MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàiMỞ
luận văn
ĐẦU
Trong những năm qua, báo chí nước ta đã làm tốt chức năng vừa là cơ
quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân dân. Báo chí về
cơ bản đã hoạt động đúng pháp luật, đúng định hướng, tuyên truyền kịp thời việc
triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt trong 30 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới,
hội nhập quốc tế, báo chí nước ta đã chủ động, tích cực và có nhiều sáng tạo, góp
phần vào việc truyền bá, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu cung cấp thơng tin ngày càng cao. Do
đó, báo chí càng phải nỗ lực khơng ngừng để mang đến cho công chúng những
thông tin nhanh nhạy, kịp thời; đồng thời phải đảm bảo tính chân thực, chính xác,
tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về
“Cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới ”, Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) và cùng nhiều
văn bản của Đảng và Nhà nước đã khẳng định được tầm quan trọng của công tác
tư tưởng-văn hóa nói chung, cơng tác báo chí nói riêng; trong đó, đặc biệt nhấn
mạnh đến việc n ng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà
nước về báo chí.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, hoạt động báo chí của tỉnh Kiên
Giang cũng khá sơi động, các cơ quan báo chí của tỉnh gồm: Báo Kiên Giang,
Đài Phát thanh - Truyền hình và Tạp chí Chiêu Anh Các (của Hội Văn học-Nghệ
thuật tỉnh). Ngồi ra, c n có cổng thơng tin điện tử, trang thông tin điện tử, các
bản tin và đặc san của các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh. Nhìn chung, hoạt
động báo chí trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã có những đóng góp quan
trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
2
luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân; sự chỉ
đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương về các chủ trương,
nhiệm vụ, giải pháp của tỉnh nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề
ra; phản bác kịp thời nh ng luận điệu sai trái của các thế lực th địch; góp
phần định hướng dư luận, tạo được sự đồng thuận xã hội. Các cơ quan
báo chí của tỉnh hoạt động ngày càng ổn định, phát triển cả về số lượng,
chất lượng và đội ngũ nh ng người làm báo ngày càng n ng cao tay nghề,
đáp ứng tốt nhu cầu thông tin của người d n, truyền tải thông tin ngày
càng phong phú, nhanh chóng kịp thời, góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế -xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động báo chí ở tỉnh c n bộc lộ nh ng hạn chế nhất
định: Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật; quy hoạch
phát triển và quản lý báo chí của tỉnh c n nhiều bất cập, lúng túng, chậm
so với yêu cầu. Nội dung thông tin, tuyên truyền từng lúc chưa kịp thời;
chưa mang tính định hướng lớn; chưa thực sự tự đổi mới trước xu thế
phát triển của thời đại; chưa kịp thời dự báo, kiến nghị, đề xuất các giải
pháp phát triển kinh tế- xã hội của địa phương; thiếu những bài viết
chuyên s âu, mang tính thời sự. Sự phối hợp gi a các cơ quan chỉ đạo,
quản lý nhà nước về báo chí và các cơ quan, ban ngành trong tỉnh trong
việc cung cấp thơng tin cho báo chí chưa chặt chẽ, kịp thời; việc giải
quyết các vi phạm trong lĩnh vực báo chí cịn yếu, nể nang nên các sai
phạm vẫn tiếp diễn; trình độ, năng lực của cán bộ quản lý báo chí và
phóng viên, biên tập viên có mặt c n hạn chế chưa theo kịp nhu cầu thực
tế; chưa mở rộng thêm được nhiều đối tượng bạn đọc mới; cơ chế, chính
sách chưa kịp thời đổi mới.
Như vậy, báo chí đóng vai trị rất quan trọng trên mọi lĩnh vực phát
triển của đất nước. Đặc biệt, báo chí cung cấp và phản ánh thơng tin
3
nhanh nhạy, đa chiều, từ đó giúp cho các cơ quan, tổ chức và người dân
tiếp cận khá đầy đủ thơng tin hơn. Bên cạnh đó, báo chí cị n tồn tại
những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, nếu Nhà nước không những biện pháp
hiệu quả sẽ xãy ra những tổn thất khôn lường cho các cơ quan, doanh
nghiệp và người dân. Do đó việc hồnthiện cơng tác quản lý nhà nước về
báo chí là rất cần thiết. Chính vì vậy,
nước về báo chí trên
tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà
địa bàn tỉnh Kiên Giang” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học, chun ngành Quản lý cơng.
. Tình hình nghiên cứu liên quan đen đề tài luận văn
2
Báo chí hiện nay có vai trị, vị trí rất quan trọng trong cơng tác
quản lý nhà nước nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng, vì vậy cần phải
được quan tâm thường xuyên để có những giải pháp phù hợp, kịp thời sẽ
góp phần nâng cao hiệu quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang.
