Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đặc điểm sinh học, sinh thái loài voọc vá chân đen pygathrix nigrpes milne edwards, 1871 ở bán đảo hòn hèo, tỉnh khánh hòa và các giải pháp bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 85 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN

ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI LOÀI VOỌC
VÁ CHÂN ĐEN PYGATHRIX NIGRIPES MILNEEDWARDS, 1871 Ở BÁN ĐẢO HÒN HÈO, TỈNH
KHÁNH HOÀ
VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN

CHUYÊN NGÀNH: ĐỘNG VẬT HỌC

MÃ SỐ : 60. 42. 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN HỮU DỰC
PGS.TS. HOÀNG XUÂN QUANG

VINH - 2010


2

Bộ giáo dục và đạo tạo

Tr-ờng Đại học Vinh



nguyễn thị lệ quyên

đặc điểm sinh học, sinh thái loài voọc vá chân
đen pygathrix nigripes milne-edwards, 1871 ở
bán đảo hòn hèo, tỉnh khánh hoà
và các giải pháp bảo tồn

Chuyên ngành: động vật học

MÃ số : 60. 42. 10

luận văn thạc sĩ sinh học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn hữu dực
PGS.TS. hoàng xu©n quang

Vinh - 2010


3

MỞ ĐẦU
Voọc vá chân đen (Pygathrix nigripes) là một trong những loài linh trưởng
nguy cấp nhất trên thế giới [1]. Đây là lồi linh trưởng đặc hữu cho vùng Đơng
Dương và là một loài động vật quý hiếm của Việt Nam. Hiện nay Voọc vá chân
đen phân bố ở 34 khu vực trong toàn quốc [27].
Kết quả điều tra, nghiên cứu cho thấy, Voọc vá chân đen (P. nigripes) tồn
tại một quần thể ở bán đảo Hòn Hèo, tỉnh Khánh Hịa: Thơn Ninh Phước (30 cá

thể), thơn Ninh Vân (15 cá thể), thôn Ninh Thủy (40 cá thể), thôn Ninh Phú
(20 cá thể).
Tuy nhiên cho tới nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu về đặc điểm
sinh học, sinh thái và đánh giá một cách toàn diện ảnh hưởng của các yếu tố sinh
thái lên số lượng quần thể của lồi Voọc vá chân đen ở Hịn Hèo, tỉnh Khánh
Hịa.
Nhằm góp phần nghiên cứu và bảo tồn lồi Voọc vá chân đen ở khu vực
Bán đảo Hòn Hèo tỉnh Khánh Hịa, chúng tơi chọn đề tài: “Đặc điểm sinh học,
sinh thái loài Voọc vá chân đen (Pygathrix nigripes Milne-Edwards, 1871) ở bán
đảo Hòn Hèo, tỉnh Khánh Hòa và các giải pháp bảo tồn”, với mục đích:
1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của quần thể Voọc vá
chân đen ở khu vực bán đảo Hòn Hèo, tỉnh Khánh Hịa.
2. Nghiên cứu một số tập tính của Voọc vá chân đen ở khu vực bán đảo
Hòn hèo, tỉnh Khánh Hòa.
3. Đề xuất các giải pháp bảo tồn
Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung dẫn liệu đặc điểm sinh học và sinh
thái của Voọc vá chân đen (P. nigripes), là cơ sở khoa học cho công tác bảo tồn
loài linh trưởng quý hiếm này. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên về Voọc vá chân
đen ở khu vực bán đảo Hòn Hèo, tỉnh Khánh Hòa.


4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu Linh trƣởng ở Việt Nam
Tình hình nghiên cứu Linh trưởng ở Việt Nam phát triển theo từng thời kỳ
và được bắt đầu rất sớm song song với những nghiên cứu về đa dạng sinh vật nói
chung và nhóm thú nói riêng. Những nghiên cứu đó được bắt đầu từ cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX và chủ yếu do những tác giả nước ngoài thực hiện. Các nhà
khoa học Việt Nam bắt đầu nghiên cứu đa dạng sinh vật trong đó có nhóm thú

linh trưởng từ những năm 60 trở lại đây. Có thể tóm lược tình hình nghiên cứu
thú Linh trưởng vào 3 thời kỳ như sau:
1.1.1. Giai đọan trước năm 1954
Những nghiên cứu về nhóm thú linh trưởng ở Việt Nam chủ yếu do những
người nước ngoài thực hiện như: A. Bonhote, J. L. 1907 [14]; Milne-Edwards
1871 [36]; Morice, 1875 [37]; H.Osgood, 1932 [41] v.v. Trong những cơng trình
đó, các tác giả đề cập đến đa dạng các loài linh trưởng ở Việt Nam và Đông
Dương. Phần lớn các mẫu thu được trong những nghiên cứu đã được lưu giữ và
bảo quản tại các bảo tàng Pari (Pháp), Chicago (Mỹ) và Luân Đôn (Anh).
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975
Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam đã hồn tồn giải phóng. Những
nghiên cứu khoa học về đa dạng sinh vật được những người Việt Nam thực hiện.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, đã bắt đầu quan tâm tới công tác nghiên
cứu và bảo tồn đa dạng sinh vật. Cơng việc đó được thể hiện bằng quyết định
thành lập vườn quốc gia đầu tiên (Cúc Phương) vào năm 1962 nhằm bảo tồn đa
dạng sinh vật nói chung và lồi linh trưởng q hiếm và đặc hữu là loài Voọc
quần đùi (Trachypithecus delacouri). Bắt đầu từ thời gian này, những nghiên cứu
về sinh học được triển khai sâu rộng hơn. Người Việt Nam đầu tiên có những
cơng trình nghiên cứu về linh trưởng là giáo sư Đào Văn Tiến. Ơng đã có nhiều


