Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM đề TÀI TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.89 KB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHỊNG SAU ĐẠI HỌC

------------------------CHUYÊN ĐỀ:
NGHIÊN CỨU SỨC HẤP DẪN TRONG
THƠ NÔM HỒ XN HƯƠNG
BÀI TIỂU LUẬN NHĨM:

ĐỀ TÀI TRONG THƠ NƠM
HỒ XN HƯƠNG
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Lê Thu Yến
Người thực hiện :
1. 2. 3. 4. 5. -

Thành phố Hồ Chí Minh – 10/2020
MỤC LỤC
1


Table of Contents
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.............................................................3
1.1. Cuộc đời Hồ Xuân Hương...............................................................................3
1.2. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Xuân Hương...........................................................4
1.3. Đề tài trong thơ Nôm trung đại........................................................................5
CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG ĐỀ TÀI TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG7
2.1. Đề tài về hang động, đồi núi............................................................................7
2.2. Đề tài về đồ vật, con vật, bánh trái................................................................16
2.3. Đề tài về thầy tu và chùa chiền......................................................................22
2.4. Đề tài về vua chúa, hiền nhân quân tử, học trò..............................................27
2.5. Đề tài về người phụ nữ...................................................................................33


KẾT LUẬN.............................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................53

2


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cuộc đời Hồ Xuân Hương
Theo tài liệu nghiên cứu Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của GS. Lê Trí Viễn thì Hồ
Xn Hương là người xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Họ Hồ ở Quỳnh
Lưu là một họ nổi tiếng, từng có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to như Hồ Sĩ Đống
(anh Xuân Hương) đỗ hoàng giáp, chức đô ngự sử. Xuân Hương sinh ra ở đâu, năm nào,
chưa rõ. Chỉ truyền ngơn là gia đình một thời ở Thăng Long, lúc ở phường Khán Xuân,
lúc ở thôn Tiên Thị, và tuổi trưởng thành Xuân Hương lại dựng một ngôi nhà gần Hồ Tây,
đặt tên là Cổ Nguyệt Đường bạn bè lai tới nhiều là ở ngôi nhà này. Hồ Xn Hương theo
nề nếp gia đình có được đi học nhưng khơng nhiều. Cứ thơ ca thì ứng với bạn bè cả Nôm
lẫn Hán, không kể tài thơ. Về kiến thức cũng làm các bậc mày râu kính nể.
Xuân Hương sinh sống như thế nào, không đâu chép. Chỉ thấy ghi nhà nghèo và có
mẹ già. Có thời gian Xuân Hương giao thiệp với nhiều bạn bè. Được Xuân Hương tặng
thơ và cùng xướng họa đều là trí thức, quan lại. Xưa kể Chiêu Hổ (Chiêu Hổ không chắc,
hoặc khơng phải là Phạm Đình Hổ). Lưu Hương ký cho thấy thêm khá nhiều: Sơn Phủ,
Cư Đình, Tốn Phong Thị, Thạch Đình, Chí Hiên, hiệp trấn Sơn Nam hạ, hiệp trấn Trần
hầu (tức Trần Phúc Hiển)... kể cả một “người cũ” là ông Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu,
người Tiên Điền, Nghi Xuân là Nguyễn Du. Khách khứa ngâm vịnh như vậy, muốn tao
nhã, chủ nhân trong nhà không phong lưu cũng đủ chi dùng, và cũng đủ nhàn nhã để nghe
thơ và xướng họa. Mùa xuân năm Giáp Tuất (1814), ơng bạn Tốn Phong Thị đến thăm.
Trước đó Xuân Hương đã có những 10 bài tám câu bảy chữ đưa tặng và 21 bài họa lại.
Đường chồng con của bà nhiều long đong. Đến nay mới rõ tên một người chồng là
Trần Phúc Hiển, vào những năm 10 thế kỳ XIX làm tri phủ Tam Đái về sau là Vĩnh
Tường, rồi tiếp theo giữ chức tham hiệp An Quảng và mất năm 1819. Cịn ơng Phủ Vĩnh