Thời gian qua, có nhiều bài viết, đề tài viết về vấn đề này, được
nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, với cách lý giải, kiến nghị s u s c
và có tính thực tiễn cao. Để có cơ sở nghiên cứu và viết luận văn tốt
nghiệp, tác giả đã tham khảo một số nội dung liên quan như sau:
Quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông của TS.Lê Minh
Tồn, NXB Chính trị Quốc Gia xuất bản phát hành năm 2009, nội dung
chủ yếu cung cấp tri thức về thơng tin, khái niệm, lịch sử hình thành, lựa
chọn thơng tin, các phương tiện truyền thông...
Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí của PGS.TS Lê Thanh
Bình và Th.S. Phí Thị Thanh T âm, NXB Văn hóa - Thơng tin (2009), nội
dung chủ yếu đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về việc quản lý nhà
nước trong lĩnh vực
4
báo chí ở Việt Nam, đồng thời nêu các giải pháp n ng cao hiệu quả quản
lý nhà nước và hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực báo chí ở nước ta thời
gian tới.
Công tác lãnh đạo quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự
nghiệp đổi mới của TS. Nguyễn Thế Kỷ, NXB Chính trị Quốc gia-sự thật
(2012). Tác giả nhấn mạnh hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý báo chí
thời gian qua; đồng thời đề ra tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp
nhằm n ng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý báo chí
những năm s ắp tới.
Quản lý và phát triển thơng tin báo chí ở Việt Nam của nhà báo Đỗ
Q Dỗn, NXB Thơng tin-Truyền thơng (2014); nội dung có nhiều bài
viết, tập trung làm rõ thực trạng tình hình, nh ng vấn đề đặt ra trong cơng
tác quản lý, chỉ đạo và phát triển báo chí; đồng thời cũng đưa ra nh ng
giải pháp cơ bản tạo điều kiện để báo chí truyền thơng Việt Nam phát
triển nhưng bảo đảm quản lý tốt.
Lê Thị Hồng Diễm (2012), Quản lý nhà nước về báo chí trên địa
bàn tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ quản lý Hành chính cơng. Luận văn
đã nêu lên được thực trạng báo chí, cơng tác quản lý nhà nước về báo chí
và nh ng giải pháp n ng cao hiệu quả quản lý nhà nước tại tỉnh Long An.
Luận văn đi s u ph n tích thực trạng và đưa ra các giải pháp khả thi như x
y dựng quy hoạch phát triển báo chí, đổi mới cơng tác quản lý, tăng
cường trách nhiệm cho cơ quan quản lý chuyên ngành...
Đỗ Hữu Quyết (2014), Quản lý nhà nước về báo chí ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay; luận văn Thạc sĩ Chính trị học. Luận văn nêu thực trạng
quản lý nhà nước về báo chí và nh ng giải pháp về tăng cường quản lý
nhà nước tại tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, qua tham khảo luận văn tác giả
c ò n nhận xét, đánh giá về thực trạng của tỉnh c n chung chung; ít đi s u
5
ph n tích nh ng bất cập trong quản lý nhà nước về báo chí cũng như hoạt
động báo chí tại tỉnh Thanh Hóa.
Phạm Thị Yến (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo
chí tại Thành Phố Hồ Chí Minh, luận văn Thạc sĩ Quản lý cơng. Luận
văn phân tích thực trạng, đồng thời đưa ra các giải pháp n ng cao hiệu
quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, tại thành phố Hồ Chí
Minh; các giải pháp đưa ra mang tính khả thi, nhất là công tác x y dựng
và tổ chức thực hiện quy hoạch, trọng t m là công tác phối hợp, thống
nhất gi a các cấp với vai tr là cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí là rất
quan trọng, trong việc định hướng báo chí thực hiện đúng tơn chỉ, mục
đích theo quy định của Luật báo chí.
Qua nghiên cứu các bài viết đã khẳng định được vai trò và tầm
quan trọng của công tác lãnh đạo, quản lý báo chí; nêu lên thực trạng và
gợi mở nh ng định hướng, giải pháp nhằm n ng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về báo chí ở nhiều địa phương nhưng chưa đánh giá được thực
trạng quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Tuy nhiên, thống kê sơ bộ các tài liệu trên, bước đầu giúp cho học
viên tham khảo và kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nh ng nội dung cần thiết
để nghiên cứu, phát triển luận văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn về quản lý nhà nước về
báo chí để ph n tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí
trong nh ng năm qua trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, góp phần đề xuất giải
pháp nhằm n ng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
2.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
6
-
Hệ thống hóa cơ sở lý luận để làm rõ quan niệm về
báo chí; quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về báo chí.
-
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động báo chí và
cơng tác quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên Giang,
nêu rõ nh ng ưu điểm, hạn chế và nguyên nh n.
-
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1.
Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Hệ thống các cơ quan báo chí địa phương và
Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Trong q trình nghiên
cứu, tác giả có mở rộng đánh giá hoạt động của các cơ quan báo chí; việc
phối hợp quản lý báo chí của cơ quan liên quan đến lĩnh vực này.
về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2016.
4.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận
văn
4.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà Nước về báo chí và quản lý nhà
nước về báo chí.