5

cơng trình nghiên cứu sâu về nhóm thú linh trưởng và có nhiều phát hiện mới về
nhóm này [11]. Sau đó, những nhà nghiên cứu Việt Nam khác [5] bắt đầu nghiên
cứu về nhóm thú này. Tuy nhiên do hồn cảnh chiến tranh và kinh tế cịn khó
khăn, phần lớn các nghiên cứu chỉ tập trung ở các tỉnh phía Bắc, các nghiên cứu
về sinh thái, sinh học, tập tính còn hạn chế.
1.1.3. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay
Từ năm 1975, Việt Nam hoàn toàn độc lập và đây cũng là thời kỳ những

nghiên cứu về sinh học được triển khai mạnh mẽ trong đó có những nghiên cứu
sâu về nhóm linh trưởng: Lê Xuân Cảnh 1994, 1998, [15, 16,]; Lê Vũ Khôi,
2005; Cao Văn Sung, 1993, 1994 [10, 6]; Đặng Huy Huỳnh, 1995 [6]; Phạm
Nhật, 1993, 1994 [42, 43]. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong thời gian này đều
nằm trong chương trình nghiên cứu chung về động vật. Thời kỳ này rừng tự
nhiên và quần thể thú linh trưởng ở nước ta bị suy giảm mạnh do ảnh hưởng của
các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Đã phát hiện một loài Voọc chân xám
mới cho khoa học (Pygathrix cinerea) và một loài Voọc đen tuyền
(Trachypithecus ebenus). Đặc biệt, công tác bảo tồn và phát triển thú linh trưởng
quý hiếm đã được chú trọng, với chương trình nghiên cứu hoặc xây dựng khu
bảo tồn đa dạng sinh học trong đó có thú nói chung hay riêng cho Voọc mũi
hếch, Voọc đầu vàng, Voọc mông trắng, Vượn… Trung tâm Cứu hộ Linh trưởng
ở Cúc Phương được thành lập cách đây 16 năm đã có các nghiên cứu sâu về kỹ
thuật ni sinh sản các lồi Voọc, góp phần cho bảo tồn các lồi q hiếm này ở
Việt Nam.

1.2. Một số vấn đề phân loại học Linh trƣởng ở Việt Nam


6

Hầu hết các nhà phân loại đã nhất trí với hệ thống phân loại tới cấp độ họ
và khẳng định rằng ở Việt Nam hiện nay có 3 họ đang phân bố là: Họ cu li
(Loridae), họ khỉ (Cercopithecidae) và họ vượn (Hylobatidae).
Họ khỉ hiện nay được phân ra làm hai họ phụ là họ phụ khỉ
(Cercopithecinae) và họ phụ Voọc (Colobinae). Họ phụ khỉ ở Châu Á hiện có 1
giống với 18 lồi, trong đó ở Việt Nam có 5 lồi. Trong số 5 lồi có 2 lồi phân
bố rộng rãi từ Bắc tới Nam là khỉ mặt đỏ Macaca artoides và khỉ đi lợn M.
leonina (nemestrina), 2 lồi phân bố ở phía Bắc và Miền Trung là khỉ vàng
(Macaca mulatta) và khỉ mốc (Macaca assamensis), 1 loài phân bố ở phía Nam

là khỉ đi dài (Macaca fascicularis). Ở mức độ phân lồi ở Việt Nam có phân
lồi khỉ mốc asam (M. assamensis assamensis McClelland, 1840), khỉ đuôi dài
đất liền (M. fascicularis fascicularis (Rafler, 1821)), khỉ đuôi dài côn đảo
(M.f.condorensis Kloss, 1926) và khỉ vàng siam (M. mulatta siamica, Kloss,
1917).
Vấn đề phân loại họ phụ Voọc, theo những tài liệu mới đây ở Việt Nam
hiện nay họ phụ Voọc có 4 giống: Trachypithecus, Pygathrix, Presbytis và
Rhinopithecus với 11 lồi.
Giống Voọc vá (Pygathrix E´ . Geoffroy Saint-Hilaire, 1812) được các nhà
thú học nghiên cứu và phân tích khá kỹ. Theo Brandon-Jones et al. (2004) [18]
giống này ở Việt Nam có hai loài là Voọc vá chân đỏ và Voọc vá chân đen, trong
đó lồi Voọc vá chân đỏ có hai phân loài là Voọc vá chân đỏ (P.nemaeus
nemaeus) và Voọc vá chân xám (P. nemaeus cinerea). Tuy nhiên theo tài liệu
mới đây [23] và phân tích di truyền thì lồi Voọc vá chân đỏ và Voọc vá chân
xám được coi là hai loài riêng biệt P. cinerea và P. nemaeus.
Giống Voọc mũi hếch (Rhinopithecus Milne-Edwards,1872), tác giả
Brandon-Jones (1984) [17] coi như phân giống của Pygathrix nhưng qua một số
đặc điểm hình thái và số liệu di truyền cho thấy giống Rinopithecus và giống
Pygathrix là hai giống khác biệt nhau và cũng đồng quan điểm với Groves [23].


