Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

luận văn, quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.98 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt Nam
đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, đồng hành cùng dân tộc trong cơng
cuộc đấu tranh giải phóng trước đây và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đặc biệt trong hơn 30 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế, thực
hiện tốt chức năng tư tưởng, báo chí nước ta đã chủ động, tích cực và có nhiều sáng
tạo, góp phần vào việc truyền bá, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước vào cuộc sống. Có thể khẳng định rằng, báo chí nước ta đã quan tâm, xử lý
tốt mối quan hệ giữa tính định hướng chính trị, tư tưởng và việc đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng; phát huy được vai trị, vị thế trong việc thơng tin, tuyên
truyền, định hướng tư tưởng, dư luận xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thành tựu là dòng chủ đạo, báo chí nước
ta vẫn cịn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Một số cơ quan báo chí chưa thực hiện tốt
chức năng tư tưởng, văn hóa; nhiều sản phẩm báo chí tiếp tục chạy theo xu hướng
giật gân, câu khách, xa rời tơn chỉ, mục đích, đối tượng, nhất là trong các ấn phẩm
phụ, số chuyên đề, báo điện tử. Thơng tin thiếu chuẩn xác, thiếu nhạy cảm chính trị.
Việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống báo chí vẫn cịn những bất cập, dẫn đến trùng lắp
về nội dung, phân tán, lãng phí về nhân lực, tài chính...
Có nhiều ngun nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên. Trong đó, đáng
quan tâm là công tác chỉ đạo, quản lý, quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí
của cơ quan chỉ đạo, quản lý ở Trung ương và địa phương cịn nhiều hạn chế; cơ chế,
chính sách, hệ thống văn bản pháp luật còn thiếu và bất cập; một số nội dung của
Luật Báo chí khơng cịn phù hợp với thực tiễn...

1


Đắk Lắk là tỉnh ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng


về chính trị, kinh tế và quốc phịng, an ninh; diện tích tự nhiên là 13.125 km2, dân số
trên 1,8 triệu người, gồm 47 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân
tộc thiểu số chiếm hơn 33%, riêng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm hơn 22%.
Toàn tỉnh có 184 xã, phường, thị trấn thuộc 15 huyện, thị xã, thành phố; 2.470 thơn,
bn, tổ dân phố, trong đó có 608 bn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; tín đồ các
tơn giáo chiếm gần 25%.
Hiện nay, các cơ quan báo chí của tỉnh được Bộ Thơng tin - Truyền thông cấp
giấy phép hoạt động, gồm: Báo Đắk Lắk, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và Tạp
chí Chư Yang Sin (Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh). Bên cạnh 01 Đài Phát thanh Truyền hình cấp tỉnh cịn có 15 Đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện, thị xã,
thành phố và 184 Đài truyền thanh cấp xã, phường, thị trấn. Ngồi ra, cịn có một số
cơ quan báo chí Trung ương và báo ngành thường trú tại địa phương (11 cơ quan báo
chí đặt văn phịng đại diện và 05 cơ quan báo chí có phóng viên thường trú).
Hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua đã có những
đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước đến cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân; sự chỉ
đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương về các chủ trương, nhiệm vụ, giải
pháp của tỉnh nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; chú trọng tuyên truyền,
biểu dương gương điển hình tiên tiến; phê phán những tiêu cực, thói hư, tật xấu trong
đời sống xã hội; đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động, lơi kéo đồng
bào dân tộc thiểu số biểu tình, gây rối, vượt biên trái phép...Các cơ quan báo chí của
tỉnh ngày càng được đổi mới cả về hình thức và nội dung; cung cấp, truyền tải thông
tin ngày càng phong phú, nhanh chóng kịp thời, góp phần quan trọng vào sự phát
triển trên mọi lĩnh vực của tỉnh; thực hiện nghiêm tơn chỉ, mục đích, phục vụ có hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.

2


Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, hiệu quả, hoạt động báo chí của
tỉnh Đắk Lắk vẫn cịn những hạn chế, tồn tại nhất định: Nội dung, hình thức báo chí

chưa thật hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa thật sự chi phối làm chủ
thông tin và dư luận xã hội; tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương người tốt,
việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước chưa thường xuyên, chưa sâu rộng; chưa
có nhiều tác phẩm có giá trị, sức lan tỏa cao và đạt giải thưởng báo chí quốc gia.
Đáng lo ngại nhất là một số cơ quan đại diện, phóng viên thường trú thông tin một số
vụ việc trên báo chí chưa thật khách quan, trung thực, chuẩn xác, gây dư luận không
tốt trong xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh, nhất
là đối với một tỉnh có đơng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên có yếu tố
an ninh, chính trị, quốc phịng nhạy cảm...
Trước u cầu mới của cách mạng, tăng cường công tác quản lý, phát huy vai
trị của báo chí là u cầu khách quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để báo chí của
tỉnh Đắk Lắk phát triển đúng định hướng, đúng quy định là địi hỏi cấp thiết, nhất là
hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước.
Từ thực tiễn và yêu cầu cấp thiết cần phải có những giải pháp tăng cường quản
lý nhà nước về báo chí hiện nay trên địa bàn tỉnh, tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà
nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk" để nghiên cứu, viết luận
văn tốt nghiệp cao học, chun ngành Quản lý cơng
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đây là hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, có vai trị vị trí rất quan
trọng, vì vậy cần phải được quan tâm thường xuyên để có những giải pháp phù hợp
kịp thời trong q trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trong thời gian qua đã có rất
nhiều bài viết, đề tài, cơng trình nghiên cứu, luận văn, luận án, v.v. liên quan đến vấn
đề này dưới nhiều góc độ khác nhau, với những lý giải, kiến nghị sâu sắc và có giá trị
thực tiễn cao. Hiện nay các cơng trình, đề tài, tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực này có
thể kể đến một số tài liệu sau:

3


-


PGS.TS. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với

báo chí trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-

PGS.TS. Lê Thanh Bình, ThS. Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý

nhà nước và pháp luật về báo chí, Nxb Văn hóa Thơng tin.
-

TS. Lê Minh Tồn (2009), Quản lý nhà nước về thơng tin và truyền

thơng, Nxb Chính trị quốc gia.
-

TS. Hồng Quốc Bảo (2010), Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính.
-

TS. Nguyễn Thế Kỷ (2012), Công tác lãnh đạo quản lý báo chí trong

25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới., Nxb Chính trị quốc gia.
-Ths. Phí Thị Thanh Tâm (2009) “Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ
hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
-

Một số bài viết trên các báo, tạp chí như:


-

TS Hà Huy Phượng, (2017) Báo chí - Cơng cụ hoạt động hiệu quả

trong cơng tác tư tưởng 2017;
-

Ths. Doãn Thị Thuận, (2016) Kinh nghiệm quản lý báo chí điện tử ở

một số quốc gia trên thế giới;
-

Ths. Nguyễn Thị Mai Anh, ( 2016) Quản lý nhà nước về báo chí trong

thời kì đổi mới.
Tóm lại tất cả các cơng trình liên quan đến lĩnh vực Quản lý nhà nước đối với
hoạt động báo chí và truyền thông mà tác giả liệt kê ở trên là các cơng trình xây dựng
và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về hoạt động báo chí và quản lý Nhà nước đối
với hoạt động báo chí, vai trị và đóng góp của báo chí trong đời sống xã hội. Phân
tích những bất cập của pháp luật nước ta trong những quy định về quản lý hoạt động
báo chí. Trình bày các ưu khuyết diểm trong cơng tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động báo chí của Nhà nước ta và tìm ra các nguyên nhân. Từ cơ sở trên, hầu hết các
tác giả đề ra những biện pháp mang tính khả thi cho cơng tác quản lý Nhà nước đối

4


với hoạt động báo chí truyền thơng và đưa ra những ý kiến mới cho việc xây dựng
pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ hơn, nhằm tạo ra hành lang pháp lý tích cực cho
cơng tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí.

Về thực tiễn quản lý nhà nước đối với báo chí tại tỉnh Đắk Lắk trong thời gian
qua chưa có một bài viết cũng như đề tài nghiên cứu nào.
Qua các tài liệu trên thì đây là các cơng trình rất giá trị đối với những người
nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học pháp lý, chuyên ngành Quản lý công và
ở mức độ nhận xét chung về thực trạng hoạt động báo chí trong phạm vi tồn quốc.
Trên thực tế, nguồn tài liệu tham khảo, các sách khảo cứu chuyên đề về quản lý báo
chí khá nhiều, nhưng tài liệu mới cịn q ít, nhất là chưa có cơng trình khoa học nào
đi sâu nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ở tỉnh Đắk Lắk, vì thế
đã có khó khăn, trở ngại trong việc nghiên cứu của tác giả.
Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành Quản lý cơng của mình khơng trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu trước đây,
tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã giúp tác giả bổ sung thêm kiến thức về khung
lý thuyết cũng như phương pháp ứng dụng các kiến thức cơ bản của khoa học báo
chí, kế thừa một số nội dung về lý luận nhằm giải quyết những vấn đề đặt ta trong
thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại
tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích hệ thống và phân tích cơ sở khoa học quản lý nhà
nước đối với hoạt động báo chí; vận dụng vào quản lý nhà nước đối với hoạt động
báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
quản lý nhà nước đối với báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

5



-

Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với

báo chí, vận dụng trong quản lý nhà nước đối với báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động báo chí và quản lý nhà nước

đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thời gian qua.
- Phân tích phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quản lý nhà nước đối với hoạt động

của báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
-

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những nội dung quản lý nhà nước

đối với hoạt động của báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk theo quy định của pháp

luật.
-

về không gian: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt

động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh
Đắk Lắk.
-

về thời gian: từ năm 2011 đến năm 2016

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về báo chí cách
mạng và quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trong thời kỳ đổi mới.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
-

Phương pháp thu thập thông tin, tài liệu;

6



-

Phương pháp tổng hợp;

-

Phương pháp thống kê;

-

Phương pháp phân tích;

-

Phương pháp so sánh;

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.

Ý nghĩa lý luận
Luận văn tổng quan góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý

nhà nước đối với hoạt động báo chí; được vận dụng trong quản lý nhà nước đối với
báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn
-


Phân tích làm rõ thực trạng hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk

-

Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của

Lắk
báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế.
-

Phân tích phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện

quản lý nhà nước đối với hoạt động của báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
-

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong giảng dạy, học tập và cho các nhà quản lý liên quan đến báo chí.
7. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của Luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hoạt động quản lý nhà nước
đối với báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
C hương 1
C Ơ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HO T N BÁO CHÍ


7


1.1.

Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài luận văn

1.1.1. Thông tin và truyền thông
- Thông tin:
Chúng ta đang sống trong thời đại mà ngôn ngữ thông tin được đề cập mọi lúc,
mọi nơi, chẳng hạn như, một nền công nghiệp thông tin, một xã hội thông tin, thông
tin là nguồn lực của sự phát triển, thông tin là lợi nhuận.. .Có thể nói, khái niệm thơng
tin là khái niệm cơ bản của khoa học, cũng là khái niệm trung tâm của xã hội trong kỷ
nguyên số. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người đều dựa trên một hình thức
giao lưu thơng tin nào đó. Mọi tri thức đều bắt nguồn bằng một thông tin về những
điều đã diễn ra, về những cái người ta đã biết, đã nói và đã làm. Và điều đó ln xác
định bản chất và chất lượng của những mối quan hệ của con người
Thông tin được hiểu là tất cả các sự kiện, sự việc, ý tưởng, phán đoán làm tăng
thêm sự hiểu biết của con người. Thơng tin hình thành trong q trình giao tiếp, một
người có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được
trong môi trường xung quanh.
Theo quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội (thế
giới vật chất) bằng ngơn từ, ký hiệu, hình ảnh.hay nói rộng hơn bằng tất cả các
phương tiện tác động lên giác quan của con người, khi khoa học cơng nghệ phát triển
đến trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, thuật ngữ thông tin cũng có
những cách hiểu khác nhau khi sử dụng đến nó. Trong lĩnh vực viễn thơng, thơng tin
là tồn bộ hoạt động nhằm mục đích vận chuyển, đảm bảo tính chính xác của các
thông điệp.
Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, thông tin hoạt động chủ yếu dựa trên