Tường có phải là Trần Phúc Hiển hay một người khác? Tổng Cóc là ai? Có phải là
Nguyễn Bình Kình ở phủ Lâm Thao hay là người nào? Trong ba hay hai người đó Xuân
Hương lấy ai trước? Trong mấy mươi bài xướng họa giữa Xuân Hương và Tốn Phong Thị
được sáng tác qng 1807-1814, mà giọng chân thực khơng có gì đáng nghi ngờ, lại cho
3


thấy Xn Hương khơng cịn mười tám đơi mươi, mà trong tâm tư đã cho mình thuộc số
má đào phận bạc và lấy làm xấu hổ khi nghĩ đến chuyện chồng còn. Một điều thường
được ghi nhận là Xuân Hương đi đây đi đó nhiều nơi, lên tận Tuyên Quang, vào tới
Thanh Hóa, ra đến An Quảng, sang cả Ninh Bình, cịn Vĩnh n, Sơn Tây, Hà Đơng đều
có vết chân của nữ sĩ. Thời xưa, với phụ nữ, chu du như vậy rất khó. Có người khơng dám
tin, nhưng thơ Xuân Hương lại là bằng chứng. Xuân Hương lãng du như thế vào thời gian
nào? Khó mà xác định, nhưng bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình là chỗ từng trải của Xuân
Hương. Xuân Hương mất năm nào? Chưa đâu đáng tin bằng lời thơ của Miên Thẩm:
trước 1842. Như vậy, Xuân Hương thuộc vào thế hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX và nhỏ tuổi hơn Nguyễn Du.
1.2. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Xuân Hương
Về sáng tác của Hồ Xuân Hương, thì xem như có hai mảng: mảng thơ Nơm truyền
tụng và Lưu Hương Ký.( Theo Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, Lê Trí Viễn, NXB Sở Giáo
dục Nghĩa Bình, 1987.)
1.2.1. Tập thơ “Lưu Hương Ký”
Lưu Hương Ký khơng chắc cịn đầy đủ. Gom tất cả lại thì có được 31 bài thơ và văn
chữ Hán, 28 bài thơ chữ Nôm, bao gồm thơ năm chữ, bảy chữ, ca, từ, phú. Trong bản
chép tay còn giữ được lẫn lộn cả thơ người khác xướng họa với Xuân Hương. Hồi mới
phát hiện tài liệu quý báu này, Trần Thanh Mại có bài giới thiệu tương đối kỹ. Từ đó đến
nay khơng mấy ai bàn tới. Gần đây, Nguyễn Lộc hai lần đề cập trở lại nhưng để chỉ nhận
xét nó khơng cùng phong cách với mảng thơ Nôm quen biết và chờ đợi tài liệu tin cậy dứt
khốt hãy coi nó cùng tác giả với các bài thơ truyền tụng kia. Lưu Hương Ký với mấy
mươi tác phẩm như đã được tập hợp, chủ yếu là một tập thơ tình yêu. Dù là miêu tả ngoại

cảnh hay đối thoại với bạn bè cũng đều là một giọng trữ tình. Có buồn vui, có nhớ
thương, trách móc, tủi phận, có thề sâu, có tiễn đưa, dặn dị, có tin và có sợ….Nhưng tất
cả chỉ là những cung bậc của một tiếng lòng chân thực, cởi mở, tha thiết muốn yêu và
được yêu, tha thiết với một mối tình chung thủy, bền lâu, ước mong cháy bỏng mà đáp lại
chỉ thoảng qua. Cho nên, chủ âm của tập thơ là một niềm khắc khoải khôn nguôi.
4