7

Giống Trachypithecus ở Việt Nam tuy đã được nhiều nhà khoa học nghiên
cứu tương đối kỹ nhưng cũng còn một số vấn đề cần bàn luận. Trước đây một số
nhà phân loại [17, 23] cho rằng giống Trachypithecus ở Việt Nam là giống
Pygathrix hay Semnopithecus.
Phần lớn các nhà phân loại thú xếp các loài vượn ở Việt Nam vào giống
Hylobates. Một số tác giả xếp các loài vượn này vào giống Nomascus. Sau đó
một số cơng trình nghiên cứu cũng xếp các loài vượn ở Việt Nam vào giống

Nomascus. Theo hệ thống phân loại mới [23] thì các lồi vượn phân bố ở Việt
Nam được xếp vào giống Hylobates và giống phụ Nomascus. Brandon-Jones et.
al. xếp nhóm vượn ở Việt Nam vào giống Nomascus [18]. Căn cứ vào những dẫn
liệu trên thì hiện nay ở Việt Nam ghi nhận được 1 giống Nomascus (Miller,
1933) với 5 loài và phân loài đó là Vượn đen tuyền - Nomascus concolor
concolor (Harlan, 1826), Vượn hải nam - N. sp. cf. nasutus nasutus (Khnkel
d''Hercularis, 1884), Vượn má trắng - N. leucogenys leucogenys (Ogilby, 1840),
Vượn má hung N. leucogenys siki

(Delacour, 1951) và Vượn má vàng -

Nomascus gabriellae (Thomas, 1909)
1.3. Đặc điểm của giống Pygathrix
1.3.1. Về phân loại học
Giống Voọc vá hiện đang được công nhận là giống Pygathrix, tuy nhiên
trước đây đã được đặt trong một số các giống khác như Simia (Linnaeus, 1771)
và Lasiopyga (Illiger, 1811). Hiện nay giống Pygathrix có ba lồi; Voọc vá chân
đỏ (P. nemaeus), Voọc vá chân xám (P. cinerea) và Voọc vá chân đen (P.
nigripes) có phân bố trên bán đảo Đơng Dương.

1.3.2. Đặc điểm hình thái


8

Voọc vá là loài khỉ lớn so với các loài voọc ăn lá khác. Đi màu trắng có
chiều dài xấp xỉ bằng chiều dài đầu và thân. Các chi dài và chi sau dài hơn chi
trước. Đầu khơng có mào; các sợi lông được hướng ngược ra sau và tạo thành
một vệt ngắn trên cổ [39].
Cả hai giới tính của lồi này có đám lơng dọc theo hình xuyến quanh mắt.

Dương vật của con đực trưởng thành có màu đỏ tươi [46]. Các màu sắc của giới
tính là như nhau ngoại trừ một đốm trắng được thể hiện rõ của con đực hình tam
giác nhỏ ở phần gốc đi [23, 32].
Màu sắc của ba lồi Voọc vá có sự khác nhau rõ ràng. Các con non khơng
có sự khác biệt về màu sắc những con non sắp trưởng thành và trưởng thành có
sự khác biệt rõ rệt về màu sắc. Trọng lượng trung bình của con đực Voọc vá
chân đen trưởng thành nặng khoảng 11kg, và con cái khoảng 8kg [30]. Những
đặc điểm hình thái khác biệt giữa 3 lồi Voọc vá thuộc giống pygathrix được
trình bày ở bảng 1.1.
Sinh cảnh sống thích hợp của Voọc vá chân đen là kiểu rừng kín thường
xanh, rừng kín nửa rụng lá, rừng kín rụng lá và rừng thưa rụng lá. Chúng sống ở
độ cao rất khác nhau từ 100-1000m. Chúng thích sống ở những khu vực có nhiều
cây gỗ to và nhiều cây làm thức ăn.


9

Đặc
điểm

Bảng 1.1. Một số đặc điểm hình thái của các lồi thuộc giống Pygathrix
P. nemaeus
P. cinerea
P. nigripes
Trước tai có đám lông dài
màu nâu nhạt. Đỉnh đầu màu
đen chuyển màu xám tro ở
phía gáy, chẩm và lưng. Lơng
hai bên gáy dài.


Voọc vá chân xám có bộ lơng dày
mềm và bơng. Gáy và đỉnh đầu có
màu xám nhạt và kéo dài đến cánh
tay. Dải màu đen trên trán nhỏ,
không nối liền với dải màu đen ở
bờ vai

Voọc vá chân đen có bộ lông dày
mềm và bông. Trán, đỉnh đầu
Đầu
màu xám đen.. Đỉnh đầu màu
đen chuyển màu xám tro ở phía
gáy, chẩm và lưng. Lông hai bên
gáy dài.
Lông quanh mặt dài màu xám Lông quanh mặt dài màu nâu vàng Mặt và cổ có khoang màu hạt dẻ.
Mặt tro, ở cằm màu trắng nhạt.
trừ khu vực quanh mồm và cằm có Lơng quanh mặt dài màu xám
màu trắng..
tro, trước tai có đám lơng dài
màu nâu nhạt
Ở má có đám lơng trắng nhạt Lơng má màu trắng dài, dày, rực
Lơng má có màu sáng phía trước

phía trước và chuyển màu
rỡ sang hai bên và cong xuống
mặt, chuyển màu xám đen về
xám nhạt về phía sau tai
phía dưới
phía sau tai, màu vàng nhạt về
phía dưới cổ

Dưới cằm trên cổ có màu
Lơng trước cổ màu trắng với vịng dưới cằm trên cổ có màu trắng
Cổ
trắng đục, phần cổ còn lại đỏ màu da cam là ranh giới phía dưới đục, phần cổ cịn lại đỏ nâu
nâu.
bởi màu đen nối bờ vai và cánh
tay
Phần trên gần cổ có màu nâu Phía trên ngực có vịng da cam,
Phía giáp với cổ có màu nâu đỏ,
Ngực đỏ, giữa ngức có màu đen và Ngực có màu xám đen, phía dưới ở giữa ngực có màu đen và phía
phần dưới gần bụng có màu
màu sáng
dưới gần bụng có màu xám trắng
xám
Lưng Lưng màu xám
Lưng màu xám
Lưng màu xám tro
Bụng Bụng màu xám tro
Bụng màu xám
Bụng màu xám trắng
Cánh tay phía trên bờ vai
Bàn tay màu đen, Mu bàn tay
Tay rất dài. Cánh tay, bàn tay


10

màu đen, chuyển màu xám ở
Chi
giữa cánh tay và màu xám

trước trắng gần bàn tay, bàn tay
màu xám nhạt, các ngón tay
màu đen
Đùi màu đen, ống chân màu
Chi
nâu đỏ thẫm. Mu bàn chân và
sau
các ngón đều đen..
Đi Đi rất dài, lơng màu trắng

thỉnh thoảng có lơng màu xám.

màu xám nhạt, các ngón tay màu
đen.

