quanh.
- Trẻ khiếm thính có hệ thống giao tiếp độc đáo khác nhau căn bản với hệ
thống ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ.
- Do thiếu ngôn ngữ, sự hạn chế và nghèo nàn của việc giao tiếp bằng nngoon
ngữ làm cho nó mất khả năng vận dụng kinh nghiệm và giảm khả năng thu
nhận khái niệm mới.
- Trong trường hợp nặng nhất hoàn toàn khơng có khả năng tự chiếm lĩnh
được từ chiếc diện thoại.
- Những trẻ bị phá hủy chức năng nghe thường thể hiện:
+ Chứng viết khị và mất kiểm sốt
+ Thành phần chữ bị móp méo
+ Những chữ cái riêng lẻ bị bỏ qua, thay thế đổi chỗ cho nhau.
5.5. Đặc điểm ngơn ngữ nói của trẻ khiếm thính
- Giọng: khó nghe, giọng mũi, giọng cao, giọng yếu, giọng khằn...
- Phát âm: phát âm không đúng ( phụ âm ), không phân biệt những âm gần
nhau ( nghe gần giống nhau ) như t/đ, b/m.
- Thanh điệu: kho phát âm đúng thanh điệu của tiếng Việt ( thanh hỏi, thanh
ngã ).
- Ngữ pháp: nói theo tư duy, theo ý hiểu của mình.
- Ngữ điệu: nói rời rạc, ngắt từng tiếng một, lên xuống tùy hứng.
- Từ vựng: vốn từ vựng nghèo nàn.
- Tiếng nói: của hầu hết trẻ khiếm thính sai nhiều âm vần, thanh điệu và cấu
trúc câu.
- Tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố mà trẻ có thể giao tiếp bằng ngơn ngữ lời nói
hoặc ngơn ngữ ký hiệu hoặc có sự kết hợp.
5.6.
Đặc điểm sử dụng các phương tiện giao tiếp của trẻ khiếm
thính
- Tuỳ thuộc vào khả năng sử dụng các phương tiện giao tiếp mà trẻ có cách
thức giao tiếp khác nhau:
+ Trẻ khiếm thính đã được đi học sử dụng chữ cái ngón tay làm
phương tiện giao tiếp với mọi người.
+ Ngôn ngữ ký hiệu là ngôn ngữ bản xứ nên là phương tiện giao tiếp
chủ yếu trong cộng đồng người khiếm thính.
+ Trẻ có ngơn ngữ viết thường dùng chữ viết làm phương tiện giao
tiếp với người bình thường.
- Thực tế kết quả nghiên cứu sự phát triển khả năng giao tiếp của trẻ khiếm
thính trên thế giới đã khẳng định: dù trẻ có thể bị điếc bẩm sinh nhưng trẻ
vẫn sự phát triển khả năng giao tiếp cùng với có khả năng lĩnh hội những kỹ
năng làm dấu, đánh vần bằng tay, lời nói và viết. Việc lĩnh hội và phát triển
các phương tiện giao tiếp đó ở trẻ khiếm thính, dù là khi trẻ chưa có ngơn
ngữ, có thể tiến hành theo q trình như sau:
Lời nói
Điệu bộ tự nhiên
-
Đọc môi
Làm dấu
Đọc và viết
Đánh vần bằng tay
Đối với một trẻ khiếm thính nhỏ tuổi, trẻ có thể phát triển và lĩnh hội cả
ngơn ngữ tiếng nói và ngôn ngữ ký hiệu. Dù sử dụng mã ngôn ngữ nào thì
điệu bộ tự nhiên là phương tiện đầu tiên trẻ sử dụng để giao tiếp và hỗ trợ trẻ
phát triển kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Việc sử dụng ngôn ngữ nào tuỳ
thuộc vào rất nhiều yếu tố mà chủ yếu là từ nhu cầu, khả năng của bản thân
trẻ. Nhưng thực tế giao tiếp của trẻ khiếm thính cho thấy ngơn ngữ hiệu quả
và nhanh chóng hơn chính là ngơn ngữ ký hiệu.