nội dung của các thông điệp, nhất là khi tiếp xúc với công chúng. Trong lĩnh vực báo
chí, thơng tin được dùng để nói đến chất liệu ngơn ngữ sống, sự miêu tả câu chuyện,
bằng chứng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực tại. Những người hoạt động

8


trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng như: phóng viên, biên tập viên, nhà báo.. .là
những người được đào tạo chủ yếu về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những
vấn đề liên quan đến con người luôn là nguồn cảm hứng chính trong các hoạt động
thơng tin của họ. Với họ, thông tin là mục tiêu để họ sáng tạo không ngừng. Như vậy,
cùng sử dụng thuật ngữ thông tin, nhưng khái niệm thông tin mà các nhà báo sử dụng
hoàn toàn khác với những khái niệm thông tin mà các nhà kỹ thuật viễn thông xử lý
hoặc thông tin mà các nhà tin học chế tạo. Để có cái nhìn phù hợp với định hướng,
trong nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào phân tích thuật ngữ thơng tin trong báo chí.
- Thơng tin trong báo chí: Trong hoạt động báo chí, thơng tin là cơng cụ chủ
yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Thơng tin trở thành cầu nối giữa báo
chí và cơng chúng. Nó là dụng cụ làm việc của nhà báo, với sự giúp đỡ của dụng cụ
đó, những cơng việc đa dạng và quan trọng được thực hiện. Trong thực tiễn báo chí
hiện nay, khi đề cập tới thuật ngữ thơng tin, các nhà báo cũng có nhiều cách sử dụng
khác nhau. Có trường hợp, các nhà báo sử dụng nó để biểu thị tính chung nhất của
các thơng báo ngắn, khơng kèm theo lời phân tích, bình luận về một sự kiện mới (như
tin vắn, tin ngắn). Trong trường hợp khác, nó được dùng để chỉ tất cả các thể loại
được dùng để ghi chép những sự kiện, hiện tượng mới như: tin tức, tường thuật,
phỏng vấn.
Thông tin hiện thực là những thông tin được nhà báo sáng tạo và được công
chúng tiếp nhận qua các phương tiện thơng tin đại chúng hoặc có thể họ là người
nhận thứ hai (nghe người đã từng đọc, từng xem qua kể lại). Việc đảm bảo sự ổn định
trong mối quan hệ lẫn nhau giữa nhà b áo và công chúng được thể hiện qua các tác
phẩm và chương trình là cần thiết, đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thơng

tin hiện thực.
-

Truyền thơng:

Truyền thơng (communication) là q trình truyền đạt, chia sẻ thông tin, là
một kiểu tương tác xã hội với sự tham gia của ít nhất 02 tác nhân. Lịch sử loài người

9


cho thấy, con người có thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác lẫn nhau trước
hết là nhờ vào hành vi truyền thông (thông qua ngôn ngữ hoặc cử chỉ, điệu bộ, hành
vi.để chuyển tải những thông điệp, biểu lộ thái độ cảm xúc). Qua q trình truyền
thơng liên tục, con người sẽ có sự gắn kết với nhau, đồng thời có những thay đổi
trong nhận thức và hành vi. Chính vì vậy, truyền thơng được xem là cơ sở để thiết lập
các mối quan hệ giữa con người với con người, là nền tảng hình thành nên cộng
đồng, xã hội. Nói cách khác, truyền thơng là một trong những hoạt động căn bản của
bất cứ một tổ chức xã hội nào. Thông thường người ta thường chia truyền thơng
thành 3 loại đó làTruyền thơng liên cá nhân (giữa người này với người khác);Truyền
thông tập thể (truyền thông trong nội bộ một tổ chức);Truyền thơng đại chúng.
-

Báo chí: là môt bộ phận của truyền thông đại chúng, nhưng là

bộ phận chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính
chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của truyền thơng
đại chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền
thơng đại chúng; và ngược lại, nói đến truyền thơng đại chúng - trước hết phải
nói đến báo chí. Báo chí trong trường hợp này đươc dùng, đươc hiểu theo

nghĩa rộng, bao gồm báo in, báo chí phát thanh, báo chí truyền hình, báo mạng
điện tử (phát hành trên mạng internet) và hãng thông tấn. Báo chí theo nghĩa
hẹp, là bao gồm báo, tạp chí và bản tin thời sự. Bản chất của báo chí truyền
thơng có tính chất sau:
Thứ nhất, là họat động thông tin - giao tiếp xã hội;
Thứ hai, là họat động liên kết (kết nối) xã hội;
Thứ ba, là họat động can thiệp xã hội.
Thứ tư, là họat động chính trị - xã hội.
Thứ năm, là hoạt động kinh tế - dịch vụ xã hội
- Bảo đảm quyền được thông tin: Được thông tin là một trong những quyền cơ
bản của con người, được pháp luật bảo vệ. Truyền thông đại chúng (còn gọi là báo

1
0


chí) có vai trị quan trọng và khơng thể thay thế trong việc đáp ứng quyền cơ bản đó
và thơng tin cũng được xem là chức năng cơ bản của báo chí.
Truyền thơng đại chúng ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của
công chúng và sự phát triển mạnh mẽ của báo chí cũng dựa trên nền tảng là sự gia
tăng nhu cầu thông tin trong xã hội.
Nhiều cuộc điều tra xã hội đã cho thấy, phần lớn người dân thường trả lời là
mình biết tin tức và tất cả những thông tin diễn ra xung quanh nhờ theo dõi các
phương tiện truyền thông đại chúng. Nói cách khác báo chí, truyền thơng chính là
phương tiện hữu hiệu trong việc cung cấp, trang bị thông tin, kiến thức trên tất cả các
lĩnh vực, góp phần nâng cao nhận thức cho công chúng. Đây cũng là lý do tạo nên sự
tin tưởng của công chúng đối với chất lượng và nội dung thông tin được báo chí đưa
ra. Chính từ sự tin tưởng đó, cơng chúng mới đi theo định hướng của báo chí, có phản
hồi và tích cực hợp tác, thậm chí trở thành nguồn tin của báo chí.
1.1.2.