Phương pháp nghiên cứu
7
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
-
Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp tổng hợp, ph
n tích nhằm tạo lập thơng tin phục vụ cho nghiên cứu, đánh giá các khía
cạnh thực hiện công tác quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang.
- Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh đối chiếu những kết
quả từ thực tiễn để làm sáng tỏ những kết quả đạt được cũng như những
tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong cơng tác quản lý nhà nước về báo
chí; trên cơ sở đó đề
xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1.
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như phân tích và đánh giá về
thực trạng công tác quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn:
-
Nêu được những bất cập trong công tác quản lý
nhà nước về báo chí tại tỉnh Kiên Giang;
-
Đề xuất, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong
thời gian tới;
-
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu
tham khảo cho đội ngũ làm công tác quản lý báo chí; đồng thời
cung cấp nh ng kiến thức căn bản trong bồi dưỡng, cập nhật
kiến thức cho nh ng người làm báo ở địa phương.
8
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, kết cấu luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về báo chí.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Giải pháp n ng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
báo chí trên địa bàn tỉnh Kiên Giang từ 2017 đến năm 2025
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ
1.1.
Mơt số khái niêm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về báo chí
Trong xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế
giới hiện nay, hoạt động thơng tin nói chung và báo chí nói riêng ở nước
ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí đang
thực sự có nh ng bước phát triển vượt bậc, đi vào chiều s u về lượng và
chất. Mặc khác, báo chí nước ta c n góp phần n ng cao chất lượng thông
tin đối ngoại, giới thiệu đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc
tế; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, d n chủ, đa dạng, đa phương
hóa các mối quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước. góp phần nâng cao uy
tín và vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế.
Lạp:
Có nhiều khái niệm khác nhau về báo chí. Theo triết học cổ Hy
“Chữ báo chí xuất phát từ chữ information có nghĩa là thông tin, thông
báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra h ình thái gi úp cho sự hiểu
biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy
9
hiện thực khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong
quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo - tác pham - công chúng” [36, tr.6].
Một số quan điểm khác thì khơng định nghĩa báo chí riêng biệt mà
g n liền báo chí với truyền thơng. Ở cách hiểu này, trong Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê năm 2005 [31, tr.1053], định
nghĩa báo chí truyền thơng hiểu theo nghĩa chung nhất và trừu tượng nhất
là “quá tr nh truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng”.
C n tác giả Trần H u Quang trong cuốn Xã hội học truyền thông
đại chúng khẳng định: “Báo chí truyền thơng là một q trình truyền
đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối quan hệ giữa
con người với con người” [ 43, tr.3]. Theo đó, tác giả định nghĩa:
“Truyền thơng đại ch úng là q trình truyền đạt thơng tin một cách
rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền
thông đại ch úng như phát thanh, truyền h ình ”.
Nhìn chung, các tác giả trên bằng cách này hay cách khác, đã cố g
ng đưa ra nh ng định nghĩa chung nhất về báo chí và tựu chung lại đều
xem báo chí là một phương tiện diễn đạt, chia sẻ thông tin gi a các chủ
thể khác nhau trong xã hội. Những định nghĩa được đưa ra như một sự cố
gắng để khẳng định nội hàm cơ bản của báo chí. Theo tác giả thì: Báo chí
là một trong những phương tiện truyền thơng đại chúng, có nhiệm vụ
thơng tin nhanh nhất nh ng sự kiện, vấn đề đang và sẽ xảy ra cho nhiều
người biết và là diễn đàn của nh n d n. Tuy nhiên, trong một phạm vi nhất
định, đ y là định nghĩa khá rộng và chưa biểu thị hết các loại hình báo chí
đang hiện diện trong xã hội và các loại hình ấy được hiểu như thế nào,
diễn đạt ra sao.
Từ những định nghĩa nêu trên, tại Điều 4, Luật Báo chí 2016
khẳng định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí: Báo chí ở
1
0
nước Cộng hòa xã hội ch ủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết
yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, là diễn đàn của nhân
dân [34, tr.3].
Điều 3 Luật báo chí quy định: “Báo chí là sản phẩm thông tin về
các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình
ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn
tới đông đảo công ch úng thơng qua các loại hình báo in, báo nói, báo
hình, báo điện tử” [34. tr.1]. Như vậy, Điều 3 Luật báo chí đã chỉ rõ các
loại hình báo chí trong xã hội và sẽ làm căn cứ chủ yếu để tìm hiểu tất cả
các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.
Hiện nay báo chí nước ta được chia thành 4 loại hình báo chí như sau:
-
Báo in: Được hiểu là loại hình báo chí sử dụng chữ viết,
tranh, ảnh thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm
báo in, tạp chí in. Đ y là hình thức truyền thống và l u đời nhất của báo
chí và được sử dụng rộng rãi phổ biến; hiện nay đang được nâng cao chất
lượng cả về hình thức và nội dung, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
thông tin của nh n d n.