6. Vai trò các cơ quan trong cơ thể khi giao tiếp của trẻ khiếm thính
Những người nghe nói chung, những trẻ nghe được nói riêng giao tiếp với
nhau bằng ngơn ngữ nói là chủ yếu. Ngồi ra cịn có sự tham gia của cử chỉ, điệu
bộ, ánh mắt, nét mặt... tạo nên hiệu quả của việc giao tiếp. Khi giao tiếp ln có sự
ln phiên giữa các nhân vật tham gia giao tiếp.
Ở vai trị người nói, dụng cụ đầu tiên quan trọng nhất để tiến hành giao tiếp
là bộ não. Bộ não người giúp cho người nói sắp xếp các ý tưởng (nói gì? các gì nên
nói trước? cái gì nên nói sau, cái gì khơng nên nói, duy trì cuộc giao tiếp như thế
nào? ), lựa chọn từ ngữ, cách diễn đạt sao cho phù hợp với người nói, hồn cảnh
giao tiếp, vai vế giao tiếp (giao tiếp thân mật bạn bè, giao tiếp công việc, giao tiếp
ngoại giao, giao tiếp với người hơn tuổi... ).
Khi nói, người nói cũng cần tới bộ não để giải mã các thơng tin, tín hiệu
phản hồi từ phía người nghe, ví dụ họ đồng tình hay phản đối, họ có chú ý nghe
mình nói hay khơng, đề tài mình nói có thu hút được sự chú ý của người nghe hay
khơng, từ đó có những điều chỉnh kịp thời trong việc sắp xếp các ý tưởng, lựa chọn
từ ngữ và cách diễn đạt. Giao tiếp bằng ngơn ngữ nói thì dụng cụ không thể thiếu
được là cơ quan phát âm bao gồm miệng, thanh quản... Tuy nhiên miệng đóng vai
trị quan trọng bậc nhất. Miệng phát ra những lời nói, những âm thanh... Việc phát
âm chuẩn sẽ tạo điều kiện cho việc tiếp nhận thơng tin ở phía người nghe dễ dàng
và thuận lợi hơn (không phát âm theo tiếng địa phương, khơng nói sai lỗi chính
tả...).
Giọng nói có thể thu hút sự chú ý đặc biệt từ phía người nghe (ví dụ: giọng
nói ấm, truyền cảm...). Những giọng nói the thé, oang oang sẽ làm người nghe tiếp
nhận thông tin rất khó chịu. Khiếu kể chuyện hay khiếu nói cũng là một yếu tố thu
hút được sự chú ý của người nghe. Có những câu chuyện người nghe đã nghe quá
nhiều lần rồi nhưng với những người có cách kể hấp dẫn họ (người nghe) vẫn có
thể lắng nghe một cách rất chăm chú. Ngoài ra, việc kết hợp tay, nét mặt, cơ thể
cũng tạo nên hiệu quả to lớn trong giao tiếp (ví dụ: nhún vai, vung tay, nét mặt
rạng rỡ, ánh mắt vui tươi, trìu mến, căm hờn, hằn học...). Những tín hiệu phi ngơn
ngữ này sẽ làm cho người tiếp nhận có thể dễ dàng nắm bắt thơng tin từ phía người
nói bằng việc việc vừa kết hợp lắng nghe vừa kết hợp quan sát (ví dụ: khi kể về
niềm vui thì nét mặt khơng thể ủ rũ, khi nói chuyện nghiêm trang khơng thể vừa
nói vừa cười...).
Ở vai trị người nghe - người tiếp nhận thơng tin, lúc này bộ não khơng đóng
vai trị sắp xếp ý tưởng, lựa chọn từ ngữ nữa mà lại chủ yếu tập trung vào việc giải
mã các thơng tin, phân tích ý nghĩa những điều mà tai vừa nghe, mắt vừa quan sát
thấy. Điều này giúp cho người nghe hiểu được các thông tin tiếp nhận được thông
qua các giác quan. Việc nắm bắt được những thông tin này làm cho cuộc giao tiếp
được tiếp tục vì rằng "người nói phải có kẻ nghe". Đây chính là "cách lắng nghe"
trong giao tiếp: đồng tình hay phản đối, lưỡng lự hay thờ ơ... Nó cho phép người
nói có thể quan sát, nhận thấy và điều chỉnh, người nói có nên tiếp tục nội dung
đang được trình bày hay khơng. Với vai trị này, cơ quan thính giác và thị giác
đóng vai trị quan trọng.