Báo chí

Báo chí là phương tiện thơng tin, tun truyền. Trong xã hội có giai cấp, báo
chí là công cụ đấu tranh giai cấp. Theo các nhà nghiên cứu, báo chí là một mặt của
đời sống xã hội, từ khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng q trình phát triển
của lồi người. Trong q trình đó, báo chí có những tác động to lớn đối với xã hội
loài người được thể hiện trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống.
Việc nhận thức đúng vai trị của báo chí có ý nghĩa rất lớn góp phần vào việc
điều hịa các mối quan hệ xã hội theo định hướng chung của nhà nước, tạo ra môi
trường ổn định để phát triển kinh tế, xã hội. Vì thế, trong quá khứ cũng như hiện tại
có nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra những khái niệm khác nhau về báo chí dưới
những góc độ khác nhau.
Theo triết học cổ Hy Lạp: “Chữ báo chí xuất phát từ chữ “information” có
nghĩa là thơng tin, thông báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho

1
1


sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện
thực khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ
giữa nh à báo- tác phẩm- công chúng” [47, tr.6].
Một số quan điểm khác thì khơng định nghĩa báo chí riêng biệt mà gắn liền
báo chí với truyền thông. Ở cách hiểu này, trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngơn
ngữ học định nghĩa báo chí truyền thông hiểu theo nghĩa chung nhất và trừu tượng
nhất là “quá trình truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng” [37, tr.1053].
Tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học truyền thơng đại chúng thì
khẳng định: ‘ ‘Báo chí truyền thơng là một q trình truyền đạt, tiếp nhận và trao
đổi thông tin nhằm thiết lập các mối quan hệ giữa con người với con người”. Theo

đó, tác giả định nghĩa: ‘‘Truyền thơng đại chúng là q trình truyền đạt thông tin
một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng như phát thanh, truyền h ình ” [38, tr.3].
Theo quan điểm của giai cấp vơ sản, báo chí là công cụ tuyên truyền, là
phương tiện đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; báo chí là một bộ
phận không thể tách rời trong bộ máy tổ chức của Đảng Cộng sản; là cơ quan ngôn
luận của tổ chức Đảng. Do đó, “cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ xung kích trên mặt
trận tư tưởng - văn hóa.” Báo chí là cơng cụ thể hiện quyền lực chính trị.
Nhìn chung, các tác giả trên bằng cách này hay cách khác, đã cố gắng đưa ra
những định nghĩa chung nhất về báo chí và tựu chung lại đều xem báo chí là một
phương tiện diễn đạt, chia sẻ thông tin giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội.
Những định nghĩa được đưa ra như một sự cố gắng để khẳng định nội hàm cơ bản
của báo chí. Tuy nhiên, trong một phạm vi nhất định, đây là định nghĩa khá rộng và
chưa biểu thị hết các loại hình báo chí đang hiện diện trong xã hội và các loại hình ấy
được hiểu như thế nào, diễn đạt ra sao.

1
2


Báo chí nằm trong kiến thức thượng tầng và ra đời khi có cơ sở vật chất, kỹ
thuật nhất định. Kỹ thuật càng hiện đại thì báo chí càng phát triển. Do đó, tuỳ theo
cách tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu mà có thể hiểu báo chí ở nhiều góc độ khác nhau.
Nếu dựa theo vai trị của báo chí thì báo chí nước ta được định nghĩa tại Điều 1 Luật
Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 như sau:
‘ ‘Báo chí nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin
đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức
Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân ”. [45, Đ.1]
Cũng tại Điều 3 Luật Báo chí quy định: Báo chí nói trong luật này là báo chí
Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thơng tấn), báo nói

(chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử
(được thực hiện trên mạng thơng tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngồi.
Luật Báo chí năm 2017 có 6 chương, 61 điều, trong đó có 32 điều mới, 29
điều sửa đổi. Luật Báo chí năm 2017 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 5.4.2016 và Chủ tịch nước cơng bố Luật ngày
29.4.2016. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2017. Kết cấu các chương của Luật
Báo chí lần này đã bỏ chương quản lý nhà nước về báo chí, thay đổi kết cấu chương
III (Nhiệm vụ quyền hạn của báo chí), chương IV (Tổ chức báo chí và nhà báo) của
Luật Báo chí 1999 thành chương III (Tổ chức báo chí) và chương IV (Hoạt động báo
chí) trong Luật Báo chí mới. Ở Điều 4, Luật Báo chí 2017 định nghĩa ‘ ‘Báo chí ở
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với
đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân [21, Đ.4]

1
3


1.1.3.