Báo in có nh ng đặc điểm riêng của nó, quan trọng là chuyển tải
nội dung thơng tin qua văn bản in. Tồn bộ nội dung thơng tin của sản
phẩm xuất hiện đồng thời trước m t người đọc, mọi thông tin được tiếp
nhận qua thị giác, tập trung một cách cao độ, chủ động trong việc tiếp
nhận thơng tin, độ chính xác và tin cậy cao, giúp người đọc có thể nhận
thức s u s c nh ng mối quan hệ bên trong phức tạp và tế nhị của vấn đề,
sự kiện; việc lưu gi báo in đơn giản và thuận lợi, trở thành nguồn tư liệu
mà người đọc có thể giữ l âu dài.
1
1
-
Báo nói: Là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh,
được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ
khác nhau.
Ưu điểm của phát thanh là tốc độ và đơn giản. Mọi người nghe tin
tức phát thanh khi họ cần biết một cách nhanh chóng điều gì đang diễn
ra, phát thanh đơn giản và ng n gọn nên thông tin sẽ nhanh hơn. Báo nói
có đặc điểm là t a sóng rộng kh p, thông tin nhanh tiếp nhận đồng thời,
sống động và sử dụng âm thanh tổng hợp. Tuy nhiên, báo nói có hạn chế
là thơng tin lại phụ thuộc vào thời gian, tức là người nghe phải nghe
chương trình một cách tuần tự từ đầu đến cuối một cách hoàn toàn bị
động.
-
Báo hình: Là thơng tin được truyền tải dưới dạng hình ảnh
và âm thanh thơng qua thiết bị máy phát hình và máy thu hình tạo cho
người xem cảm giác sống động của hiện thực cuộc sống. Nói cách khác,
báo hình là loại báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, m
thanh, ch viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng
dụng công nghệ khác nhau.
- Báo điện tử: Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết,
hình ảnh, m thanh, được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện
tử và tạp chí điện tử. Báo điện tử c ịn gọi là internet truyền tải thơng tin
bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, clip... Ngày nay báo điện tử chiếm ưu
thế với khả năng cập nhật thông tin nhanh, phong phú c ng một lúc có thể
cập nhật tin tức của nhiều tờ báo khác nhau gần như mức độ nhanh và
chính xác đạt 90%.
Ngồi ra, c n có thể kể đến các loại hình báo chí khơng chính danh
khác nhau, như: bản tin, tập san, nội san, tài liệu không kinh doanh, báo
“lá cải” hoặc các trang mạng xã hội đang dần xuất hiện, nhưng phát triển
1
2
khá mạnh mẽ và được xã hội đón nhận. Ở m i loại hình báo chí đều có nh
ng thế mạnh và hạn chế khác nhau, nhưng c ng bổ trợ cho nhau để tồn tại
và phát triển trong trào lưu chung của thời đại.
1.1.2.
Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí
Báo chí cũng là hình thức hoạt động xã hội, cần có sự quản lý của
Nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế chưa có khái niệm nào chuẩn xác liên
quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Chính vì lẽ đó, để
dễ hình dung được nội hàm của cụm từ này, trước hết chúng ta đi từ khái
niệm quản lý.
Theo Fayel: “Quản lý là chuỗi hoạt động gồm kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo điều chỉnh và kiểm sốt. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
Theo Hard Koont: “Quản lý là xây dựng và duy trì một mơi
trường tốt gi úp con người hồn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã
định".
Theo Peter F Druker: “Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản
chất của nó khơng nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó
khơng nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là
thành tích ".
Theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình theo nh ng quy luật, quy t c nhất định nhằm
làm cho hệ thống vận hành theo mục đích nhất định đã vạch ra sẵn.
Nói cách khác: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể
quản lý đến các đối tượng được quản lý; quản lý xuất hiện ở bất cứ nơi
nào nếu nơi đó và lúc đó có hoạt động chung của con người.
1
3
-
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi
hoạt động của Nhà nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất
Nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước.
Cò n theo nghĩa hẹp là hoạt động quản lý do một loại cơ quan đặc
biệt thực hiện.
Khi Nhà nước xuất hiện thì phần lớn (phần quan trọng) các công
việc của xã hội do Nhà nước quản lý.
Theo Giáo trình quản lý hành chính Nhà nước: “Quản lý nhà nước
là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và
phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện nh
ng chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc x y dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Xã hội chủ nghĩa”.
-
Quản lý nhà nước về báo chí là sự tác động có tổ
chức, có định hướng và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối
với các q trình, các hoạt động báo chí nhằm khai thác có hiệu
quả các nguồn lực, cơ hội để duy trì và phát triển các hoạt động
báo chí nhằm đạt được nh ng hiệu quả về kinh tế, xã hội mà Nhà
nước đặt ra.
Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về báo chí là sự tác động có
tổ chức bằng quyền lực Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí
được ổn định và phát triển phù hợp chung với xu hướng xã hội.
Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, Nhà
nước là đại diện cho nh n d n, đảm bảo cho công d n được thực hiện các
quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền được tư do ngơn luận, tự do
báo chí. Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo báo chí phát triển,
đáp ứng các nhu cầu thông tin của nh n d n, đóng góp vào sự nghiệp x y
1
4
dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai tr
hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực th địch lợi dụng
chính sách tự do ngơn luận, tự do báo chí để đưa các luận điệu sai trái, th
địch, thực hiện chiến lược “diễn biến hị a bình” gây mất an ninh chính trị
và trật tự an tồn x ã hội ở trong nước.
Theo TS. Nguyễn Thế Kỷ “Quản lý Nhà nước về báo chí gồm các
hoạt động lập pháp, lập quy c a cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nh m
đề ra các chính sách pháp luật điều chính các quan hệ xã hội và hành vi
c a nhân dân liên quan đến báo chí và hoạt động báo chí” [30, tr.76].
Ở góc độ “Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như bất
kỳ một dạng xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ
máy Nhà nước, là công việc của bộ máy hành pháp ” [30, tr.19].
Qua các khái niệm trên, theo tác giả có thể thấy rằng: “Quản lý
nhà nước đối với hoạt động báo chí là tổng thể những hoạt động của bộ
máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho
báo chí thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình ”.
Tuy nhiên, những khái niệm này mang tính tương đối, vì nó được
xây dựng trên cơ sở khái quát hóa nh ng hoạt động chuyên về lĩnh vực
quản lý báo chí của Nhà nước. Trong hoạt động báo chí là một khái niệm
chưa được thống nhất và bao trùm lên đời sống xã hội. Xét về phương
diện điều khiể n học có thể được coi là khá hoàn chỉnh khi đã xác định
được chủ thể quản lý, khách thể hoạt động quản lý, đối tượng của hoạt
động quản lý.
Như vậy, sự quản lý nhà nước về báo chí thơng qua việc ban hành
hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động báo chí. Hệ thống pháp luật về
báo chí tốt cộng với cơng tác quản lý Nhà nước tốt thì hoạt động báo chí
sẽ phát triển để báo chí - cơ quan ngơn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức
1
5
xã hội và diễn đàn lành mạnh của nhân dân. Luật Báo chí 2016 đã bao
qt được vai trị, nhiệm vụ cũng như nh ng quy định về hoạt động báo
chí .
Quản lý nhà nước về báo chí c n thể hiện qua công tác quy hoạch.
Quy hoạch được hiểu là s p xếp, bố trí theo mơ hình quản lý nào đó nhằm
định hướng đi vào ổn định và phát triển. Ngồi ra, Nhà nước quản lý báo
chí thơng qua đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm cơng tác quản lý
nhà nước về báo chí và quản lý báo chí thơng qua cơng tác thanh tra,
kiểm tra hoạt động báo chí của các cơ quan báo chí.
1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về báo chí
Ở nước ta, báo chí ln ln là một cơng cụ tư tưởng nhằm thể
hiện ý chí, lý tưởng của giai cấp, của dân tộc, của Nhà nước. Nhà nước ta
là Nhà nước “c a dân, do dân và v dân”, hoạt động báo chí của Nhà
nước ta là thực hiện tốt nhất ý chí của nh n d n nhằm x y dựng một nước
Việt Nam d n giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Do vậy, báo chí là lĩnh vực gắn liền với cơng tác chính trị tư tưởng,
với sự nghiệp cách mạng của nh n d n; trước đ y cũng như hiện nay, Nhà
nước ta ln tạo mọi điều kiện để báo chí hoạt động. Sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động báo chí là điều kiện cần thiết,
quan trọng để cho báo chí ở nước ta hoạt động, phát triển đúng định
hướng, phục vụ tốt cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trong thực tiễn, hoạt động báo chí cách mạng ở nước ta cần nhận
thức rõ mấy khía cạnh cơ bản:
Về phía lãnh đạo, quản lý đó là nh ng hoạt động nhằm thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, phục vụ lợi ích của nh n d n, của giai
cấp, của d n tộc. Để thực hiện được điều này, báo chí phải thông tin,
tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước
1
6
đến mọi tầng lớp nh n d n, làm cho mọi người d n đều có thể nhận thức rõ
quyền hạn và trách nhiệm của mình, sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, đồng thời kiên quyết đấu tranh với nh ng cái xấu, cái lạc hậu,
nh ng cái làm tổn thương đến uy tín và sự ổn định, sự phát triển bền vững
của chế độ.
Về phía xã hội, đó là sự đ i h i cần phải được đáp ứng, th a mãn về
nhu cầu thông tin. Thơng tin báo chí được cập nhật nhanh nhất và phổ
quát nhất, phục vụ tích cực kịp thời nhất để đông đảo người d n n ng cao
sự hiểu biết, trình độ kiến thức về nhiều mặt. Trong thời đại của cơng
nghệ thơng tin, đối với nhiều người, báo chí là phương tiện giáo dục h u
hiệu, thiết thực để hình thành lối sống, xây dựng nhân cách, hồn thiện
con người về mặt xã hội.