Lắng nghe các thông tin, quan sát các cử chỉ sẽ giúp cho người nghe hiểu
được các nội dung vừa được trình bày. Người nghe cũng phải biết lắng nghe thơng
tin, điều đó cho phép duy trì giao tiếp. Trong khi lắng nghe cũng cần có sự tham
gia của ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ...(ví dụ: khi đang lắng nghe, người nghe
làm động tác trở mình cộng với nét mặt tỏ vẻ khơng hài lịng có nghĩa là họ khơng
muốn nghe nội dung đang được trình bày hoặc là họ đã biết, hoặc là nghe nhưng
chẳng hiểu...). Đôi khi hiểu sai ý nghĩa các thông tin sẽ dẫn đến những điều đáng
buồn cười hoặc sự không hiểu lẫn nhau giữa các nhân vật tham gia giao tiếp (ví dụ:
người nói sử dụng cách nói lóng, nói bóng nói gió, xếch mé, dùng tiếng địa
phương, chơi chữ...).
Hiệu quả của giao tiếp bằng ngơn ngữ nói như thế nào hồn toàn phụ thuộc
vào khả năng tham gia của các cơ quan trong cơ thể vào việc giao tiếp. ở đây, để
tạo nên hiệu quả của giao tiếp cần có sự phối, kết hợp của tất cả các giác quan
được đặt dưới sự chỉ huy của bộ não. Việc giao tiếp bằng ngơn ngữ nói là hình thức
phổ biến nhất trong các hình thức đang tồn tại trong xã hội. Ngồi ra trong giao
tiếp của người khiếm thính nói chung, trẻ khiếm thính nói riêng, ngơn ngữ ký hiệu,
cử chỉ điệu bộ, những chất liệu ngơn ngữ phi lời nói được sử dụng, khi đó sự tham
gia và vai trị của các giác quan có sự thay đổi phù hợp.
Ở vai trị người nói (người phát tin), người khiếm thính có thể có khả năng
sử dụng ngơn ngữ nói để giao tiếp. Tuy nhiên, việc phát âm của người điếc còn phụ
thuộc vào yếu tố khác như độ mất thính lực của người điếc, thời điểm mắc phải tật
điếc có mắc một hội chứng nào khác. Nếu điếc nhẹ, ngôn ngữ của người điếc vẫn
có thể phát triển bình thường nhưng chậm hơn so với người nghe. Nếu bị điếc sau
khi ngơn ngữ đã phát triển khá đầy đủ thì họ vẫn có thể sử dụng vốn ngơn ngữ đã
có (nhất là khả năng phát âm) để giao tiếp. Nếu điếc bẩm sinh và ở mức độ nặng
thì rất khó cho người điếc có thể sử dụng được ngơn ngữ nói vì rằng khả năng phát
âm khơng tốt cũng có nhiều trường hợp không thể phát âm được. Trong trường hợp
này người điếc có khuynh hướng sử dụng ngơn ngữ ký hiệu, cử chỉ điệu bộ hơn là
sử dụng ngôn ngữ nói. Vì vậy, vai trị của các giác quan sử dụng trong giao tiếp của
người khiếm thính nói chung, trẻ khiếm thính nói riêng có sự thay đổi nhất định so
với trong giao tiếp của người nghe được bình thường.
Các phương tiện giao tiếp mà người giao tiếp sử dụng cũng có ảnh hưởng
nhất định tới việc sử dụng các giác quan trong quá trình giao tiếp:
Ghi nhớ: Trẻ khiếm thính cũng giống như tất cả trẻ em khác đều có thể học giao
tiếp. Dù với mức độ thính giác khác nhau, trẻ vẫn có thể giao tiếp bằng cách sử
dụng cử chỉ, kí hiệu gia đình, ngơn ngữ kí hiệu hồn chỉnh, đọc hình miệng và nói.