Hoạt động báo chí
Hoạt động báo chí thuộc về các loại hình hoạt động chính trị - xã hội liên quan

mật thiết đến tư tưởng, tình cảm của con người. Ở đó, dù khách quan đến mức nào,
người làm báo cũng bộc lộ cách nhìn, thái độ, phương pháp tiếp cận và sự bình giá
của mình đối với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Nguyên tắc là cơ sở lý luận
- phương pháp luận của hoạt động báo chí. Tính chất lý luận của nó thể hiện ở chỗ,
hoạt động báo chí địi hỏi phải nắm vững những quy luật của bản thân nền báo chí

với tư cách là một hoạt động chính trị - xã hội, quy trình của quá trình tiếp nhận,
truyền tải và phổ biến thông tin, quy luật của lĩnh vực sáng tạo tinh thần. Tính chất
phương pháp luận của nguyên tắc báo chí thể hiện ở chỗ, nhà báo chẳng những hiểu
biết, nắm vững các quy luật nói trên mà cịn phải tích cực vận dụng chúng, biến
chúng thành những quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp, nền tảng của những phương
pháp sáng tạo ra các tác phẩm báo chí.
Tại Điều 3, Luật Báo chí 2017 định nghĩa: Hoạt động báo chí là hoạt động
sáng tạo tác pham báo chí, sản pham báo chí, sản pham thơng tin có tính chất báo
chí; cung cấp thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thơng tin trên
báo chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát
sóng báo nói, báo hình. [ Đ.3]
1.1.4.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội, là

cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn
đàn của nhân dân lao động. Báo chí khơng chỉ làm nhiệm vụ thơng tin mà cịn thực
hiện công tác tuyên truyền làm cho các hoạt động xã hội phát triển theo định hướng
của nhà cầm quyền và bình ổn xã hội. Như vậy báo chí cũng là hình thức hoạt động
cần sự quản lý của Nhà nước.

1
4


Trên thực tế, chưa có một khái niệm nào chuẩn xác liên quan đến quản lý Nhà
nước đối với báo chí. Chính vì lẽ đó, để dễ hình dung được nội hàm của cụm từ này,
chúng ta đi từ khái niệm quản lý.
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Theo cách hiểu

chung nhất của điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay
quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích
đã định trước.
Tóm lại: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối
tượng quản lý; Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có
hoạt động chung của con người.Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ
đạo hoạt động chung của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá
nhân tạo thành một hành động thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định
trước.Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục tùng
và tạo sự thống nhất trong quản lý.
Nói đến Quản lý Nhà nước đối với báo chí là nói đến những hoạt động của bộ
máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí được ổn định và phù hợp với xu
thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống
chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các
quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự do ngơn luận, tự do báo chí. Nhà
nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo báo chí phát triển, đáp ứng các nhu cầu về
thông tin của nhân dân, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc
đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngơn luận, tự do báo
chí để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” gây mất
an ninh chính trị và trật tự trong nước.
Qua việc khái quát trên chúng ta có thể hiểu quản lý Nhà nước đối với báo chí
là tổng thể những hoạt động của bộ máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của

1
5


pháp luật đảm bảo cho báo chí thực hiện được nhiệm vụ thơng tin của mình và chịu
sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật.

Hay nói cách khác, ‘‘Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như bất
kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy
Nhà nước - là cơng việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và
được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá tr nh
xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp
từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của cơng
dân ”. [20, tr.19].
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí: Các hoạt động của báo chí
xét trên hình diện chung có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. Vì vậy, muốn đảm
bảo được các hoạt động này đi vào khuôn khổ đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật,
chúng ta cần có những nguyên tắc quản lý phù hợp. Sau đây là những nguyên tắc cơ
bản trong quản lý Nhà nước đối với báo chí.
Nguyên tắc tơn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận của cơng dân Tơn
trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí là một ngun tắc hiến định.
Trong xã hội mà quyền con người được khẳng định và Nhà nước luôn tạo điều kiện
để đảm bảo sự phát triển của quyền con người, thì tự do ngơn luận, tự do báo chí,
quyền tiếp cận thơng tin là các yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển chung. Ở
nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong những quyền tự do cơ bản
của công dân được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp năm 1959, được khẳng định lại
trong các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013.
Theo quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 thì cơng dân có quyền tự do
ngơn luận, tự do báo chí tiếp cận thơng tin. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định.

1
6


Có thể hiểu quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin là quyền

của mỗi người được tự do bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan điểm; tự do trao đổi các
thông tin trên hệ thống báo chí, xuất bản, Internet, trong các cuộc hội họp.. .theo quy
định pháp luật. Bằng việc ban hành các bộ luật: Luật xuất bản, Luật báo chí, Luật
cơng nghệ thơng tin., những quy định của Hiến pháp về quyền tự do ngơn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thơng tin đã được cụ thể hóa. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ:
Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Các quyền tự do
ngôn luận, báo chí đã được khẳng định ngay trong Điều 10, Hiến pháp đầu tiên (năm
1946) của
Nhà nước Việt Nam, sau đó được tiếp tục ghi nhận trong các bản Hiến pháp sau này.
Các quyền hiến định đó được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
Việt Nam.
Như vậy, quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí có nội dung rõ ràng,
cụ thể và được cơng bố một cách hệ thống. Thơng qua báo chí, cơng dân có quyền
nhận tin, đưa tin, quyền bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề đã và đang xảy
ra trong đời sống xã hội. Công dân cũng có quyền tham gia ý kiến với Đảng và Nhà
nước về các chủ trương, chính sách lớn, nhỏ. Tất cả điều này như là một biểu hiện
khuôn mẫu cho một xã hội dân chủ, xuất phát từ lợi thế của báo chí, vai trị của báo
chí trong việc định hướng dư luận xã hội. Để đảm bảo nguyên tắc này, Nhà nước cần
phải luôn tạo ra những cơ chế pháp lý phù hợp với các loại hình hoạt động báo chí
nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của đơng đảo quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng cần đề ra một phương thức hướng các hoạt động báo chí tuân thủ pháp
luật, nhằm tạo điều kiện tốt để các cơ quan chức năng Nhà nước thuận lợi hơn trong
việc quản lý.
Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo chí một cách b
ình đẳng của tất cả công dân