Về phía cá nh n người làm báo, đ y là một nghề có liên quan đến
chính trị, tư tưởng văn hóa, mang tính xã hội cao. Trong thực tế, người
làm báo ở nước ta được Đảng, Nhà nước trao quyền hạn rất lớn nhưng
khơng vì thế mà cho phép mình lạm dụng. Khi nói, khi viết cần hết sức
cẩn trọng không để bị kẻ xấu lợi dụng và không bị vấp ngã trước những
cám dỗ đời thường.
Là phương tiện truyền thơng ln g n bó với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta ln coi báo chí là một cơng cụ chính
trị tư tưởng, vũ khí s c bén trong cuộc đấu tranh tư tưởng với kẻ th cũng
như trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ngay từ khi khởi xướng sự nghiệp đổi mới, c ng với việc hoạch
định chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho đất nước, Đảng ta đã nêu rõ
quan điểm phát triển sự nghiệp báo chí cả về nội dung và hình thức nhằm
đạt được yêu cầu làm thế nào để báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng,
1
7
Nhà nước, của tổ chức xã hội và là diễn đàn của nh n d n, thực hiện tốt
vai tr phản ánh, định hướng, hướng dẫn dư luận, làm lành mạnh xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho báo chí bung ra phát triển
một cách mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Để đáp ứng sự đ i h i
với cơ chế mới, các nhu cầu mới và sự đa dạng của cơng chúng, trong
hoạt động báo chí và kể cả công chúng đều không chấp thuận phương
thức thông tin một chiều, thiếu thuyết phục, do đó cần có sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước để tránh sự “vượt rào” của thơng tin.
Vì vậy, cơng tác quản lý nhà nước đối với báo chí là vơ cùng cần
thiết. Nhà nước quản lý để báo chí thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình trong khn khổ pháp luật, phát huy vai tr của cơ quan xung kích
trên mặt trận tư tưởng và là diễn đàn của nh n d n.
Tác giả Thạc sỹ Phí Thị Thanh T m đã ph n tích, đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương; các Bộ và cơ quan
ngang Bộ; thực trạng quản lý nhà nước về báo chí ở các địa phương và
nhận định:
“Báo chí tác động từng ngày từng giờ đến đời sống xã hội. Vì vậy,
mọi chế độ chính trị đều có ch ủ trương và biện pháp quản lý đối với báo
chí theo hướng có lợi nhất cho mình. Ở nước ta, mục tiêu cao nhất của
báo chí cách mạng là phục vụ cho sự phát triển của đất nước và lợi ích
của nhân dân. Bởi vậy quản lý nhà nước về báo chí trong từng thời kỳ
phát triển đất nước cũng phải có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với
sự thay đổi hàng ngày, hàng giờ của thực tiễn xã hội”
Tầm quan trọng của báo chí rất cao, hoạt động của báo chí có sự
ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đến t m lý, nguyện
vọng của người d n cũng như quyền d n chủ của họ, nếu không quản lý
1
8
báo chí để hoạt động báo chí đi lệch hướng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các thế lực th địch trong và ngồi nước có cơ hội dễ dàng kích động lơi
kéo chống phá nhà nước ta, gây bất ổn chính trị.
Yêu cầu thực tế đặt ra phải thường xun n ng cao cơng tác trình
độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ báo chí. Đây là
nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan t m. Bởi vì báo chí là
phương tiện thơng tin, tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng
và Nhà nước và đội ngũ báo chí chính là nh ng chiến sĩ xung kích trên
mặt trận. Để làm tốt điều đó, đội ngũ báo chí có tư tưởng chính trị rõ
ràng, am hiểu pháp luật cũng như tầm quan trọng của báo chí để thực thi
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời phát huy hiệu quả các công
cụ quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí để hoạt động báo chí phát
triển mạnh mẽ không chỉ trong nước, trong khu vực mà c n trên phạm vi
toàn thế giới.
1.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí
Xét trên bình diện chung, hoạt động báo chí có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống xã hội. Vì vậy, muốn đảm bảo các hoạt động báo chí đặt
dưới sự điều chỉnh của pháp luật thì cần phải có những nguyên tắc quản
lý phù hợp. Những nguyên tắc cơ bản đó là:
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo hoạt động báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ
thị, định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí và định
hướng nội dung thơng tin, tun truyền của báo chí; lãnh đạo cơng tác tổ
chức, cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng
và đảng viên trong cơ quan báo chí; lãnh đạo các đồn thể chính trị trong
cơ quan báo chí. Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa đường lối, quan
điểm của Đảng về báo chí bằng pháp luật, chính sách trong quản lý hoạt
1
9
động báo chí. Trong q trình lãnh đạo nh n d n ta tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng trong việc đổi
mới tư duy, phong cách và phương thức lãnh đạo đối với cơng tác báo
chí.