1.2.2. Tập thơ “Xuân Hương thi tập” (thơ Nôm truyền tụng)
Cũng theo tài liệu nói trên của Giáo sư Lê Trí Viễn thì thơ Nơm truyền tụng được ghi
lại và xuất bản lần đầu tiên với nhan đề Xuân Hương thi tập năm 1913 thì có khoảng trên
40 bài. Nhưng khảo sát theo tiêu chuẩn phong cách rồi thận trọng coi như chỉ có khoảng
30 bài có nhiều khả năng là của Xuân Hương, còn 10 bài kia, nét này, nét nọ giống giống
nhưng không phải là thơ Xuân Hương. Chính vì thế mà có ý kiến cho rằng thơ Xuân
Hương là hiện tượng văn học dân gian xâm nhập vào văn học viết. Bởi tập thơ thể hiện
phong cách đa dạng và độc đáo, lời thơ diễn đạt rất gần gũi với văn học dân gian.
1.3. Đề tài trong thơ Nơm trung đại
Trong các bộ mơn nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, đề tài là thuật ngữ
dùng để chỉ phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm nghệ thuật.
Khái quát hơn, đề tài thể hiện phạm vi miêu tả trực tiếp của tác phẩm nghệ thuật. Ở
phương diện nhất định, khái niệm đề tài gắn với khái niệm chủ đề của tác phẩm.
Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học
chữ Hán (khoảng cuối thế kỉ XIII), tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung
đại.Văn học chữ Nơm chủ yếu là thơ, rất ít văn xi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số
thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật, còn phần lớn là thể loại
văn học dân tộc như ngâm khúc (viết theo thể song thất lục bát), truyện thơ (lục bát), hát
nói (viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc), hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã
được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn.Ở văn học trung đại, hai thành
phần văn học chữ Hán và chữ Nôm cùng phát triển, bổ sung cho nhau trong quá trình phát
triển của văn học dân tộc.

Đề tài, chủ đề Thơ Nôm trong tương quan với Đường luật Hán rất phong phú, đa
dạng và vận động – phát triển theo hai xu hướng: Vừa hướng tới “đồng tâm” với Đường
luật Hán, vừa hướng tới “ly tâm” theo tinh thần dân chủ hóa, dân tộc hóa thể loại; từ
hướng nhiều vào mục đích “chở đạo”, giáo huấn chuyển dần sang mục đích phản ánh
cuộc sống, xã hội, thời đại và số phận con người. Sự thay đổi này đã mở rộng phạm vi
phản ánh và khả năng khái quát nghệ thuật của Đường luật Nôm. Sự vận động và phát
5


triển của TNĐL trên phương diện hệ thống đề tài, chủ đề mang tính lịch sử, vừa góp phần
khu biệt tác giả và thời kỳ phát triển thể loại, vừa khu biệt Đường luật Nôm với Đường
luật Hán. Nắm được quy luật vận động – phát triển này sẽ góp phần tích cực và có hiệu
quả trong nghiên cứu và giảng dạy dòng thơ tiếng Việt, đánh giá đúng những đóng góp to
lớn của đội ngũ trí thức phong kiến yêu nước, yêu tiếng mẹ đẻ và giàu tinh thần tự tôn, tự
cường dân tộ
Sự vận động và phát triển của TNĐL trên phương diện hệ thống đề tài, chủ đề mang
tính lịch sử, vừa góp phần khu biệt tác giả và thời kỳ phát triển thể loại, vừa khu biệt
Đường luật Nôm với Đường luật Hán. Nắm được quy luật vận động – phát triển này sẽ
góp phần tích cực và có hiệu quả trong nghiên cứu và giảng dạy dịng thơ tiếng Việt, đánh
giá đúng những đóng góp to lớn của đội ngũ trí thức phong kiến yêu nước, yêu tiếng mẹ
đẻ và giàu tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc. Hệ thống đề tài chủ đề TNĐL xuất hiện xu
hướng phá bỏ dần tập quán tư duy nghệ thuật của thơ Đường luật, đem đến một năng lực
tư duy nghệ thuật mới, mở ra những trường mỹ cảm độc đáo, bất ngờ. Trong việc lựa
chọn đề tài, cách thể hiện chủ đề của TNĐL đã có sự kết hợp hài hịa giữa những yếu tố
tích cực của tư tưởng Nho giáo với tinh hoa dân tộc và tinh thần thời đại. Xuất hiện cảm
hứng trào lộng, hé mở nỗi niềm riêng của người làm thơ trong hệ thống đề tài, chủ đề
TNĐL. Xu hướng vận động và phát triển của hệ thống đề tài, chủ đề TNĐL theo tinh thần
dân chủ hóa, dân tộc hóa thể loại cịn được thể hiện khi các nhà thơ Nơm đã sử dụng và
sáng tạo ra các tiểu loại đề tài, chủ đề bắt nguồn trực tiếp từ hiện thực đời sống xã hội
mang đậm bản sắc dân tộc như: Vịnh sử Nam; Người phụ nữ gắn với những bi kịch trong

đời sống tình cảm, Cuộc sống hành lạc; Các “loại sản phẩm” của thể chế xã hội... gắn với
cảm hứng phê phán, tố cáo. Đây là những đóng góp quan trọng của TNĐL vào tiến trình
nền văn học dân tộc.