1
7



Bằng hoạt động của mình, báo chí đã góp phần đáng kể vào việc ổn định chính
trị, phát triển kinh tế và định hướng dư luận xã hội một cách tích cực. Nhiều nước
trên thế giới đã khai thác triệt để hiệu quả hoạt động báo chí nhằm phục vụ cho mục
tiêu xây dựng xã hội thịnh vượng, công bằng, dân chủ và văn minh thông qua sự điều
tiết của pháp luật. Riêng ở nước ta, pháp luật trong quản lý Nhà nước đối với báo chí
là cơng cụ khá quan trọng nhằm bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc hiện đại,
nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học, cơng nghệ của nhân loại,
đảm bảo cho q trình hội nhập mơi trường thơng tin, báo chí tồn cầu được nhanh
chóng và thành cơng. Với điều kiện đó, hoạt động báo chí ngày nay có những tiến bộ
rõ rệt và đáp ứng khá tốt nhu cầu thông tin của mọi người dân quan tâm. Tất cả thành
quả này của báo chí cần được phổ cập đến toàn thể các đối tượng thụ hưởng khác
nhau trong xã hội. Đây được xem như một nguyên tắc biểu hiện tính nhân văn sâu
sắc với mục tiêu nâng cao chất lượng dân trí. Để cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 17,
Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 đã quy định: “Nhà nước có chính sách hỗ
trợ ngân sách, tạo điều kiện cho xuất bản, phát hành báo chí đến với nhân dân các
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn, đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi”.
Với ngun tắc này, Nhà nước cần có chính sách để người dân được dễ dàng
tiếp cận các ấn phẩm của các loại hình báo chí. Huy động các nguồn lực khác nhau
để bảo đảm sự hoạt động của các cơ quan báo chí với nhiều tơn chỉ mục đích khác
nhau nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu về thơng tin và phát triển dân trí của các tầng
lớp khác nhau trong xã hội. Song song đó, Nhà nước cần có chính sách đẩy mạnh sự
phát triển và khả năng sẵn sàng phục vụ của các cơ quan báo chí đối với các vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự do ngơn
luận làm trái pháp luật

1
8



Từ khi ra đời cho đến ngày nay, báo chí ln có những ảnh hưởng nhất định
đến tình hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả quốc tế bởi tính quần chúng
của nó. Nhất là ngày nay, vấn đề tơn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên
báo chí ln được đặt ra và xem như quyền cơ bản của con người mà các thể chế
chính trị và hình thức nhà nước buộc phải tôn trọng. Ý thức được vấn đề này, các thế
lực thù địch và ngoại bang ln tìm cách lợi dụng báo chí và các diễn đàn nhân dân
làm cơ sở cho việc chống phá Nhà nước ta, chống phá công cuộc xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa, chống phá sự nghiệp đại đoàn kết nhân dân. Đây là những hành vi vô
cùng nguy hiểm làm thiệt hại đến lợi ích cả một quốc gia dân tộc. Cho nên, Nhà nước
ta luôn luôn đề ra kim chỉ nam cho hoạt động của mình trước tình hình lợi dụng đó là
kiên quyết đấu tranh và đấu tranh đến cùng để chống lại các hành vi đầy mưu đồ này.
Vì vậy, trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp 1992, Điều 4 Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung
năm 1999 một mặt khẳng định sự tơn trọng quyền tự do báo chí của công dân, mặt
khác đã tạo ra hành lang pháp lý ngăn chặn triệt để những âm mưu này khi quy định:
“ áo chí nhà báo hoạt động trong khn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ;
không một tổ chức cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động.
Khơng ai được lạm dụng quyền tự do báo chí quyền tự do ngơn luận trên báo chí để
xâm phạm lợi ích của Nhà nước tập thể và công dân”. Đây được xem như quan điểm
chung nhất nhằm nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên
báo chí để phá hoại hồ bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực và
tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước;
chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc; gây rối trật tự cơng cộng, xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cơng dân, hoạt
động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Mọi hành vi vi phạm
đều được xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Để bảo đảm nguyên tắc này, Nhà
nước kiên quyết loại trừ những hành vi, hoạt động báo chí phương hại đến độc lập
dân tộc và an ninh trật tự xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục. Bên cạnh đó, Nhà


1
9


nước cũng luôn đề ra nhiều phương pháp để hướng hoạt động báo chí đi đúng quy
định của pháp luật, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và xã hội.
Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với báo chí
Cách mạng Tháng 8 thành cơng, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo xây dựng hệ
thống văn bản pháp lý tạo cơ sở cho việc quản lý Nhà nước đối với báo chí. Ngày 1010-1945, Hồ Chủ tịch đã ra sắc lệnh về việc duy trì tạm thời các luật lệ hiện hành,
nhưng nêu rõ: ‘‘Những điều khoản trong các luật cũ được tạm thời giữ lại do sắc
lệnh này, chỉ thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam
và chính phủ dân chủ cộng hịa ”.
Và cũng từ thời điểm này, vấn đề hoạt động báo chí, ngơn luận rất được Nhà
nước ta quan tâm. Vì vậy, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành
lập, Hiến pháp đầu tiên 1946 ra đời đã ghi nhận quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận
của công dân. Đến Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đều quy định
về tự do báo chí, ngơn luận; không ai được xâm phạm đến quyền này của nhân dân
và cũng nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, tập thể và cơng dân.
Tính đến nay đã có hơn 40 văn bản được Nhà nước ta ban hành liên quan đến
báo chí như: Sắc lệnh 41 ngày 29-3-1946 về chế độ kiểm duyệt báo chí; Sắc lệnh số
282 ngày 14-12-1956 về chế độ báo chí, Luật số 100/SL-L- 002 ngày 20-5-1957 quy
định chế độ báo chí (Luật Báo chí 1957); Nghị định số 197/TTg ngày 9-7-1957 quy
định chế độ và quyền lợi của người làm báo chuyên nghiệp và Nghị định số 298/TTg
ngày 9-7-1957 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí năm 1957; Nghi định số
133/HĐBT ngày 20-4-1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật
Báo chí về các mặt; Chỉ thị 63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác báo chí- xuất bản; Nghị định số 384/HĐBT về tăng cường cơng tác quản lý
báo chí- xuất bản; Thơng tư số 131/TT-VP ngày 20-11-1990 của Bộ Văn hóa - Thơng
tin hướng dẫn thi hành Nghị định 384/HĐBT và có điều chỉnh một số tiêu chuẩn


