Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI THẢO LUẬN đường lối tìm hiểu nền kinh tế hóa tập trung quan liêu bao cấp ở việt nam thời kì trước đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.64 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

Đề tài: Tìm hiểu về nền kinh tế hóa tập trung quan liêu bao cấp ở Việt
Nam thời kì trước đổi mới

A. Lời mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Thời bao cấp, với cách gọi nôm na trong người dân là “thời đặt gạch xếp hàng”, là
một thời kỳ lịch sử trong giai đoạn những năm 1976 – 1986 diễn ra ở Việt Nam. Từ
“Thời bao cấp” là khái niệm dùng của người Việt đặt cho một thời kì lịch sử từng diễn
ra sau chiến tranh thống nhất đất nước, xây dựng theo mơ hình chủ nghĩa xã hội giống
như Liên Xô (cũ).
Giai đoạn này nằm trong ký ức không thể quên của thế hệ đầu 8X, 7X, 6X… Đây là
một giai đoạn mà hầu hết hoạt động kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa theo
chủ nghĩa cộng sản, xóa bỏ nền kinh tế tư nhân thay vào đó là kinh tế do nhà nước làm
chủ. Đây là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của nước ta, với nhiều dấu ấn và hoài niệm
của bao nhiêu con người từng sinh sống trong thời bao cấp.
Vậy nên để hiểu rõ và đầy đủ hơn về nền kinh tế Việt Nam thời bao cấp, chúng em đã
chọn đề tài: “ Tìm hiểu về nền kinh tế hóa tập trung quan liêu bao cấp ở Việt Nam thời
kì trước đổi mới” để làm bài tiểu luận của nhóm.


2.

Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Hiểu biết cơ bản về thời kì bao cấp cũng như tình hình kinh tế Việt Nam thời kì
trước đổi mới, đặc biệt là nền kịnh tế hoá tập trung quan liệu bao cấp.




Từ đó thấy được ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân, từ đó rút ra bài học cho nền
kinh tế Việt Nam hiện nay.
Tạo cơ sở vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết tình hình kinh tế đất nước
hiện nay.

3.

Kết cấu đề bài

Chương 1: Khái niệm và đặc điểm cơ bản về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp.
Chương 2: Nền kinh tế hóa tập trung quan liêu bao cấp ở Việt Nam thời kỳ trước đổi
mới.

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài luận cho đề tài này, ngồi sự nỗ lực của tồn thể nhóm 8,
chúng tôi cũng nhận được rất nhiều sự hỗ trợ hướng dẫn từ Tiến sĩ Nguyễn Thị
Lan Phương, đã chỉ dạy và giúp đỡ nhóm 8 rất nhiệt tình trong suốt thời gian
nghiên cứu về đề tài trên.
Bài thảo luận của nhóm sẽ khơng tránh khỏi những sai sót do sự hạn chế kiến
thức cũng như tài liệu. Vậy nên nhóm 8 rất mong sẽ nhận được sự đóng góp,
những lời khuyên từ cô hướng dẫn cùng các bạn trong lớp hành chính để bài
luận được hồn thiện hơn.

Nhóm 8 xin chân thành cảm ơn!


B. Nội dung

Chương 1: Khái niệm và đặc điểm cơ bản về cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
1.1. Khái niệm:
1.1.1. Thời kỳ bao cấp
Thời kỳ bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà
hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền
kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Theo đó thì kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ
cho kinh tế do nhà nước chỉ huy.

1.1.2. Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung:
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung là do nhà nước quyết định toàn
bộ đối với mọi hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế vận động, phát triển
tuân theo những quy định bắt buộc của nhà nước chứ không tuân theo quy luật cungcầu của thị trường.

1.2. Đặc điểm:
1.2.1. Đặc điểm cơ bản về cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp:


Thứ nhất,

Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống
Các doanh nghiệp hoạt động dựa trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao.
Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ
máy, nhân sự, tiền lương,… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.
Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp; doanh
nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.





Thứ hai,

Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất và pháp lý đối với các
quyết định của mình
Những thiệt hại vật chất do các quyết định khơng đúng gây ra thì ngân sách nhà
nước phải gánh chịu.


Thứ ba,

Quan hệ tiền tệ - hàng hóa khơng được coi trọng hầu như chỉ là hình thức. Trong đó,
quan hệ hiện vật, chiếm vị thế chủ đạo. Nền kinh tế sẽ được nhà nước quản lý theo
chế độ “cấp phát – giao nộp”. Do đó, sức lao động, tư liệu sản xuất hay phát minh
sáng chế khơng được coi là hàng hóa trên pháp luật.


Thứ tư,

Bộ máy quản lý qua nhiều cấp từ trung ương tới địa phương. Do có nhiều cấp trung
gian nên hoạt động khơng năng động, kịp thời, thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực ảnh
hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân.