6


CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG ĐỀ TÀI TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

2.1. Đề tài về hang động, đồi núi.
Trong gần năm mươi bài thơ, hệ thống đề tài hang động, đồi núi đóng góp một
phần khơng nhỏ trong hệ thống chùm thơ nơm của Hồ Xn Hương. Hình ảnh của
những hang động, đồi núi xuất hiện trong thơ nôm Hồ Xuân Hương rất độc đáo
và đầy ấn tượng. Bằng lời thơ, Hồ Xuân Hương đã chỉ ra đặc điểm chung của những
hang động, đồi núi này, đó là trịn, sâu thẳm và mang màu sắc huyền bí.
Nếu như tài hoa của Xuân Hương bay bổng trên những vần thơ ngắn thì tài hoa ấy
lại được bà khẳng định trong việc sử dụng hình ảnh châm biến, liên tưởng, đầy biến hóa
tuy dâm nhưng đầy thanh tục. Điều này đã được Hồ Xuân Hương thể hiện trong bài thơ
“Hang Cắc Cớ”:
“Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, 
Luồng gió thơng reo vỗ phập phịm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm, 
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!”
(Hang Cắc Cớ)
Bằng những từ ngữ khá thô ráp, trần trụi và gợi dục“nứt hai mảnh”, “hỏm hòm
hom”, “trơ hoen hoẻn”, “vỗ phập phòm”, “giọt nước hữu tình”, “hớ hênh”,…gợi cho ta

những liên tưởng đặc biệt. Sâu trong những lời thơ hiện ra một Hồ Xuân Hương rất phóng
túng khi phá tan nhiều rào cản Đường luâ ̣t bằng cả cái thanh và cái tục. Một Hồ Xuân
Hương với trí tưởng tượng phong phú, tài quan sát tỉ mỉ khi miêu tả hang đô ̣ng đầy sức
ám gợi giữa tục và thanh. Và hơn hết, miêu tả hang Cắc Cớ thực chất là sự “cắc cớ” cho

7


khát vọng tình yêu, chính xác hơn là khát vọng tình dục của người phụ nữ. Người phụ nữ
họ cũng cần được thỏa mãn tình dục thâ ̣m chí nó còn rất mãnh liê ̣t.
Động Hương tích cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ về hang
động và đồi núi trong thơ Hồ Xuân Hương. Động Hương Tích được mệnh danh là “Nam
Thiên đệ nhất động” - động đẹp nhất trời Nam. Hồ Xuân Hương đã khơng khỏi rung động
khi đứng trước động Hương Tích và bật lên lời khen:
“Bày đặt kìa ai khéo khéo phịm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giot nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vơ trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom!”
(Động Hương Tích)
Nữ sĩ chỉ tay vào cảnh vật khéo khen ai đã sắp đặt nên một động Hương Tích căn
đối ở bên trái, bên trái, phía trên, phía dưới hồi hịa cùng với cảnh non nước nơi này.
Trước cảnh non nước đẹp ấy, chắc hẳn ai cũng phải đắm say, mê mẩn theo nó, nhưng đọc
thơ Hồ Xuân Hương có cảm giác như bà đang đứng ngồi cảnh đẹp ấy. Con người mạnh
mẽ, ngạo nghễ đang đứng bên ngoài quan sát vào trong để thấu đáo những việc mà nhân
gian chưa tường rõ. Phải chăng “cái lỗ hỏm hòm hom” ấy còn ẩn chứa nhiều hơn ý nghĩa
của cái đơn thuần là cảnh vật.