2
0


nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Dân sự
1995. Mặc dù các văn bản này khơng đồng bộ và mang tính phổ quát, thể hiện các
quan điểm khác nhau của Nhà nước ta đối với báo chí trong từng giai đoạn lịch sử
khác nhau nhưng phần nào đã đặt ra một cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền
của Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước đối với báo chí của mình.
Luật Báo chí 2017 gồm 6 chương với 61 điều (tăng 25 điều), trong đó có 32 điều xây
dựng mới, 29 điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí hiện hành và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2017. Song song đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị
định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26-4-2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Trong nghị định này, đã đi sâu vào
quy định một số điểm mới của Luật Báo chí hiện hành.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật hiện hành này đã khắc phục được một số
nhược điểm của các văn bản trước, định hình cho chức năng quản lý báo chí bằng các
cơ sở pháp lý rất cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ.
1.2.
1.2.1.

Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí
Thực hiện vai trị của Nhà nước trong quản lý ngành, lĩnh vực
Báo chí với tư cách là công cụ quan trọng về công tác tư tưởng, chính trị của

Đảng, với sự đa dạng của các loại hình báo chí và những lợi thế riêng, báo chí hồn
tồn có khả năng đóng góp rất tích cực, có hiệu quả vào sự nghiệp giữ vững và tăng
cường sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, hoạt động
của báo chí nước ta đã và đóng góp rất lớn cho sự phát triển và hội nhập thế giới trên

mọi lĩnh vực. Song song đó vẫn cịn tồn đọng nhiều vấn đề phát sinh cần sự điều
chỉnh sâu sắc của các cơ quan chuyên trách.
Quản lý Nhà nước đối với báo chí là một chức năng thật sự cần thiết của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Nó đáp ứng nguyện vọng của đông đảo quần chúng
nhân dân trong xã hội. Bới lẽ vấn đề tự do báo chí và tự do ngơn luận trên báo chí là
một nhu cầu có thực của xã hội, nó đánh giá tiêu chuẩn phát triển về các quyền tự

2
1


nhiên mang tính nhân bản trong tồn xã hội. Nhu cầu về tự do báo chí, ngơn luận sẽ
vẫn cịn tiếp tục tiếp diễn và có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình trị an, trật tự xã hội
của đất nước. Bên cạnh đó, trên bình diện quốc tế, các thơng tin mà báo chí cung cấp
cũng như các hoạt động liên quan đến báo chí cũng có những ảnh hưởng nhất định
đến vấn đề an ninh chính trị của toàn cầu.
Với thực trạng như thế, quản lý Nhà nước đối với báo chí sẽ có các ý nghĩa to
lớn khi vừa đảm bảo được trật tự an ninh, an tồn xã hội vừa đảm đảm bảo tơn trọng
quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân. Ngồi ra trước tình
hình xun tạc của các thế lực thù địch, quản lý Nhà nước đối với báo chí sẽ làm cho
báo chí hoạt động và phát triển theo đúng chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, đấu tranh tích cực, làm thất bại các âm mưu sử dụng diễn đàn của nhân dân cho
chiến lược diễn biến hịa bình trên phương diện thơng tin đại chúng và văn hóa xã
hội.
1.2.2.

Vai trị của báo chí trong đời sống xã hội
Xã hội càng phát triển thì báo chí càng có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng

trong đời sống hằng ngày của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó vừa là niềm vinh dự lớn, vừa

đặt ra những yêu cầu và trách nhiệm nặng nề đối với những người làm báo. Không
phải ngẫu nhiên mà ngay trong hành trình bơn ba đi tìm đường cứu nước, nhất là
chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng để lãnh đạo cách mạng, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã xuất bản Báo Thanh Niên, ngày 21.6.1925. Người cho rằng, muốn làm cách
mạng, trước hết phải truyền bá tư tưởng cách mạng - tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin; phải vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng. Báo chí cách mạng là
cơng cụ cực kỳ quan trọng để làm nhiệm vụ đó; báo chí cách mạng cịn là vũ khí sắc
bén thúc đẩy xã hội khơng ngừng tiến lên. Các nhà báo luôn bám sát thực tiễn sinh
động, xơng pha nơi đầu sóng, ngọn gió, thơng tin kịp thời, phân tích sâu sắc những
diễn biến hằng ngày trên các lĩnh vực, ở khắp mọi miền của Tổ quốc; phản ánh, tuyên
truyền, nhân lên các điển hình tiên tiến; chủ động đấu tranh chống các biểu hiện tiêu

2
2


cực, trì trệ, tham nhũng, lãng phí; đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ
quốc; tham gia phản bác các luận điệu thù địch, xuyên tạc; bảo vệ quan điểm, đường
lối của Đảng. Báo chí cịn tích cực tham gia giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến xây
dựng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Báo chí góp cơng lớn trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại,
đưa Việt Nam đến với bạn bè thế giới; đóng góp tích cực vào việc quảng bá, giới
thiệu đất nước, con người, văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế, đồng thời là cầu nối
quan trọng giúp bạn đọc trong nước hiểu biết nhiều hơn về tình hình khu vực và thế
giới.
Khi nền kinh tế càng phát triển thì báo chí cũng khơng ngừng đổi mới, năng
động và sáng tạo hơn trong tác nghiệp. Báo chí nước ta ngày càng bám sát đời sống
xã hội, thông tin nhanh chóng các tin tức sự kiện, đường lối chính sách của Đảng và
Chính phủ tới quần chúng, góp phần củng cố, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Thông qua báo chí, người dân có thể phát biểu ý kiến, nguyện vọng của mình
về các vấn đề trong đời sống xã hội, qua đó, thể hiện sự giám sát và phản biện xã hội