1.2.2. Các hình thức bao cấp chủ yếu


Bao cấp q giá và số lượng hàng hóa:


Các tài sản, thiết bị, hàng hóa và vật tư do nhà nước quyết định giá trị nên thấp
hơn nhiều lần so với giá trị thực trên thị trường.
Các cán bộ công chức được cấp 13kg gạo/tháng cịn cơng nhân lao động nặng
được cấp 20kg/tháng. Do đó, cơm nấu thường được độn thêm khoai, ngơ, sắn… rất
phổ biến và khơng cịn xa lạ đối với những người từng trải qua thời kì bao cấp.
Hàng hóa các loại đều rất khan hiếm, dù có tiền cũng khơng mua được, khơng
đa dạng về chủng loại, mặt hàng để lựa chọn phục vụ nhu cầu nên nhiều khi không đủ
ăn.
Nhà nước cũng nắm việc phân phối nhà cửa. Nhiều khu nhà tập thể nhiều tầng
được xây dựng giống như ở Liên Xô trong các thành phố, phân cho các cán bộ, công
nhân viên nhà nước. Khi ở nhà bị hư hỏng, người dân không phải tự sửa mà Sở nhà
đất lo sửa cho. Cuộc sống trong những căn hộ tập thể diện tích khiêm tốn đầy thiếu
thốn, nhiều bộn bề lo toan. Lúc này, giá nhà trong thành phố khá rẻ nhưng những
người làm nhà nước cũng khó có thể mua được một căn vì thu nhập rất thấp.


Bao cấp qua chế độ tem phiếu:

Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công
nhân viên chức, người lao động qua hình thức tem phiếu.


Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá cả thị trường đã biến chế độ
tiền lương thành hiện vật. Do đó, khơng kích thích được người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.


Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách:


Khơng có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn
kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin – cho”

Chương 2: Nền kinh tế hóa tập trung quan liêu bao cấp ở
Việt Nam thời kỳ trước đổi mới.
2.1. Sự ra đời của nền kinh tế hoá tập trung quan liêu bao c ấp ở
Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
2.1.1. Bối cảnh ra đời
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp và mơ hình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết đã được
áp dụng rộng rãi trên cả nước.

2.1.2. Nguyên nhân ra đời:
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta
xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ
mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ
sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn
nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép
kín.

2.1.3. Sự kiện đánh dấu sự ra đời
Ở Việt Nam nền kinh tế hoá tập trung được thực hiện theo một cơng thức do Lê Duẩn
sáng tạo, đó là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Tại Đại
hội IV, đường lối này được thể hiện bằng chủ trương tiến hành khoạch phát triển kinh
tế 5 năm 1976-1980.


2.2. Các chính sách kinh tế mà nhà nước Việt Nam đặt ra trước th ời

kì đổi mới.
Ngày 25-9-1976, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định về chính sách xố bỏ triệt
để tình trạng chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở
miền Nam Việt Nam
Ngày 25-9-1976, Chính phủ Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố
về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Đây là một
chính sách lớn của Nhà nước nhằm hướng dẫn và cải tạo kinh tế tư bản tư doanh đi
dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Từ ngày 21-6 đến ngày 4-7-1977, Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (Khoá IV) đã họp, khẳng định những thành công và kinh nghiệm tốt của
nền nông nghiệp hợp tác hoá, đồng thời cũng chỉ rõ những khuyết điểm nghiêm trọng
trong chỉ đạo nông nghiệp. Hội nghị đề ra Nghị quyết“Tập trung lực lượng cả nước,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nơng nghiệp”.
Ngày 3-10-1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 272-CP ban hành chính
sách đối với hợp tác xã mở rộng diện tích nơng, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế
mới, thực hiện định canh, định cư.
Ngày 25-4-1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 87-CP về việc thống
nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành tiền Ngân hàng mới, thu đổi tiền Ngân hàng cũ ở
miền Bắc và miền Nam, về mức tiền mặt được đổi ngay khi thu đổi tiền cũ.
Ngày 14-12-1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định “về việc xố bỏ triệt để
các hình thức bóc lột tư bản chủ nghĩa về ruộng đất ở nông thôn miền Nam” và kèm
theo chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng cơ giới nông nghiệp tư
nhân ở các tỉnh miền Nam.
Đầu tháng 7-1984, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá V) đã họp Hội
nghị lần thứ 6 bàn về những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản lý kinh tế.
Hội nghị nhận định: Những tiến bộ và chuyển biến trong quản lý kinh tế chưa đồng
đều, chưa mạnh mẽ, chưa cơ bản. Công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm và
nhược điểm, trong đó có những mặt kéo dài và nghiêm trọng, khơng được giải quyết
kịp thời phù hợp với tình hình mới. Những khuyết điểm đó là biểu hiện của tệ quan
liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ trong cơ chế quản lý kinh tế và tình trạng phân tán, cục

bộ, vơ tổ chức, vơ kỷ luật. Những khuyết điểm đó hồn toàn trái với đường lối, chủ
trương của Đảng, với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cản trở đến sản xuất
và cải thiện đời sống...


2.3. Thực trạng nền kinh tế hóa tập trung quan liêu bao cấp ở Việt
Nam thời kỳ trước đổi mới
2.3.1. Nông Nghiệp
Sau khi thống nhất
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc
lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi lớn: đất nước thoát
khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính lúc này là khôi phục, ổn
định xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hịa bình. Tình hình đó đã đặt ra
một yêu cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình
hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trên thực tế, các chủ
trương, chính sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng
được những yêu cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực
kinh tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ khơi
phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật
chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống và tích luỹ,... Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình
trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có
nhiều hạn chế,...Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ
ra. Ở miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất dưới hai hình thức tồn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến
hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo cơng
nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức cơng tư hợp doanh; chủ trương hợp tác

hố nơng nghiệp; cải tạo thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải
tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất ...
Giai đoạn 1976 – 1980
Trên cơ sở xác định đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã quyết định phương hướng, nặng nề của chiến tranh
vừa phải tổ chức lại nền kinh tế, xây dựng một bước nền sản xuất lớn XHCN, đặt nền
móng cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa nước nhà. Kế hoạch 5 năm đầu tiên sau khi đất
nước thống nhất nhằm hại mục tiêu cơ bản và cấp bách : xây dựng một bước cơ sở vật
chất kỹ thuật của CNXH, hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới trong cả nước và cải
thiện một bước đời sống của nhân dân lao động.


Nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, trong kế hoạch 5 năm 1976 – 1980,
chúng ta đã tiến hành củng cố quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, cải tạo XHCN ở
miền Nam, thống nhất nền kinh tế theo mơ hình chung trên phạm vi cả nước.
Ở miền Bắc, nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh được khôi phục, mở rộng. Một số cơ sở
được xây dựng thêm. Phong trào hợp tác hóa (HTH) nơng nghiệp càng trở nên sơi
động. Mơ hình HTH - tập thể hóa được đẩy tới mức cao nhất.
Khoảng năm 1976 và 1980, chính sách nơng nghiệp ở miền Bắc được thi hành bởi
chính quyền mới trong sự nỗ lực làm chủ kế hoạch trồng trọt và nơng nghiệp. Sự kiểm
sốt khơng chặt chẽ của các chính sách trong những năm chiến tranh đã dẫn tới sự
chặt chẽ hơn để nhằm tăng số lượng nhân công để nhận làm các nghĩa vụ khác. Dẫn
tới năng suất nhân công giảm. Một người Việt ở nước ngoài khảo sát 10 hợp tác xã
sản xuất gạo thì thấy rằng, mặc dù tăng nhân cơng và diện tích gieo trồng trong những
năm 75, 76 và 77, nhưng sản lượng lại giảm trong khi chi phí lại tăng so với những
các năm 72 đến 74. Mặc dù khơng tính đến thời tiết và các yếu tố khác, nhưng những
phát hiện trên phù hợp với những kết luận của những người nghiên cứu về những ảnh
hưởng của mô hình tập thể hóa ở các quốc gia khác.
Ở miền Nam, do chính sách thực dân mới của Mỹ, nền kinh tế ở các vùng tạm chiếm
bước đầu phát triển theo hướng TBCN. Vì vậy, sau năm 1975, chúng ta phải tiến hành

cải tạo XHCN nhằm thống nhất nền kinh tế theo mơ hình chung trong cả nước. Đối
tượng của công cuộc cải tạo XHCN vẫn nhằm vào kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể.
Đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư
doanh trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng và dịch vụ quan
trọng thành các xí nghiệp quốc doanh, cơng tư hợp doanh.
Trong nông nghiệp, từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác hóa
nơng nghiệp được đẩy mạnh ở các tỉnh phía nam Tính đến tháng 7 – 1980, toàn miền
đã xây dựng được 1.518 HTX, 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6 % tổng số hộ
nông dân vào con đường làm ăn tập thể.
Giai đoạn 1981 – 1985
Kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp được
những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm
trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội,
lương thực và các hàng tiêu dùng đều thiếu...
Trước sự yếu kém của nền kinh tế đất nước, tại Đại hội V năm 1982, Đảng đã có
nhiều chủ trương mới cả trong chiến lược phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản
xuất. Từ Đại hội III năm 1960, Đảng luôn khẳng định cơng nghiệp hố là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội V này, điều mới và quan trọng là Đảng đã
xác định cụ thể nội dung và hình thức cơng nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên.


Đó là "tập trung phát triển mạnh mẽ nơng nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên xã hội chủ nghĩa..."
Gắn liền với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, tại Đại hội V, Đảng chủ trương
tiếp tục đẩy mạnh hợp tác hố nơng nghiệp ở Nam bộ, từng bước phát huy tác dụng
của hợp tác hố đối với việc đưa nơng nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nông thôn mới. Rút kinh nghiệm từ phong trào hợp tác hố trong những năm
trước đây đưa quy mơ hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương, trong
chủ trương lần này, Đảng nhấn mạnh tới việc ổn định quy mơ hợp tác xã và tập đồn
sản xuất, tổ chức tốt việc điều chỉnh quy mô trong những trường hợp cần thiết. Một

bước tiến mới trong việc xây dựng và củng cố hợp tác xã là Đảng chủ trương "áp dụng
rộng rãi khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động". Chủ
trương này đã mở ra một phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế
tập thể ở nông thôn, vì nó đã bước đầu thừa nhận quyền tự chủ của nông dân (hộ xã
viên được tự chủ ở 3 khâu: gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch. Có thể coi đây là khâu
đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới, là một tiền đề quan trọng để tiến tới sự đổi
mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội.
Hình thức khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đã khắc phục được
những hạn chế của các hình thức khốn trong HTX nơng nghiệp trước đây, gắn được
lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Người nông dân rất quan tâm đến
năng suất, sản lượng. Do đó, họ đã tích cực đầu tư công sức, vật tư để phát triển sản
xuất, sản lượng lương thực trong cả nước vì thế mà tăng lên. Năm 1980, sản lượng
lương thực là 14,4 triệu tấn, năm 1985 với kết quả đó, khốn 100 được coi là bước đột
phá đầu tiên trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp. Trong cơng
nghiệp, ngày 21 - 1 - 1981, Chính phủ đã ban hành Nghị định 25- CP Về một số chủ
trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và
quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Đây là bước khởi đầu giúp cho
các doanh nghiệp tiếp cận với cơ chế thị trường thơng qua việc thực hiện các kế hoạch
ngồi kế hoạch pháp lệnh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên kết quả đổi mới cơ
chế quản lý trong các doanh nghiệp quốc doanh còn hạn chế.
Trong suốt thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, phương thức khoán sản
phẩm này đã góp một phần quan trọng tạo nên một bước phát triển của nền sản xuất
nông nghiệp. Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% hàng năm của
thời kỳ 1976-1980. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức bình quân
hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời
kỳ 1981-1985(9) (tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng, trong thời gian này, Đảng chủ
trương tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu).
Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền
kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm
1980 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp;



mất cân đối lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, nhiều nhu
cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm
bảo...Thực trạng kinh tế - xã hội đó địi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay
chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển. Trên thực tế, Đảng ta đã
làm được điều đó.