Một số trẻ dù nghe được rất ít cũng sẽ có thể nói và đọc hình miệng. Những trẻ
khác giao tiếp hiệu quả nhất bằng cách ra dấu tay. Trẻ điếc càng nhỏ học ngơn ngữ
kí hiệu càng dễ và tự nhiên - cũng như trẻ bình thường học ngơn ngữ nói.
Để có cảm giác tích cực về bản thân và có cảm giác được thuộc về, trẻ điếc cần
được gặp gỡ nhau và gặp cả người lớn điếc. Có thể sử dụng người điếc trong cộng
đồng để dạy ngơn ngữ kí hiệu cho trẻ.
Một số gia đình gửi con đi học ở một trường chuyên biệt dạy trẻ điếc. Nhưng
các gia đình khác lại dạy con ở nhà. Một số trẻ có thể được giúp đỡ để mua máy
trợ thính và học đọc hình miệng.
Nếu được giúp đỡ, gia đình những trẻ có khó khăn về nghe ở mức độ khác nhau
có thể tạo ra trong gia đình và cộng đồng mình một mơi trường mà trẻ được chấp
nhận, những điểm mạnh của trẻ được thừa nhận - ở đó, trẻ có thể kết bạn, được học
tập và sống cuộc đời hạnh phúc.
7. Hậu quả của trẻ khiếm thính
- Ảnh hưởng ít, nhiều đến sự phát triển tiếng nói. Sự ảnh hưởng cịn tùy theo
mức độ khiếm thính, thời điểm bị khiếm thính, khả năng của trẻ và môi
trường giáo dục.
- Khả năng giao tiếp hạn chế ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ.
- Mất hoặc chậm phát triển tiếng nói ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp với
mọi người, có thể đẫn đến bị cơ lập, mặc cảm, tự ti cho nên hạn chế trong
mọi hoạt động xã hội.
- Thị trường nghề nghiệp của người khiếm thính rất hẹp do đó họ ít có điều
kiện lựa chọn cơng việc cho mình, gây nên những khó khăn trong cuộc sống.
8. Vai trị của gia đình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ khiếm
thính
- Vai trị và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình: Mỗi một thành
viên đều có phần trách nhiệm trong quan hệ với các thành viên trong gia đình.
- Vai trị của tổ ấm trong gia đình: tổ ấm ảnh hưởng sâu sắc đến những
quan hệ được thiết lập giữa những thành viên trong gia đình.
- Vai trị của người mẹ: mẹ có ảnh hưởng quyết định đến đời sống tâm lý
trẻ trong tương lai.
- Vai trò của người cha: cha thường chú ý đến việc rèn luyện trí tuệ, xây
dựng ước mơ, hoài bão, lý tưởng cho trẻ, truyền kinh nghiệm, hướng dẫn cho trẻ.
- Vai trò của anh, chị em: yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ trẻ.
- Vai trò giáo dục sớm đối với trẻ khiếm thính tại gia đình: gia đình có vai
trị quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi
đứa trẻ.
- Trách nhiệm chăm sóc giáo dục trẻ khiếm thính tại gia đình: gia đình là
nơi trực tiếp chịu trách nhiệm về việc chăm sóc giáo dục trẻ.
9. Cách giao tiếp với trẻ khiếm thính
9.1.
Hình thức giao tiếp nào phù hợp với trẻ
Tuỳ theo nguyên nhân và mức độ khó khăn về nghe - nói mà bác sĩ sẽ
đưa ra lời khun về hình thức giao tiếp phù hợp nhất với trẻ. Thông
thường, nếu giao tiếp bằng lời nói bị trở ngại, trẻ nên sử dụng các hình
thức giao tiếp hỗ trợ khơng bằng lời nói như: dùng dấu, cử chỉ, nét mặt, cử
động miệng, hình vẽ...
9.2.
Lưu ý khi giao tiếp với trẻ khiếm thính
Nói to hơn một chút: Khơng thì thầm hoặc nói nhỏ và khơng qt lên - chỉ
cần nói to hơn bình thường một chút.
Nói rõ ràng: Chú ý nói từng âm rõ ràng, không lầm bầm trong miệng.
Giảm tạp âm: Nên nói chuyện ở trong khơng gian càng n tĩnh càng tốt bởi
tạp âm làm biến đổi tín hiệu âm thanh truyền tới trẻ.