Lơng chân màu xám đậm, riêng
phía trong của đùi có màu đen.
Phần cịn lại của phía dưới màu
xám sáng với những dải nhỏ. Bàn
chân màu đen..
Đuôi màu trắng, thon dài

Vùng bẹn trắng đục, đùi màu
đen, ống chân màu đen. Mu bàn
chân và các ngón đều đen
Đi rất dài, lông màu trắng.

Nguồn: Groves, 2001 [23]; Lippold, 1977, [32]; Lippold và Vũ Ngọc Thanh, 1995 [33]; Nadler et al., 2003 [39]; Phạm
Nhất, 1993 [42]; Rowe, 1996 [46].


Khi so sánh các loài cần chú ý một vài đặc điểm đặc trưng của loài để nhận dạng ngoài tự nhiên như: Lồi
P. nemaeus phần trước cánh tay có màu trắng và phần dưới chân có màu đỏ; Lồi P. cinerea phần trước cánh tay
màu xám và phần dưới chân cũng có màu xám; Loài P. nigripes phần trước cánh tay màu đen, màu xanh trên
mặt, bao quanh vòng mắt lớn màu vàng và phần dưới chân màu đen.


11

1.3.3. Phân bố
Việt Nam: Khu vực phân bố của Voọc vá được xác định từ khu vực Bắc
Trung Bộ, Tây Nguyên tới Đông Nam Bộ. Khu vực phân bố mang tính liên tục
và chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên [1].
Thế giới: Voọc vá phân bố ở Cămpuchia và Lào.
1.4. Vài nét về loài Voọc vá chân đen
1.4.1. Tên gọi
- Tên khoa học: Pygathrix nigripes (Milne-Edwards, 1871).
- Tên thường gọi: Voọc vá chân đen, Vẹc vá, Voọc vá, Voọc ngũ sắc,
Voọc Voọc vá (Việt), Voọc linh, Khỉ chú hình (Tày), Dộc (Mường), Hơ vá (Ê
Đê), Dhoọc Hna (Ba na).
1.4.2. Phân loại học
Loài Voọc vá chân đen (Pygathrix nigripes) được phát hiện như một loài
riêng biệt bởi Milne-Edwards vào năm 1871, nhưng sau đó có nhiều tác giả [19,
20] đánh giá lại hệ thống phân loại của loài và coi loài Voọc vá chân đen như
một phân loài cùng với Voọc vá chân đỏ (P. n. nemaeus và P. n. nigripes). Sau
đó Brandon-Jones, D. 1984 [17] đã xếp theo ý tưởng của Milne Edwards và coi
loài Voọc vá chân đen như một loài riêng biệt trên cơ sở màu sắc và phân bố địa
lý. Năm 1995 một loài Voọc Voọc vá mới đã phát hiện và đặt tên là Voọc vá
chân xám P.n. cinerea [49]. Những nghiên cứu hiện tại về vị trí phân loại và tiến
hóa phân tử thấy rằng ba phân loài Voọc vá trước đây đã được coi như ba loài
riêng biệt [23, 45].

Luận văn này quan niệm loài Voọc vá chân đen như một loài riêng biệt
[23, 45] theo cơng trình của Groves (2001) và Nadler&Roos (2001).


12

1.4.3. Đặc điểm hình thái
Voọc vá chân đen có bộ lông dày mềm và bông. Trán, đỉnh đầu màu xám
đen. Mặt và cổ có khoang màu hạt dẻ. Lơng quanh mặt dài màu xám tro, trước
tai có đám lơng dài màu nâu nhạt. Đỉnh đầu màu đen chuyển màu xám tro ở phía
gáy, chẩm và lưng. Lơng hai bên gáy dài. Mơng có đám lơng trắng hình tam giác
ngược, dưới cằm trên cổ có màu trắng đục, phần cổ cịn lại đỏ nâu. Thân hình
thon thả, chân tay rất dài. Cánh tay, bàn tay màu xám nhạt, các ngón tay màu
đen, vùng bẹn và đuôi trắng đục, đùi màu đen, ống chân màu đen. Mu bàn chân
và các ngón đều đen. Đuôi rất dài, lông màu trắng.
Trọng lượng cơ thể: Con đực trưởng thành nặng khoảng 11kg, con cái nặng
khoảng 8kg.
1.4.4. Một số đặc điểm sinh học, sinh thái
Voọc vá chân đen sống theo đàn. Trong đàn có nhiều con đực và nhiều
con cái. Số lượng của đàn giao động lớn tuỳ thuộc vào vùng sống, sinh cảnh
sống và điều kiện sống. Kích thước đàn khoảng từ 10-30 cá thể. Đầu đàn là một
con đực to, khoẻ, thường chỉ huy các hoạt động của đàn trong khi kiếm ăn, di
chuyển. Con đầu đàn thường cảnh giới khi đàn nghỉ ngơi và đưa ra tín hiệu báo
động khi đàn gặp nguy hiểm hay khi chúng quan sát thấy có hiện tượng lạ [24,
26]. Khi kiếm ăn chúng di chuyển tự do và thường gây ra tiếng động lớn bởi
những cú nhảy xa từ cành này sang cành khác hoặc từ cây này sang cây khác,
nhưng ngược lại chúng di chuyển thường là yên lặng và theo một hướng nhất
định khi chúng gặp nguy hiểm hay khi phát hiện ra sự có mặt của con người.
Trong nhiều trường hợp Voọc vá chân đen ẩn mình sau những cành cây to hay
những cây rậm rạp khi phát hiện ra sự có mặt của con người.