2.3.2. Cơng nghiệp
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12-1976 đã
xác định “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước
thành một cơ cấu công - nông nghiệp; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác
lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”.[24]
Trong 10 năm 1975-1986, Nhà nước đã đầu tư vào ngành cơng nghiệp 65 tỷ đồng
(tính theo giá 1982) trong đó, đầu tư cho cơng nghiệp nặng là trên 70% và công
nghiệp nhẹ gần 30%. Đầu tư công nghiệp chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư vào khu
vực sản xuất với tốc độ tăng đầu tư cao hơn mức bình quân của toàn bộ khu vực sản
xuất. Trong thời kỳ này, nhiều cơng trình tương đối lớn được xây dựng. Đến năm
1985, tồn ngành cơng nghiệp có 3.220 xí nghiệp quốc doanh, 36.630 cơ sở tiểu thủ
công nghiệp với 2,653 triệu lao động, đã sản xuất được 105 tỷ đồng giá trị tổng sản
lượng, làm ra 30% thu nhập quốc dân, 40% tổng sản phẩm xã hội và trên 50% giá trị
sản lượng công - nông nghiệp.[24]
Sau khi thống nhất
Năm 1976, tồn ngành cơng nghiệp Việt Nam có khoảng 520.000 cán bộ, cơng nhân.
Trong đó, miền Bắc có 1.279 xí nghiệp, miền Nam có 634 xí nghiệp, Trung ương quản
lý 540 xí nghiệp, địa phương quản lý 1.373 xí nghiệp. Miền Bắc có 3.000 cơ sở tiểu
thủ cơng nghiệp với trên 600.000 lao động. Miền Nam có hàng trăm ngàn cơ sở tư

nhân với 800.000 – 900.000 lao động. Tổng sản phẩm công nghiệp năm 1976 đạt giá
trị tương đương 48 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1982). Trong đó, cơng nghiệp nặng
chiếm 34,1% và cơng nghiệp nhẹ chiếm 65,9%; quốc doanh chiếm 62,7%, tiểu thủ
công nghiệp 37,3% và công nghiệp trung ương 44,2%, công nghiệp địa phương
55,8%. Công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng không lớn: năng lượng: 5,6%, luyện kim:
3,3%, cơ khí: 12,3%, hố chất phân bón: 9,4%, vật liệu xây dựng: 6%. Công nghiệp
nhẹ gồm lương thực và thực phẩm chiếm 33,6%, dệt da may nhuộm chiếm 14,5%.
Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, công nghiệp chiếm tỷ trọng 10,6% lao động xã hội,
37% giá trị tài sản cố định, làm ra 38,4% tổng sản phẩm xã hội, 25,3% GDP và 53%
giá trị sản lượng công nông nghiệp. Công nghiệp Việt Nam phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, các ngành lệ thuộc hoàn tồn là cơ khí, hố
chất, dệt… Thiết bị nhập từ nhiều nguồn, trong đó của 13 nước tư bản, chiếm 41%,
của Liên Xô và Đông Âu 20%, trong nước chế tạo chỉ khoảng 13%. Hiệu quả sản xuất
thấp, không sử dụng hết công suất (công nghiệp quốc doanh chỉ đạt 62% cơng suất)
với mức tích luỹ trên 1 đồng vốn tài sản cố định của công nghiệp trung ương là 0,25


đồng, hệ số tích luỹ của 100 đồng vốn sản xuất là 33%, song chưa đạt mức ổn định
của thời kỳ 1964-1965 của miền Bắc và năm 1970 của miền Nam. Ngày 12/5/1975,
Việt Nam và Liên Xô ký hiệp định về việc Liên Xơ viện trợ khẩn cấp khơng hồn lại
cho Việt Nam gồm xăng dầu, phân bón, lương thực, xe vận tải và nhiều loại hàng hoá
tiêu dùng khác.[24]
Tại miền Bắc, sản lượng công nghiệp, năm 1975 gấp 16,2 lần năm 1955, trong đó
quốc doanh gấp 44,8 lần và tiểu thủ công nghiệp gấp 5,6 lần; công nghiệp nặng gấp
27,1 lần và công nghiệp nhẹ gấp 12,3 lần; công nghiệp trung ương gấp 76 lần và công
nghiệp địa phương gấp 9,2 lần. Tuy vậy, miền Bắc có các ngành cơng nghiệp nặng cịn
non kém, chưa đủ khả năng phục vụ cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp
chưa gắn với nông nghiệp; sản xuất chưa ổn định, chưa có cơ sở ngun liệu trong
nước; chưa tạo được tích luỹ và chưa có thị trường cho các sản
phẩm của mình, nhất là cơng nghiệp nặng; trình độ quản lý cịn thấp và năng suất