Giữ khẩu hình rõ ràng: Trẻ khiếm thính khi đã thành thạo có thể đọc khẩu
hình rất giỏi và có thể đánh giá những gì bạn nói thơng qua việc đọc khẩu hình
của bạn. Việc giữ khẩu hình rõ ràng giúp trẻ dễ nhận biết ý của bạn hơn.
Sử dụng điệu bộ cử chỉ thoải mái: Để mơ tả những gì bạn đang nói hãy kết
hợp giữa từ ngữ và điệu bộ cử chỉ, việc này giúp cho trẻ dễ nắm bắt được tình
huống bạn đang nói.
Học ngơn ngữ ký hiệu: nếu bạn là người chăm sóc sức khỏe cho trẻ đang sử
dụng máy trợ thính và bị điếc hồn tồn thì ngơn ngữ ký hiệu sẽ giúp cả hai giao
tiếp với nhau hiệu quả hơn. Để có thể thơng thạo ngơn ngữ ký hiệu, bạn sẽ phải
mất một thời gian.
III.
Kết luận
Trẻ khiếm thính là những trẻ gặp nhiều khó khăn trong q trình hịa
nhập cuộc sống, đặc biệt là q trình giao tiếp. Phần lớn cha mẹ trẻ khiếm
thính kỳ vọng rất nhiều vào việc quan tâm đến trẻ. Nhưng do nhiều nguyên
nhân như: cha mẹ chưa thực sự hiểu biết về khuyết tật của con mình, chưa
nhận được sự cộng tác từ trẻ, đặc biệttài liệu chưa đáp ứng đáp ứng hết các
nhu cầu của họ. Tài liệu mà họ mong muốn phải là một bộ tài liệu ngắn gọn,
rõ ràng, trình bày khoa học, có tranh minh họa và các thơng tin trình bày
phải đầy đủ và chính xác.
Xuất phát từ những nhu cầu trên, chúng tơi mạnh dạn tiến hành biên
soạn bộ tài liệu đặc điểm phát triển trẻ khiếm thính. Hi vọng bộ tài liệu sẽ là
“ cẩm nang ” hỗ trợ đắc lực cho cha mẹ trong q trình chăm sóc giáo dục
đứa con khiếm thính của mình.
IV.
Tài liệu tham khảo
1. Một số biện pháp quản lý giáo dục hịa nhập cho trẻ khiếm thính của hiệu
trưởng các trường mầm non dạy hòa nhập ở Hà Nội - Luận văn Thạc sĩ khoa học
QLGD - Hoàng Kim Phượng (2003).
2. Biên soạn tài liệu hướng dẫn Giáo viên và phụ huynh có con khiếm thính dưới
6 tuổi tham gia chương trình can thiệp sớm - Đề tài nghiên cứu Sở Khoa học Công
nghệ và Môi trường.Trung tâm Giáo dục trẻ khiếm thính TP. Hồ Chí Minh - Huỳnh
Thị Thanh Bình (2000).
3. Đại cương giáo dục trẻ khiếm thính -Nguyễn Thị Hoàng Yến (2007) -NXB Sư
phạm Hà Nội.
4. Bộ GDĐT (2005), Can thiệp sớm và Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật , Tài
liệu tập huấn cán bộ, giảng viên các trường sư phạm.
5. Khoa giáo dục đặc biệt (2002), Kỷ yếu hội nghị khoa học, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Thị Hằng (2006), Tài liệu bài giảng can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật, Khoa
Tâm lý -Giáo dục, ĐHSP, Đại học Đà Nẵng.
7. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2005), Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
8. PGS.TS. Cao Minh Châu và các cộng sự (2007), Một số dạng tật thường gặp ở
trẻ em cách phát hiện và huấn luyện, NXB Y học.
9. PGS.TS. Cao Minh Châu và các cộng sự (2007), Phục hồi chức năng trẻ khuyết
tật tại gia đình, NXB Y học. Trung tâm giáo dục trẻ có tật (1993), Giáo dục cho trẻ
có tật tại gia đình, NXB Hà Nội.
10. Trường ĐHSP Hà Nội (2001), Can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính, Hà Nội.