Voọc vá chân đen hoạt động vào ban ngày. Chúng thường bắt đầu đi kiếm
ăn từ lúc 5 giờ 30 phút đến 6 giờ và tìm chỗ ngủ từ lúc 17 giờ 30 phút đến 18giờ


13

hàng ngày tuỳ thuộc vào mùa động hay mùa hè, hoặc ngày nắng hay ngày mưa.
Chúng thường chọn những khu rừng có cây cao, rậm rạp làm chỗ ngủ.
Voọc vá chân đen sống ở rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh, bao gồm
rừng bán thường xanh núi thấp và núi cao [33], rừng khô Núi Chúa , Phan Rang,
Ninh Thuận [27], rừng rụng lá và bán rụng lá [42].
Kích cỡ nhóm tùy thuộc vào khu vực sống. Kích thước nhóm của loài
Voọc vá chân đen dao động từ 2 tới 17 cá thể (ở Vườn Quốc gia Cát Tiên) và từ
5 tới 45 (cá thể) (ở VQG Núi Chúa, Ninh Thuận) phụ thuộc vào khu vực sống
[29] và tới 50 cá thể ở Kông Cha Răng (Gia Lai) [33].
1.4.5. Phân bố:
Voọc vá chân đen phân bố ở Việt Nam và Campuchia, tuy nhiên phạm vi
phân bố của loài cũng chưa được xác định một cách chính xác và cần có nhiều
nghiên cứu hơn nữa. Phạm vi phân bố được xác định bằng quan sát trực tiếp
“xác định” và thu thập qua thơng tin và những bộ phận cịn lại thường là “chưa
xác định” hoặc “cần xác định”.
Ở Cămpuchia loài Voọc vá chân đen được ghi nhận ở Senmoneron . Hiện
nay lồi này phân bố ở phía đơng Mêkơng. Đã quan sát trực tiếp loài ở Khu bảo
tồn Snuol [39], ở miền nam tỉnh Mondulkiri [35, 44] và ở Stung Treng. Ở Việt
Nam, khu vực phân bố của Voọc vá chân đen được xác định từ khu vực Tây
Nguyên tới Đông Nam Bộ.
Trước đây Voọc vá chân đen phân bố rộng từ 10040‟ tới 14040‟ N. Một số
mẫu thu được từ tỉnh Kon Tum [13], tỉnh Đắc lắc, Lâm Đồng [47], tỉnh Khánh
Hòa, Đồng Nai [23], Tây Ninh [37].
Theo những nghiên cứu từ sau 1989 loài Voọc vá chân đen phân bố từ

14030‟N đến 11026‟N và 106010‟E tới 109010‟E [38, 39]. Những nghiên cứu ghi
nhận được sự phân bố của loài Voọc vá chân đen ở miền Nam, Nam Trung Bộ
và Tây Nguyên (Bản đồ 1.1).


14

Bản đồ 1.1. Phân bố của Voọc vá chân đen (Pygathrix nigripes) ở Việt Nam
(Theo Hoàng Minh Đức, 2007) [27]


15

Hiện nay theo Lippold và Vũ Ngọc Thành (2004) [34] phạm vi phân bố
của Voọc vá chân đỏ từ 19030 tới 16000 N; Voọc vá chân xám từ 16030 tới
13030‟N; và Voọc vá chân đen từ 14030 tới 11000‟N [34]. Tuy nhiên Hoàng
Minh Đức 2007 cho rằng Voọc vá chân đen không phân bố ở tỉnh Gia Lai [27]
(Bản đồ 1.1)
Như vậy phạm vi và khu vực phân bố của Voọc vá chân đen cần làm rõ
hơn.
1.5. Điều kiện tự nhiên
1.5.1. Vị trí địa lý
Bán đảo Hịn Hèo nằm ở phía Bắc tỉnh Khánh Hịa thuộc địa phận huyện
Ninh Hịa. Hịn Hèo là một bán đảo lớn (15.000ha) trong đó diện tích có rừng
vào khoảng 10000ha với nhiều đỉnh cao trên 700m, cao nhất là đỉnh núi Hòn
Hèo (819m) án ngữ trung tâm bờ biển phía Đơng (Bản đồ 2.1). Tọa độ địa lý:
12020‟40'' – 12030‟ N và 109012‟ – 109020‟20'' E. Bán đảo Hòn Hèo nằm trong
địa giới hành chính của 4 xã Ninh Thủy, Ninh Phước, Ninh Vân và Ninh Phú:
- Phía Bắc thuộc xã Ninh Thủy
- Phía Nam thuộc xã Ninh Vân

- Phía Đơng thuộc xã Ninh Phước
- Phía Tây thuộc xã Ninh Phú
1.5.2. Địa hình và thổ nhƣỡng
Địa hình khá phức tạp, sườn núi của các ngọn núi có độ dốc khác nhau với
nhiều đỉnh cao. Đỉnh cao nhất là 819m được gọi là đỉnh Hòn Hèo, thuộc xã Ninh
Vân. Thổ nhưỡng khoảng 80% đất, 20% đá, trên đỉnh núi thành phần đá chiếm tỷ
lệ chủ yếu.