thấp. Tại miền Nam, cơng nghiệp chỉ chiếm 8 - 10% tổng sản phẩm xã hội; phần lớn
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ: 175 ngàn doanh nghiệp với 1,4 triệu lao động và 800
triệu USD giá trị tài sản cố định, khoảng 1% doanh nghiệp có quy mơ từ 10 cơng nhân
trở lên, cịn lại là dưới 10 công nhân; công nghiệp nhẹ chiếm 90% giá trị sản lượng
cơng nghiệp. Cơng nghiệp miền Nam hồn toàn phụ thuộc vào nước ngoài về trang
thiết bị thay thế và nguyên liệu, khoảng 70 - 100% nguyên liệu là nhập khẩu. Từ sau
1970, hàng năm, công nghiệp miền Nam phải nhập 300 triệu USD nguyên liệu và 65
triệu USD thiết bị.[24]
Giai đoạn 1976- 1980
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976-1980) triển
khai xây dựng chủ nghĩa xã hội và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả
nước. Nhiệm vụ của công nghiệp trong kế hoạch này là tiếp tục thực hiện đường lối
cơng nghiệp hố và xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, hình
thành cơ cấu kinh tế mới cơng - nông nghiệp; khôi phục và phát triển sản xuất công
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu trang thiết bị và các hàng hoá tiêu dùng cho nhân dân;
thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp miền Nam, thống nhất quản lý
và tổ chức công nghiệp trong cả nước. Kế hoạch đặt mục tiêu đến năm 1980 phải đạt:
1 triệu tấn cá biển, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ kWh điện, 2 triệu tấn xi măng, 1,3 triệu
tấn phân hố học, 250 - 300 nghìn tấn thép, 3,5 triệu m3 gỗ, 450 triệu mét vải, 130
nghìn tấn giấy, sản lượng cơ khí tăng 2,5 lần so với năm 1975.[24]
Ngày 04/9/1975, nhà nước Việt Nam tiến hành Chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam
lần I. Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 254/NQ/TW về những cơng tác
trước mắt ở miền Nam, hồn thành việc xố bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tháng 12/1976, nhà nước tiến hành Chiến
dịch cải tạo tư sản lần II. Tiếp theo, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 3/1977 quyết định
hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp
tư bản tư doanh miền Nam trong 2 năm 1977-1978. Trong năm 1976, tư sản mại bản
và tư sản lớn trong công nghiệp miền Nam bị xố bỏ. Năm 1978, nhà nước hồn thành
căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam, trong đó có việc xố
bỏ sự kiểm soát kinh tế của tư sản người Hoa. Đến tháng 5/1979, tất cả các xí nghiệp



công quản lúc đầu ở miền Nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Kết
quả của các Chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam là: có 1.354 cơ sở với 13 vạn cơng
nhân được quốc hữu hố, bằng 34% số cơ sở và 55% số công nhân; thành lập 498 xí
nghiệp cơng tư hợp doanh với 13.000 công nhân, chiếm 14,5% số cơ sở và 5,5% số
công nhân; thành lập 1.600 xí nghiệp hợp tác xã, gia công, đặt hàng với trên 7 vạn
công nhân, chiếm 45% số doanh nghiệp và khoảng 30% công nhân. Số cơ sở cơng
nghiệp tư bản tư doanh cịn lại chiếm khoảng 6% về cơ sở và 5% về công nhân, trong
tổng số xí nghiệp cơng nghiệp tư doanh. Thành lập trên 500 hợp tác xã và 5.000 tổ
hợp tác với trên 250 nghìn lao động. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 144 hợp tác xã
với 27.634 lao động và 1.964 tổ hợp tác với 75.284 lao động, chiếm 71% tổng số lao
động thủ công nghiệp của Thành phố. Các tỉnh khác có số thợ thủ cơng được tổ chức
lại chiếm khoảng 40%. Tới cuối năm 1985, số cơ sở tiểu thủ cơng nghiệp miền Nam
đã có 2.937 hợp tác xã chuyên nghiệp, 10.124 tổ sản xuất chuyên nghiệp, 3.162 hợp
tác xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 529 hợp tác xã kiêm và 920 hộ tư nhân cá
thể. Nhà nước Việt Nam đánh giá họ mới chỉ xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ trong công
nghiệp mà chưa xác lập được quan hệ sản xuất mới.[24]
Nhờ những nỗ lực đầu tư vào nền công nghiệp của nhà nước nên tổng tài sản của
ngành này giai đoạn 1976 - 1980 tăng thêm 13 tỷ đồng, bằng 35% giá trị tài sản cố
định mới tăng thêm thuộc khu vực sản xuất. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn thấp. Sản
xuất công nghiệp phát triển đều trong 3 năm đầu sau đó tụt xuống và có những năm
giảm sút tuyệt đối. Trong đó, cơng nghiệp trung ương giảm sút nhiều nhất, hàng năm
giảm 4%, do thiếu nguyên, vật liệu. Trong khi đó, công nghiệp địa phương, nhất là
tiểu thủ công nghiệp vẫn tiếp tục phát triển, hàng năm tăng 6,7%, nhờ có cơ chế linh
hoạt và khai thác được các tiềm năng nguyên liệu tại chỗ. Tính cả thời kỳ, tốc độ tăng
bình qn chỉ có 0,6%/năm do đó tất cả các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IV đề ra đều không đạt. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu công nghiệp của kế
hoạch 5 lần II (1976-1980): giá trị sản lượng cơ khí đạt 80%; sản lượng điện là 3.680
triệu kWh, đạt 73,6%; than đạt 52%; khai thác gỗ tròn là 1,577 triệu m3, đạt 45%; vải