Để bảo đảm cho báo chí thực sự là công cụ tin cậy của Đảng, Nhà
nước, thể hiện tiếng nói của nh n d n, Đảng ta đã đặc biệt quan t m đến
công tác giáo dục, bồi dưỡng về bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp,
trình độ của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo
chí. Bởi vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đội ngũ cán bộ những người
làm báo luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng;
bám sát thực tiễn, không ngừng sáng tạo ra nh ng tác phẩm báo chí có
chất lượng cao, phản ánh trung thực mọi mặt của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, các cấp ủy đảng đã thường xuyên coi trọng việc x y
dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí v ng mạnh về mọi mặt; đề cao
vai tr đảng viên của người làm báo, nhất là đội ngũ nh ng người gi cương
vị lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan báo chí; giữ đúng tơn chỉ, mục đích,
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo chí và nhà báo; n ng cao chất
lượng tư tưởng, chính trị, văn hóa, khoa học của từng cơ quan báo chí, để
báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã
hội, xã hội-nghề nghiệp và là diễn đàn tin cậy của nh n d n.
- Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận của
nhân dân
Tơn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí là một
nguyên t c hiến định. Hiến pháp nước Cộng h a xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10, ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, quy định cơng d
n có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, có quyền được thơng tin. Hiến
2
0
pháp 2013 mới đây cũng khơng ngồi ngun t ắc đó. Hiến pháp năm
1992, được cụ thể hóa bằng Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1992. Cụ
thể Điều 2, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 và tại Điều 13, Luật
Báo chí năm 2016 vẫn tiếp tục Quy định “Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi để cơng dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo
chí và để báo chí phát huy đúng vai trị c ủa m ình” [34, tr.8].
Như vậy, quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí có nội
dung rõ ràng, cụ thể. Thơng qua báo chí, cơng dân có quyền nhận tin, đưa
tin, quyền bày t quan điểm của mình về nh ng vấn đề đã và đang xảy ra
trong đời sống xã hội. Cơng d n cũng có quyền tham gia ý kiến với Đảng
và Nhà nước về các chủ trương, chính sách. Tất cả điều này như là một
biểu hiện khuôn mẫu cho một xã hội d n chủ, xuất phát từ lợi thế, vai tr
của báo chí trong việc định hướng dư luận xã hội.
Để đảm bảo nguyên tắc này, Nhà nước luôn tạo ra những cơ chế
pháp lý ph hợp với các loại hình báo chí nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu
của quần chúng nhân dân; Nhà nước cần phải luôn tạo ra những cơ chế,
pháp lý phù hợp với các loại hình báo chí, đặc biệt là báo in nhằm phục
tốt nhất nhu cầu đông đảo người d n. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần đề
ra phương hướng cho các hoạt động báo chí tu n thủ pháp luật, nhằm tạo
điều kiện tốt để các cơ quan chức năng thuận lợi hơn trong quản lý.
-
Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động
báo chí một cách bình đẳng của tất cả cơng dân.
Đây là nguyên tắc biểu hiện tính nhân văn s âu sắc với mục tiêu
nâng cao chất lượng dân trí. Nhà nước có chính sách hỗ trợ ngân sách,
tạo điều kiện cho xuất bản, phát hành báo chí đến với nh n d n các v ng
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, đến với cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài... Nhà nước cần có chính sách để
2
1
người d ân được dễ dàng tiếp cận, huy động các nguồn lực khác nhau để
đảm bảo sự hoạt động của các cơ quan báo chí với nhiều tơn chỉ mục
đích khác nhau nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu về thơng tin và phát triển
d n trí của các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
-
Nguyên tắc kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn
trọng tự do báo chí, tự do ngơn luận làm trái pháp luật.
Hoạt động báo chí ln có nh ng ảnh hưởng nhất định đến tình
hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả quốc tế bởi tính quần chúng
của nó. Nhất là ngày nay vấn đề tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do
ngơn luận trên Thế giới ln đặt ra và xem như là quyền cơ bản của con
người mà các thể chế chính trị và Nhà nước buộc phải tơn trọng, do đó,
các thế lực th địch bên trong và bên ngồi ln tìm cách lợi dụng báo chí
và các diễn đàn nh n d n làm cơ sở cho việc chống phá nhà nước ta,
chống phá công cuộc x y dựng xã hội chủ nghĩa, chống phá sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, Nhà nước ta phải luôn luôn đề ra kim chỉ
nam cho hoạt động của mình trước tình hình lợi dụng đó là kiên quyết
đấu tranh và đấu tranh đến c ng để chống lại các hành vi này.
Tại Điều 13 Luật Báo chí năm 2016 ghi rõ: Báo chí, nhà báo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không ai
được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí để xâm
phạm đ n lợi ích nhà nước, tập thể, cơng dân. [34, tr.8].
1.4. Nôi dung quản lý nhà nước về báo chí
Trên cơ sở quy định của pháp luật, để đảm bảo cho hoạt động báo
chí được diễn ra thơng suốt, đáp ứng nhu cầu về thông tin của nh n d n,
nhà nước luôn quan t m x y dựng nội dung quản lý xã hội về báo chí trên
cơ sở ph hợp với thẩm quyền pháp lý của từng chủ thể quản lý nhất định
theo các điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn. Các nội dung quản lý xã
2
2
hội đối với báo chí cũng được xác định và x y dựng nhằm mục tiêu một
mặt quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về
báo chí một cách nhanh chóng, chính xác, mặt khác chống lại mọi m
mưu thủ đoạn của các thế lực th địch lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo
chí để chống phá cách mạng nước ta.