16

1.5.3. Đặc điểm khí tƣợng
 Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình hàng năm của khu vực là 26,7 0C, tổng lượng nhiệt
hàng năm là 9600 - 97000C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm là tháng 01. Nhiệt độ
thấp nhất quan trắc được là 15,80C (năm 1984). Các tháng nóng nhất là tháng 5
và tháng 7, nhiệt độ trung bình của các tháng này là 28 - 290C, nhiệt độ cao nhất
đã quan trắc được là 37,90C (tháng 8 năm 1976) (Theo đặc điểm khí tượng thuỷ
văn Khánh Hồ, năm 2005).
 Mưa, độ ẩm, mây, nắng
Bán đảo Hòn Hèo là một trong những vùng ít mưa của tỉnh Khánh Hồ.
Tổng lượng mưa bình quân năm là 1100 – 1300mm. Năm mưa nhiều nhất là
2195,5 mm (1981). Năm mưa ít nhất 541,7 mm (1982). Lượng mưa tập trung
vào các tháng mùa mưa (IX, X, XI). Các tháng mùa khô (I - VIII) lượng mưa chỉ
chiếm 20 - 30% tổng lượng mưa năm. Nhìn chung trong năm của khu vực có
khơng q 100 ngày mưa.
Theo số liệu quan trắc (1977 - 1995) số ngày mưa trung bình hàng năm là
73 ngày. Tháng có mưa nhiều nhất là 22 ngày (tháng XI) năm 1983. Trong các
tháng mùa khơ, có tháng khơng có ngày mưa nào.
Độ ẩm trung bình nhiều năm trong khu vực là 80%. Độ ẩm trung bình

trong các tháng VIII - II là 83%. Độ ẩm trung bình trong các tháng III – VIII là
77%. Các tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng VI, VII có ngày độ ẩm xuống dưới
50% (2 ngày/ tháng). Mỗi năm thường có 15 - 20 ngày có nhiệt độ khơng khí >
350C, độ ẩm thấp < 55% (tháng VI - VIII).
Lượng mây trung bình năm là 6,0 – 6,5/10. Các tháng có lượng mây cao
nhất là các tháng X, XI và lượng mây trung bình trong các tháng này là 7 –
7,5/10. Các tháng có lượng mây thấp nhất là các tháng I, II, III, IV và lượng mây
trung bình trong các tháng này là 4 - 5/10.


17

Bản đồ 1.2. Vị trí khu vực bán đảo Hịn Hèo, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa


18

Giờ nắng trung bình tháng là 87,8 – 260,6 giờ/tháng, trung bình năm 2.180
– 2.699 giờ/năm. Tháng có số giờ nắng cao nhất 292,2 giờ/tháng (tháng
IV/1995), tháng có số giờ nắng thấp nhất là 52,8 giờ (tháng XII/1995). Đây là
một trong những khu vực có số giờ nắng cao (chỉ sau Phan Rang - Ninh Thuận).
Cán cân bức xạ trung bình năm 90 – 90,8 KCal/cm2/năm. Tổng lượng bức xạ lý
tưởng trung bình năm khoảng 238 KCal/cm2/năm và bức xạ thực tế 143,2
KCal/cm2/năm (Số liệu 1977 – 1992).
1.5.4. Sinh cảnh và khu hệ thực vật , động vật
1.5.4.1. Sinh cảnh
Sinh cảnh chủ yếu ở Bán đảo Hòn Hèo là rừng kín thường xanh nguyên
sinh và thứ sinh hỗn giao với các họ đại diện như: Bignoniaceae,
Caesalpiniaceae, Dipterocarpaceae, Fabaceae,


Lythraceae,

Meliaceae,

Verbenaceae. Sinh cảnh này tập trung chủ yếu ở trung tâm Bán đảo từ độ cao
300m trở lên.
Sinh cảnh rừng khô hạn, trảng cỏ cây bụi chiếm tỷ lệ khá lớn (khoảng
trên 20% diện tích rừng) và tập trung chủ yếu ở độ cao dưới 300m. Đại diện của
một số họ thực vật như: Arecaceae, Euphorbiaceae, Lauraceae, Moraceae, Rutaceae.
Sinh cảnh vùng cát ven biển và khu dân cư: Sinh cảnh này trong vùng đã
được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế (các dịch vụ cảng biển, du lịch,
đồng muối, đầm nuôi tôm. Đây là sinh cảnh chịu ảnh hưởng nhiều của biển và
các bãi cát ven biển. Bên cạnh đó, có các hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp,
các đầm nuôi trồng thuỷ hải sản là nơi cịn rất ít các lồi thực vật rừng.
1.5.4.2. Khu hệ thực vật
Ở trong vùng có 15 kiểu thảm thực vật chính và rất nhiều kiểu thảm phụ,
đặc biệt là các kiểu phụ thứ sinh nhân tác.


19

Do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố sinh thái bất lợi như: điều kiện địa
hình, thổ nhưỡng, khí hậu khơ hạn… ở khu vực nghiên cứu hình thành các kiểu
thảm thực vật có mức độ đa dạng sinh học và giá trị kinh tế. Các kiểu thảm thực
vật chính ở khu vực Bán đảo Hịn hèo:
-

Rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới tập trung chủ yếu ở khu vực xã
Ninh Phú và Ninh Thủy.


-

Trảng cây bụi thứ sinh hơi khô nhiệt đới trên đất địa đới tập trung chủ yếu ở
xã Ninh Phước và Ninh Thủy.

-

Trảng cỏ chịu hạn trên đất thoát hơi, thoát nước tốt tập trung ở xã Ninh Vân.

-

Hệ thực vật vườn nhà bao gồm các loài cây ăn quả như: Xoài, ổi, vú sữa,
roi, vải, nhãn, na, cau...