mặc là 182 triệu mét, đạt 40,4%; đánh bắt cá biển là 399 ngàn tấn, đạt 39,9%; giấy, bìa
là 48,3 ngàn tấn, đạt 37%; xi măng đạt 641 ngàn tấn, đạt 32%; phân bón hố học 367
ngàn tấn, đạt 28%; sản lượng thép là 62,5 ngàn tấn, đạt 25%.[24]
Sau những nỗ lực phát triển kinh tế theo đường lối công nghiệp hoá trên, nền kinh tế
Việt Nam tăng trưởng chậm, thậm chí vào cuối thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ II
những năm 1979-1980, sản xuất công nghiệp lâm vào trì trệ, suy thối do sản xuất
nhỏ, năng suất thấp, nền kinh tế khơng có khả năng tích lũy, trong khi nguồn lực viện
trợ giảm dần, gặp khó khăn về cung ứng vật tư, nguyên liệu đầu vào cũng như chuyển
đổi cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, lại thêm chiến tranh biên giới Tây Nam,
chiến tranh biên giới phía Bắc và sự cấm vận bên ngồi. Ngồi ra sự thất bại trong
việc phát triển công nghiệp thời kỳ này cịn do quản lý kế hoạch hố tập trung bao
cấp, chưa kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa khai thác sử dụng các thành phần kinh
tế tư sản dân tộc và cá thể ở miền Nam, chậm khắc phục trì trệ, bảo thủ trong xây
dựng các chính sách cụ thể, trong đó có chính sách phát triển cơng nghiệp, có biểu
hiện giản đơn trong cải tạo hội chủ nghĩa ở miền Nam.[24]


Giai đoạn 1981- 1985
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985). Nhà
nước điều chỉnh mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp
nặng và công nghiệp nhẹ; trong cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp đã chú ý
hơn tới các hình thức thích hợp; trong cải tiến quản lý cơng nghiệp đã có những cải
tiến theo hướng mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp và các hợp tác xã. Tuy nhiên,
nhà nước vẫn giữ nguyên cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp do
đó mặc dù có một số điều chỉnh trong đường lối và chính sách, một số cải tiến về quản
lý kinh tế, song về cơ bản, mô hình kinh tế và cơng nghiệp hố của Việt Nam vẫn
chưa thay đổi.[24]
Hội nghị trung ương lần thứ 6 khoá IV Ngày 26/9/1979 đề cập sự cần thiết quan tâm
tới lợi ích vật chất của người lao động, tạo bước chuyển động trong sản xuất và đời
sống, để tạo động lực cho sản xuất phát triển. Sau đó, ngày 21/1/1981, Hội đồng

Chính phủ đã ban hành Quyết định 25/CP về “Một số chủ trương và biện pháp nhằm
phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí
nghiệp quốc doanh” nhằm cải tiến cơng tác kế hoạch hố của xí nghiệp quốc doanh
theo hướng ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước giao, xí nghiệp được
phép bán sản phẩm trên thị trường tự do, đa dạng hoá sản xuất, phát triển thêm sản
phẩm và dịch vụ công nghiệp. Theo quyết định này, xí nghiệp có 3 kế hoạch gồm: kế
hoạch A là chỉ tiêu pháp lệnh do Nhà nước quyết định và được Nhà nước đảm bảo
cung cấp các yếu tố đầu vào, sản phẩm làm ra phải bán cho nhà nước theo giá quy
định; kế hoạch B là kế hoạch do xí nghiệp tự lo vật tư để tận dụng khai thác các năng
lực sản xuất của mình, sản phẩm làm ra phải bán cho nhà nước nhưng giá thành được
tính theo giá mua vật tư; kế hoạch C là kế hoạch sản
xuất phụ, do xí nghiệp tự tổ chức làm thêm để tận dụng lao động và cải thiện thu nhập
cho công nhân, không nằm trong nhiệm vụ sản xuất được giao, sản phẩm làm ra được
quyền tiêu thụ trên thị trường. Sau đó nhà nước ban hành Quyết định 26/CP ngày
21/1/1981 về việc mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm và vận dụng
các hình thức tiền thưởng trong các đơn vị kinh doanh của nhà nước. Sau đó, Hội
đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 146/HĐBT ngày 25/8/1982, nhằm sửa đổi và bổ
sung Quyết định 25/CP để phát huy mặt tích cực và kịp thời uốn nắn những lệch lạc
phát sinh hay sự phát triển không đúng hướng. Các quyết định trên đã góp phần làm
giảm bớt sự tập trung quan liêu bao cấp trong cơ chế quản lý nhà nước đối với các xí
nghiệp cơng nghiệp quốc doanh, tăng tính tự chủ của xí nghiệp và tạo thêm động lực
cho xí nghiệp phát triển. Nhà nước cũng thành lập nhiều công ty và liên hiệp xí nghiệp
trong cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp vật
liệu xây dựng. Việc ban hành Điều lệ xí nghiệp mới có tác dụng mở rộng trách nhiệm,
quyền hạn tự chủ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị cơ sở. Nhiều địa phương cũng
đã giới thiệu mặt hàng mới và nơi giao dịch để các xí nghiệp có thể trao đổi vật tư,
thiết bị thừa không dùng đến và biết được các khả năng hợp tác sản xuất của nhau.[24]
Trong thời kỳ này sản xuất cơng nghiệp đã vượt qua suy thối và khủng hoảng, bắt
đầu phát triển nhờ những cải tiến quản lý theo tinh thần Quyết định 25/CP, và Quyết
định 146/HĐBT và do một số cơng trình xây dựng qui mô trong giai đoạn 1976 - 1980