của mình. Bám sát sự kiện, thơng tin nhanh nhạy, phân tích trúng vấn đề trọng điểm
và định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận rõ ràng, các cơ quan thơng tấn, báo chí
đã thực hiện tốt chức năng phản biện, mang lại hiệu quả xã hội rõ rệt. Bởi thế, vai trò,
chức năng phản biện của báo chí ngày càng được khẳng định và niềm tin của công
chúng đối với cơ quan truyền thông cũng được nâng lên.
Tính chân thật, khách quan: Đây là đặc trưng, đặc điểm, là yêu cầu tồn tại của bản
thân báo chí và là nguyên tắc đầu tiên để báo chí thực hiện vai trị
quản lý xã hội thơng qua hoạt động phản biện và giám sát xã hội. V.I.Lê-nin đã nhấn
mạnh: "Sự thật là sức mạnh của báo chí"; Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
căn dặn các nhà báo phải ln trung thực, coi đó là một trong những tiêu chuẩn đạo
đức số một của người làm báo cách mạng. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng yêu cầu báo chí phản ánh mọi mặt hoạt

2
3


động của đời sống xã hội một cách chân thật, khách quan, đúng bản chất. Nhìn thẳng
vào sự thật để giám sát và phản biện xã hội có nghĩa là báo chí phải đưa tin cả về
những thành cơng cũng như những hạn chế, khó khăn, thất bại. Đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật địi hỏi người viết phải có phương hướng và năng lực tư duy để có
thể trình bày một cách chân thực và đi đến bản chất của thơng tin sự việc. Có thể nói,
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật là sự cụ thể hóa chức năng giám sát và
phản biện xã hội của báo chí.
Tính cơng khai, cơng cộng: Vì báo chí có tác động trực tiếp và mạnh mẽ, rộng
lớn và nhanh chóng trong việc hình thành dư luận xã hội, nên tính cơng khai cần
được lưu ý trên 2 khía cạnh: một là, nói rõ sự thật sau khi đã đánh giá đúng bản chất;
hai là, nói rõ sự thật để góp phần xây dựng dư luận xã hội lành mạnh. Báo chí khơng
được cơng khai dẫn tới lộ bí mật quốc gia, tạo nên mối hồi nghi cho công chúng,
hay tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng. Nhưng cũng không thể chấp nhận

việc vin vào lý do “muốn dư luận xã hội lành mạnh, n ổn” để hạn chế tính cơng
khai của báo chí.
Tính đại chúng: báo chí được thể hiện ở việc, thơng tin báo chí tác động tới xã
hội rộng rãi, bao gồm các tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau, nhu cầu thông tin của
công chúng được ưu tiên bảo đảm và là thước đo trình độ, năng lực của hoạt động
thơng tin báo chí. Đồng thời, báo chí cũng là diễn đàn của nhân dân và phải phù hợp
với trình độ của cơng chúng tiếp nhận. Cơng chúng khơng chỉ muốn tiếp nhận thơng
tin từ báo chí một cách thụ động, mà cịn tương tác, phản hồi thơng tin mạnh mẽ.
Chức năng giáo dục của báo chí ngày càng được đề cao, giáo dục để góp phần nâng
cao dân trí; nâng cao trình độ tương tác và tính chính xác của thơng tin phản hồi; từ
đó, mơi trường của sự giám sát, phản biện xã hội trong báo chí và dư luận xã hội sẽ
trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn.
Tính chiến đấu: là một trong những nguyên tắc quan trọng của báo chí Việt
Nam. Tính chiến đấu của báo chí được thể hiện trên cả hai mặt: biểu dương và phê

2
4


bình. Báo chí ủng hộ chủ trương xóa bỏ quan liêu bao cấp, cải cách hành chính, ủng
hộ lối sống có lý tưởng lành mạnh, sáng tạo, năng động, có ý thức xây dựng tập thể
và đất nước đồng thời đấu tranh chống lại cách làm thụ động, trì trệ, hình thức chủ
nghĩa, hiệu quả thấp, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội.
Báo chí là nhân tố, là phương tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong việc định
hướng nhận thức, hình thành dư luận xã hội. Báo chí là một lực lượng rất quan trọng
góp phần nâng cao hiệu quả của phản biện xã hội trong tiến trình xây dựng một xã
hội thực sự dân chủ. Báo chí cần thực hiện nhiệm vụ là kênh thơng tin hữu ích giúp
Đảng, Chính phủ lãnh đạo, điều hành và quản lý tốt hơn mọi lĩnh vực trong cuộc
sống, lấy mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và xây dựng một xã
hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm phương châm hành

động và điều này cần thể hiện ở mọi nội dung đăng tải trên các phương tiện truyền
thông đại chúng.
1.3.
1.3.1.

Nội dung, chủ thể quản lý nhà nước về báo chí
Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí
Trên cơ sở quy định của pháp luật, để đảm bảo cho hoạt động báo chí được

diễn ra thơng suốt, đáp ứng nhu cầu về thông tin của quần chúng nhân dân, Nhà nước
luôn xây dựng nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí trên cơ sở phù hợp với
thẩm quyền pháp lý của từng chủ thể quản lý nhất định theo các điều kiện lịch sử
trong từng giai đoạn. Các nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí cũng được xác
định và xây dựng nhằm mục tiêu một mặt q trình thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về báo chí một cách nhanh chóng, chính xác, mặt khác chống
lại mọi âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo
chí để chống phá nhà nước ta.
Quản lý Nhà nước đối với báo chí đề cập ở đây xuất phát từ các quy định hiện
hành của Đảng và Nhà nước ta gồm Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 2017, tại
Điều 6. Quy định Nội dung quản lý nhà nước về báo chí như sau:

2
5


×