Trảng thực vật nhân tạo gồm có:
+ Rừng trồng: Bao gồm rừng phi lao trên cát ven biển, rừng keo lá tràm, một
số diện tích nhỏ trồng xoan chịu hạn, thông nhựa và bạch đàn.
+ Các thảm cây trồng khác gồm có: cây trồng nơng nghiệp, cây công nghiệp
ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả...
Diện tích các thảm thực vật cây trồng trong vùng khơng nhiều; các lồi cây
trồng chủ yếu là: Điều, Bạch đàn - Eucaliptus spp., Keo lá Voọcm - Acacia
auriculiformis, Xoan chịu hạn - Azadirachta indica và phi lao - Casuarina
equisetifolia. Các thảm thực vật trồng ở đây có vai trị chắn gió, chắn cát bay.
1.5.4.3. Khu hệ động vật
a. Thành phần lồi động vật có xương sống trên cạn
Qua kết quả khảo sát, phỏng vấn người dân địa phương của nhóm nghiên
cứu vào tháng 6/2009 và tham khảo các tài liệu, đã thống kê được trong khu vực
có: 25 lồi thú, 71 lồi chim và 31 lồi bị sát-ếch nhái, trong đó khơng có lồi



20

nào là đặc hữu. Hiện tại trong vùng chủ yếu cịn lại những lồi thú thuộc bộ gặm
nhấm, tập chung chính vào các họ: Họ sóc cây - Sciuridae, Họ chuột - Muridae.
Đặc biệt mới phát hiện loài Voọc vá chân đen, Phượng hoàng đát, Cu li nhỏ...
Khu hệ chim ở khu vực khơng những nghèo về thành phần lồi mà số
lượng cá thể cũng không nhiều. Theo các kết quả nghiên cứu về khu hệ, thì số
lượng lồi nhiều nhất tập trung tại một số họ như: Họ Cu cu - A Cuculideae, họ
chim sâu - Dicaeidae, họ Chim chích - Sylviideae. Các lồi chim di cư chủ yếu
thuộc nhóm chim nước: Diệc xám - Ardea cinerea, Choi choi xám - Pluvialis
squatarola , Choắt nhỏ - Actitis.
Khu hệ bò sát ếch nhái ở khu vực này có số lượng lồi cũng khơng nhiều.
Các lồi bị sát chủ yếu ở bộ khơng đi, bộ thằn lằn. Số lượng lồi nhiều nhất
tập trung trong một số họ như: Họ rắn nước - Colubridae, họ tắc kè Gekkonidae, họ nhông - Agamidae, họ ếch nhái - Ranidae.
b. Phân bố của các loài theo sinh cảnh
Các loại sinh cảnh sống của khu hệ động vật có xương sống trên Bán đảo
Hịn Hèo tương đối tốt, chủ yếu là: các kiểu rừng thứ sinh, các thảm thực vật hỗn
giao, thảm thực vật trồng, trảng cỏ cây bụi trên đồi cát và các thảm thực vật xen
kẽ trong các khu dân cư. Trong đó:
Sinh cảnh rừng thứ sinh hỗn giao: Sinh cảnh này là nơi sống lý tưởng cho
các loài thú, các loài chim và các lồi bị sát ếch nhái và các lồi động vật khác.
Theo điều tra ở kiểu sinh cảnh này có các loài thú như: Voọc vá chân đen, Cu li
nhỏ, Lợn rừng, cầy giơng, cầy hương, một số lồi chuột và sóc cây.
Sinh cảnh rừng khơ hạn, trảng cỏ cây bụi: Sinh cảnh này tấp trung hầu hết
các loài thú nhỏ như: Dúi mốc lớn - Bandicota indica, Chuột lắt - Rattus
exulans, Thỏ rừng - Lepus nigricollis... Sinh cảnh này đồng thời là nơi sống kiếm
ăn của hầu hết các lồi chim trong vùng. Các lồi bị sát, ếch nhái đặc trưng cho


21


sinh cảnh này là: Nhông xám - Calotes mystaceus, Nhông xanh - Calotes
vesicolor, Thằn lằn bóng đốm - Mabuya macularia, Rắn leo cây - Dendrelaphis
pictus.
Sinh cảnh vùng cát ven biển và khu dân cư: Sinh cảnh này trong vùng đã
được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế (các dịch vụ cảng biển, du lịch,
đồng muối, đầm nuôi tôm) nên trong sinh cảnh này chỉ cịn lại những lồi thú
gặm nhấm thuộc Họ chuột - Muridae. Đây là sinh cảnh chịu ảnh hưởng nhiều
của biển và các bãi cát ven biển. Bên cạnh đó, có các hoạt động nơng nghiệp,
ngư nghiệp, các đầm nuôi trồng thuỷ hải sản là nơi kiếm ăn của rất nhiều lồi
Dẽ, Mịng biển, Nhàn và các lồi Cị. Các lồi bị sát, ếch nhái đặc trưng cho
dạng sinh cảnh này là lồi: Nhơng cát - Leiolepis spp., Rắn cát - Psamdomophis
condanarus. Quanh khu vực dân cư chủ yếu là các loài phổ biến như Rắn nước Xenochrophis piscator, Cóc nhà - Bufo melanostictus, Ngoé - Rana limnocharis
và Nhái bầu vân - Microhyla pulchra.
1.6. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.6.1. Dân số và dân cƣ
Phía Bắc Huyện Ninh Hịa giáp huyện Vạn Ninh, phía Nam giáp thành phố
Nha Trang và các huyện Diên Khánh, Khánh Vĩnh, phía Tây giáp tỉnh Đắk lắk,
phía Đơng giáp biển, Ninh Hịa có 26 xã và 1 thị trấn. Tổng diện tích 1.196 km2,
tổng dân số 232.541 người, mật độ dân số 189 người/ km2. Dân cư sống chủ yếu
bằng nông nghiệp, ngư nghiệp, làm muối, tiểu thủ công nghiệp và lâm nghiệp.
Tại Hòn Hèo: Kết quả điều tra thực tế của tác giả ở 4 xã Ninh Phước, Ninh
Vân, Ninh Phú và Ninh Thủy cho thấy dân cư ở vừng nghiên cứu (Bảng 1.2)
Quy mô nhân khẩu trong một hộ dao động 2 – 8 khẩu/hộ, trung bình là 4,9
khẩu/hộ, tương ứng với số lao động trong một hộ là 1 – 9 và trung bình 2,8 lao
động /hộ. Số khẩu lớn nhất là trong các hộ làm nông nghiệp và ghe cào (> 6
khẩu/hộ). Số lao động trung bình cao nhất trong các hộ làm nơng nghiệp, câu