đã đi vào sản xuất, cung cấp các sản phẩm cho nền kinh tế. Đến năm 1985, tồn ngành
cơng nghiệp đã sản xuất được 105 tỷ đồng, tăng trên 61,3% so với năm 1976 và
57,4% so với năm 1980. Trong thời kỳ 1981-1985, tốc độ tăng bình quân hàng năm
đạt 9,5%, trong đó cơng nghiệp nặng tăng 6,4% và cơng nghiệp nhẹ tăng 11,2%, công
nghiệp trung ương tăng 7,8% và địa phương tăng 10,4%, tiểu thủ công nghiệp tăng
11,4%. Cơ cấu công nghiệp thay đổi như sau: công nghiệp nặng/công nghiệp nhẹ năm
1980 là 37,8%/62,2% và năm 1985 là 31,4%/68,6%; cơng nghiệp quốc doanh/ngồi
quốc doanh năm 1980 là 60,2%/39,8% và năm 1985 là 56,3%/43,7%9. Vào năm 1985,
một số chỉ tiêu sản phẩm cơng nghiệp chủ yếu tính bình qn đầu người đạt: điện phát
ra 87,2 kWh, so với 62,7 kWh (1976); than sạch đạt 93,9 kg, so với 115 kg (1976); xi
măng đạt 25,1 kg, so với 15,1 kg (1976); gạch đạt 49 viên, so với 75 viên (1976); gỗ
tròn đạt 0,024 m3, so với 0,031 m3 (1976); giấy đạt 1,31 kg, so với 1,53 kg (1976);
muối ăn đạt 11,2 kg, so với 11,9 kg (1976); cá biển đạt 10,5 kg, so với 12,3 kg (1976);
đường mật đạt 6,7 kg, so với 1,5 kg (1976); vải lụa đạt 6,2 mét, so với 4,5 mét (1976).
Sản lượng của nhiều mặt hàng như than, gạch, gỗ, giấy, muối ăn, cá biển giảm so với
năm 1976, các mặt hàng khác tăng nhẹ trong khi dân số tăng mạnh khiến chất lượng
sống của nhân dân đi xuống.

2.3.3. Thương nghiệp
Sau khi thống nhất
Tại miền Nam, thương nghiệp tư doanh khá phát triển. Nhà nước Việt Nam chủ
trương cải tạo thương nghiệp tại miền Nam để tiêu diệt giai cấp tư sản mại bản, chấm
dứt sự kiểm sốt của người Hoa trong ngành bán bn và bán lẻ; chống đầu cơ, làm ăn
phi pháp, làm mất ổn định đời sống kinh tế - xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội..[24]
Sau khi Việt Nam thống nhất, tại miền Nam lưu hành ba loại tiền khác nhau: tiền của
chế độ Việt Nam Cộng hịa, tiền của Chính phủ cách mạng lâm thời và tiền của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. Ban đầu, nhà nước chủ trương tạm thời hạn chế việc buôn
bán giữa hai miền. Đến năm 1976, những hạn chế bn bán được nhà nước xố bỏ

dần
Giai đoạn 1976-1980
Trong thời kỳ này, công tác phân phối lưu thơng gặp nhiều khó khăn. Thương nghiệp
quốc doanh tuy phát triển nhanh, nhưng cịn yếu, chưa có nhiều hàng hố. Hoạt động
thu mua và phân phối hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Các hợp tác xã thương nghiệp
mới được xây dựng, chưa đủ sức hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh thu mua, nắm
nguồn hàng, phân phối bán lẻ và chi phối thị trường. Thương nghiệp tư nhân hoạt
động, nhất là tại miền Nam, do nhà nước chưa xiết chặt việc ngăn cấm thị trường tự
do.[24]
Hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế kế hoạch tập trung, Nhà nước độc quyền ngoại
thương, đối tác thương mại chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa với cơ chế nghị định
thư. Cả nước chỉ có khoảng 30 đơn vị, cơng ty nhà nước hoạt động xuất, nhập khẩu,
với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu rất thấp (bình quân xuất khẩu theo đầu người chỉ


ở mức dưới 10 rúp/người, trong đó 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu vực đồng
rúp). Hoạt động xuất nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề kéo
dài. Cơ chế thu bù chênh lệch ngoại thương đã làm cho ngân sách nhà nước bù lỗ xuất
khẩu ngày một tăng lên. Mức giá trong nước đối với hàng nhập khẩu thấp hơn giá vốn
vì vậy nhà nước phải hạn chế các nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư nguyên liệu, hàng
tiêu dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mà ở
thời kỳ này, hầu hết các mặt hàng cung ứng cho thị trường trong nước phải thông qua
nhập khẩu. Cân đối tiền – hàng và cung – cầu một số mặt hàng thiết yếu bị mất cân
đối nghiêm trọng. Hoạt động xuất nhập khẩu còn bị tác động tiêu cực bởi cơ chế tỷ giá
ngoại tệ được thực hiện theo giá kết toán nội bộ với giá trị của đồng Việt Nam cao gấp
nhiều lần so với giá trị thực; sự xơ cứng trong việc định giá vật tư, nguyên liệu, hàng
hoá xuất, nhập khẩu; các tổng công ty xuất nhập khẩu được phân công theo ngành
hàng không gắn nhập khẩu với xuất khẩu; ngân sách hàng năm phải chi ra một khoản
tiền lớn để bù lỗ cho hoạt động xuất, nhập khẩu
Giai đoạn 1981-1985