Các nội dung quản lý nhà nước đối với báo chí đề cập ở đ y xuất
phát từ các quy định hiện hành của Đảng và nhà nước, gồm: Nghị định số
51/2002/NĐCP, ngày 26/2/2002 của Chính phủ; Thơng tư liên tịch số 03/2008/TTLTBTTTT- BNV, ngày 30/6/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ
Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Sở Thông tin và Truyền thơng thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phịng
Văn hóa và Thông tin thuộc Ủy ban nh n d n cấp huyện quy định quản lý
nhà nước về báo chí ở địa phương. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí
được quy định mới nhất tại Điều 6, Luật Báo chí năm 2016, gồm 10 nội
dung như sau:
- Xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển báo chí.
Chiến lược phát triển thông tin là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗ i quốc gia. Sự thành bại của
mỗ i quốc gia tùy thuộc rất lớn vào khả năng làm chủ, n m gi lợi thế
thông tin.
Ở địa phương, Ủy ban nhân d ân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương là cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, có nhiệm vụ x y dựng dự
án quy hoạch phát triển báo chí địa phương. Dự án đó phải phù hợp với
tình hình phát triển báo chí của địa phương sở tại, đồng thời không được
trái với Chiến lược thông tin Quốc gia.
2
3
Ở Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm
trước Chính phủ trong việc lập và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch
phát triển sự nghiệp báo chí bao gồm báo in, báo điện tử, thơng tấn, phát
thanh, truyền hình. Sau khi lập quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí ph
hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, cũng như tình hình thực tiễn
báo chí quốc gia, Bộ Thơng tin và Truyền thơng sẽ trình Thủ tướng
Chính phủ ký quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển thơng tin Quốc
gia.
Đến nay, nước ta đã có nhiều Chiến lược thông tin Quốc gia được
phê duyệt, như: Chiến lược thơng tin Quốc gia có hiệu lực là “Chiến lược
phát triển thông tin đến năm 2010” được ban hành theo Quyết định số
219/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/9/2005, Chiến lược
thông tin đề ra các mục tiêu chung về phát triển báo chí, truyền thơng;
cũng như các giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu đó; Chỉ thị số
37/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Thơng báo
Kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường
lãnh đạo quản lý báo chí; đề án quy hoạch phát triển và quản lý báo chí
tồn quốc đến năm 2025.
-
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí, xây dựng ch ế độ, chính sách về báo chí.
Bộ Thơng tin và Truyền thơng chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về báo chí, có nhiệm vụ soạn thảo dự án luật,
văn bản dưới luật, chính sách, chế độ về báo chí.
Các văn bản trên, sau khi được Bộ Thông tin và Truyền thơng soạn
thảo sẽ được trình Quốc hội phê duyệt, nếu được 2/3 tổng số đại biểu
Quốc hội tán thành sẽ được thông qua thành Luật. Hệ thống Luật Báo chí
đã được ban hành gồm: Luật báo chí 1989, Luật sửa đổi, bổ sung một số
2
4
điều của Luật Báo chí năm 1999. Hiện nay, hoạt động báo chí của nước ta
đang thực hiện Luật Báo chí năm 2016.
Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có nhiệm vụ thi hành
Luật Báo chí, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ về báo
chí đối với cơ quan báo chí ở địa phương. Thực hiện quản lý nhà nước
đối với hoạt động báo chí Trung ương và báo chí địa phương khác hoạt
động tại địa phương mình theo uỷ quyền của Bộ Thơng tin và Truyền
thơng.
Ngồi Luật Báo chí, các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có
quyền hạn và trách nhiệm ban hành, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các
văn bản dưới Luật do mình đề ra. Các văn bản quy phạm pháp luật về báo
chí phải phù hợp với Luật Báo chí và thiết thực với thực tiễn hoạt động
báo chí ở địa phương.
chí.
-
Tổ chức thơng tin cho báo chí; quản lý thơng tin của báo
Để nguồn thơng tin đưa đến cho công chúng là chuẩn mực và đúng
“luồng”, cần có sự định hướng vĩ mơ của Nhà nước. Muốn vậy, việc tổ
chức thơng tin cho báo chí, quản lý thơng tin của báo chí phải được thực
hiện một cách nghiêm túc, tuân theo các qui định của Luật Báo chí.
Tổ chức thơng tin cho báo chí được hiểu là sự định hướng cho báo
chí nên viết cái gì và khơng nên viết cái gì. Quản lý thơng tin cho báo chí
là kiểm tra, giám sát thơng tin trên các loại hình báo chí. Việc tổ chức
thơng tin cho báo chí và quản lý thơng tin của báo chí khơng thể và
khơng được hiểu là sự kiểm duyệt báo chí.
Điều 9, Luật Báo chí quy định các hành vi bị nghiêm cấm như:
Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hịa xã hội ch ủ nghĩa Việt
Nam có nội dung xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân;
2
5