22


khơi, giã cào (> 3,3 lao động/hộ). Điều đó nói lên tốc độ tăng dân số nhanh, tiềm
năng lao động trẻ và phong phú thường diễn ra ở các nghề lao động đơn giản,
thời gian nông nhàn nhiều, ở vùng sâu xa.
Bảng 1.2. Số hộ dân tại vùng nghiên cứu.
Stt



Tổng số hộ

Tổng số khẩu

1

Ninh Thủy

1423

4980

2

Ninh Phú

1315

4206

3


Ninh Phước

1439

4117

6

Ninh Vân

344

1708

Tổng cộng

4521

15.011

Tổng thu nhập của các hộ 5,6 – 116 triệu đồng/ hộ/ năm, trung bình 16,8
triệu/hộ/năm. Thu nhập thấp là các hộ làm nông nghiệp, khai thác hải sản trong
vịnh (< 16 triệu/hộ /năm). Thu nhập cao nhất là hộ khai thác hải sản xa bờ, nuôi
biển, nuôi tôm Sú, dịch vụ,... Thu nhập bình qn tính theo đầu người, dao động
250.000 – 2.400.000đ /khẩu /tháng, trung bình 495.000đ/ khẩu/. tháng. Thu nhập
thấp nhất là hộ làm nông nghiệp, nguyên nhân nghèo là do trồng cây tạp (trồng
chuối, cam, đu đủ), trình độ văn hố thấp (6/12), đơng con (4 con, trong đó 3 con
nhỏ đang đi học tiểu học),...Số hộ có bình quân thu nhấp dưới trung bình (<
495.000đ/khẩu/ tháng) là 61,4% TS (Bảng 1.3).

1.6.2. Trình độ học vấn
Trình độ văn hố và dân trí của cư dân trong khu vực điều tra cũng tương đối
thấp: Toàn bộ vùng điều tra chỉ có 1 hộ có người có trình độ trung học nghề (hộ
làm ruộng) chiếm 1,2% tổng số. Số hộ có người theo học cấp III là 3,5% tổng số,
cấp II – 30,73%, cấp I – 47,71%. Số hộ có người đến tuổi mà không đi học


23

chiếm 12,8% tổng số, số hộ có người mù chữ - 6,93%. Số hộ có tham gia lớp tập
huấn kỹ thuật ngắn ngày 10,8% tổng số (Bảng 1.4).
Tỷ lệ mù chữ ở các xã trong khu vực nghiên cứu là tương đối cao so với
mặt bằng chung của huyện Ninh Hồ. Những người có trình độ thấp hoặc chưa
qua đào tạo nghề hết sức phổ biến (Bảng 2.5). Trình độ học vấn thấp, tỷ lệ tốt
nghiệp ĐH, sau ĐH bình quân của 4 xã chưa tới 0,5%, số người được đào tạo
nghề rất ít là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến nghèo đói tại các địa phương
này.
1.6.3. Về ni trồng thủy sản
Đây cũng được xem là loại hình phổ biến và giúp cho hàng ngàn hộ dân ven
biển thoát nghèo. Đặc biệt, sự phát triển đáng kể của các nghề nuôi biển (nuôi
tôm Hùm trong lồng/bè nổi, nuôi trai ngọc...) trong chục năm trở lại đây đã đem
lại những thay đổi đáng kể đời sống cư dân địa phương. Một số dự án liên doanh
với các công ty nước ngồi về ni biển đang phát triển mạnh (ni tơm Hùm, cá
Mú, cá Hồng, cá Cam, rong Sụn, Trai Ngọc, nuôi Vẹm Xanh,...).


24

Bảng 1.3. Tình trạng việc làm tại vùng nghiên cứu, năm 2009.
Lĩnh vực hoạt động kinh tế

Nông lâm -

CN – Xây

Thủy sản

dựng



Số
khẩu

%

Số
khẩu

%

Dịch vụ
Số
khẩu

%

Tổng số mẫu

Nhà nƣớc
Số

khẩu

%

Không làm
việc
Số
khẩu

%

Số

Số

khẩu

hộ

Ninh Thủy

318

47,89

26

3,92

96


14,46 4

0,15

223

33,58

664

295

Ninh Phú

305

57,98

9

1,71

6

1,14

11

2,09


195

37,07

526

355

Ninh Phước

533

65,48

17

2,09

52

6,39

6

0,49

208

25,55


814

355

Ninh Vân

81

52,60

2

1,30

5

3,25

4

0,00

66

42,86

154

58


Tổng cộng

1237

2158

1063

54

159

25

682

Nguồn: Tính tốn dựa trên cơ sở số liệu điều tra của tác giả và qua thống kê của các xã.


25

Bảng 1.4. Tỷ lệ dân số mù chữ, biết chữ, có bằng cấp
(khơng tính số nhân khẩu dƣới tuổi đi học) ở các xã (%).



Mù chữ

Biết đọc,

viết

Cấp 1

Cấp 2

Cấp 3

THCN/ học
nghề

ĐH/ CĐ

Sau ĐH

∑%

Ninh Thủy

7,16

15,15

39,56

32,78

3,84

0,83


0,68

0,00

100

Ninh Phú

4,18

9,37

49,56

31,58

4,68

0,13

0,51

0,20

100

Ninh Phước

5,45


9,92

53,81

26,61

3,55

0,07

0,39

0,20

100

Ninh Vân

11,03

7,22

47,91

31,94

1,90

0,00


0,00

0,00

100

Trung bình

6,93

10,42

47,71

30,73

3,5

0,26

0,39

0,10

100

Nguồn: Tính tốn dựa trên cơ sở số liệu điều của tác giả và qua thống kê của các xã.



×