Hội nghị trung ương 6 khố IV (tháng 8/1979) đã cho phép xí nghiệp bán phần sản
phẩm vượt kế hoạch cho Nhà nước hoặc bán trên thị trường tự do. Nhà nước điều
chỉnh thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại hệ thống phân
phối trong hệ thống hợp tác xã nông nghiệp, bỏ phân phối theo định suất, định lượng
để khuyến khích tính tích cực của người lao động… Đầu những năm 80 của thế kỷ
XX, có địa phương đã thực hiện thí điểm mơ hình theo cơ chế: “mua cao, bán cao”
thay cho “mua cung, bán cấp”; bù giá vào lương. Tuy nhiên, vẫn có khuynh hướng
muốn quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V
(12/1983) vẫn xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những
ngun nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, và chủ trương phải đẩy mạnh
hơn nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị
trường tự do về lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá;
bảo đảm cung cấp đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương; lập các
cửa hàng cung cấp…[24]

2.4. Kết quả và ý nghĩa của nền kinh tế kế hoạch hóa t ập trung quan
liêu bao cấp ở Việt Nam trước thời kì đổi mới.
2.4.1. Kết quả.
Nhìn chung, có thế thấy, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp ở Việt Nam trước thời kì đổi mới mang lại kết quả không mấy khả quan cho đất
nước.
Tuy nhiên không thể không nói đến một số kết quả khả quan:


Đã cho phép tập trung tối đa các nguồn lực vào các mục tiêu chủ yếutrong từng
giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là trong q trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu
tiên cơng nghiệp nặng.
Trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh , cơ chế này đã đáp ưng được yêu cầu
của thời chiến, bởi đất nước bị xâm lược , mục tiêu của cả nước là giải phóng dân tộc ,
thực hiện mục tiêu kế hoạch hóa tập trung đã huy động được tối đa sức của nhân dân

xây dựng và phát triển kinh tế thực hiện mục tiêu chung mà không phải của riêng ai
Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn giúp người chiến sĩ ra chiến trường cũng
yên tâm phục vụ bởi nhà nước đã lo bao cấp cho gia đình, vợ con tại quê nhà
Một số kết quả hạn chế:
Thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể bị thua lỗ, khơng phát huy
được vai trị tác dụng
-

Nền kinh tế quốc dân mất cân đối ngày càng nghiêm trọng

Thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, không đảm bảo được nhu cầu
tiêu dùng của xã hội trong khi dân số đang tăng nhanh
-

Lương thực,vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu

Thị trường vật giá tài chính khơng ổn định, sản xuất tuy tăng hơn trước nhưng
cịn chậm so với khả năng sẵn có và cơng sức bỏ ra
-

Hiêu quả sức đầu tư thấp

Tài nguyên đất nước chưa đc khai thác tốt , lại bị sử dụng lãng phí , nhất là
nơng nghiệp và tài ngun rừng, môi trường sinh thái bị phá hoại
Trong thời chiến, nền kinh tế tậo trung còn mang nhiều hạn chế, song, thực chất nó chỉ
được bộc lộ gay gắt nhất khi Việt Nam bước vào thời kì đổi mới :
Nền kinh tế bộc lộ rõ những yếu kém thông qua sự phát triển “què quặt” của
khoa học kĩ thuật. Trong khi các nước trên thế giới đang không ngừng khai thác những
tiềm năng của khoa học kĩ thuật thì Việt Nam còn tồn đọng những lạc hậu ngay từ
trong sản xuất.

Lao động khơng có động lực kinh tế, khơng kích thích người lao động phá vỡ
nguyên tắc phân phối lao động
Đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra những mầm mống quan liêu, lộng quyền,
hách dịch, của một bộ phận cán bộ Nhà nước .


Khơng có sự đa dạng hóa nền kinh tế bởi sự đóng cửa trong ngoại giao, hàng
hóa sản xuất tự cung tự cấp, hàng hóa có biểu hiện mất giá bởi giá trị nhu yếu phẩm
trên theo tem phiếu thấp hơn giá trị hàng hóa thật.
-

Hạch tốn kinh tế chỉ mang tính hình thức.

2.4.2. Ý nghĩa
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được
phát triển ưu tiên.
Cơ chế này cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu
chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể.
-

Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo

Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước
XHCN, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế từ năm 1978



C.

Như vậy, thời kì quan liêu bao cấp có mang lại cho nền kinh tế Việt Nam một số

ý nghĩa nhất định song chủ yếu không đạt được nhiều thành tựu, có thể nói rằng
đây là điểm đen trong Lịch sử hình thành và phát triển kinh tế Việt Nam, để lại
nhiều bài học xương máu cho thế hệ sau phát triển đất nước

Kết luận

Như vậy, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cịn nhiều hạn chế song đem lại những
kết quả nhất định. Những kết quả trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng - tạo cơ sở
ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.


Có thể thấy thời bao cấp là giai đoạn mà nhiều người Việt đã trải qua, là một giai đoạn
khó quên của người Việt. Trong đó, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kì
trước đổi mới.
Tóm lại, việc đánh giá cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sẽ là bài học kinh
nghiệm trong xác định phương hướng hoạt động của nước ta sau này.



×