Bằng tài năng quan sát và mô tả, Hồ Xuân Hương tái hiện một cách chân thực nhất
về Hang Cắc Cớ và Động Hương Tích. Đây là những hang động có cái lỗ hỏm hịm
hom, là những cái hang trịn, sâu mà nhỏ, ở đó có con thuyền vơ trạo (khơng có bơi
chèo), con đường vơ ngạn (khơng có thành bờ tay vịn), có giọt nước rơi từ thạch nhũ,
8


có gió thổi vào hang nghe phập phịm. Cũng chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, kích
thích sự tò mò và mong muốn khám phá, chinh phục của người đọc khi tìm hiểu thơ
Hồ Xn Hương.
“Hang Thánh Hóa” hiện lên với những ngoàm đá với các hõm to, nhỏ, với lườn
đá có cỏ leo rậm rạp, có nước rỉ lách khe mó lam nham đầy sự bí ẩn, nguy hiểm:
Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến mới biết là hang Thánh Hố,
Chồn chân mỏi gối vẫn cịn ham!
(Hang Thánh Hóa)
“Hang Thánh Hóa” phần nào có nét tương đồng với “Hang Cắc Cớ”, Hồ Xuân
Hương một lần nữa dùng ngôn ngữ tục mà thanh để miêu tả về hang đô ̣ng, để thể hiê ̣n
khát khao thầm kín của người phụ nữ phong kiến. Cùng với bài “Hang Cắc Cớ”, bài thơ
“Hang Thánh Hóa” – chùa Thầy thể hiê ̣n nét phóng túng, nghịch ngợm và giỏi tưởng
tượng của thi sĩ Hồ Xuân Hương, mô ̣t nét riêng trong phong cách thơ của bà, đồng thời
thể hiê ̣n khát vọng của người phụ nữ được phá đi cái xiềng xích luâ ̣t lê ̣ phong kiến để làm
những điều mình thích, nỗi khát khao rất đỗi đời thường.
Ở “Kẽm Trống” Hồ Xuân Hương mượn hình ảnh của thiên nhiên để nói về thân
phận người phụ nữ, một tiếng nói mạnh mẽ, sâu cay và mang một vẻ rất riêng:

Hai bên thì núi giữa thì sơng.
Có phải đây là Kẽm Trống không?
9


Gió giật sườn non khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong,
Ở trong hang núi còn hơi hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa, mình ơi nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.
(Kẽm Trống)
“Kẽm Trống” xuất hiện rất nhiều từ liên quan đến nước như: “sông”, “sóng”,
“sóng dồn”, “nước”, “vỗ”, “nước vỗ”, “long bong”, “thùng” ... Ngồi ra, trong bài thơ
Kẽm Trống cịn có một số các từ đáng chú ý khác là: “trống”, “hang”, “hẹp”, “ra khỏi”,
“rộng thùng”, “qua cửa mình (ơi)”, “nỗi bưng bồng”... Chữ trống cho ta liên tưởng đến
bụng bầu của người đàn bà sắp đến ngày sanh nở và ngay câu mở đầu “hai bên thì núi,
giữa thì sơng” cho ta thấy cảnh người sản phụ đang nằm trong tư thế sẵn sàng sinh con.
Các nhóm từ khác như qua cửa mình, hang, hẹp, ra khỏi, rộng thùng cộng với ý tưởng
nước trong bào thai bụng mẹ vừa dẫn giải ở trên cho ta hình dung đến cảnh tượng như
sau: đứa bé từ trong bụng to như cái trống xuôi theo đường âm hộ nhỏ hẹp nhờ nước tràn
ra từ bào thai để rồi sau đó vượt ra khỏi cửa mình của mẹ để vào một thế giới không gian
rộng thùng và được tiếp nhận bồng ẩm bởi người thân. Hồ Xuân Hương qua ẩn ý của bài
thơ này muốn cho người đàn ơng thấy là đàn bà có một nhiệm vụ rất là thiêng liêng, cao
cả hơn hẳn đàn ông là nhiệm vụ sinh con và sanh ra sự sống.
Không chỉ những “Hang Cắc Cớ”, “Động Hương Tích”, “Hang Thánh Hóa”,
“Kẽm Trống”,… mà cả những hịn đá như: “Đá Ơng Chồng Bà Chồng” cũng hiện lên
trong thơ bà một cách đầy tinh tế:
Khéo léo bài trị tạo hóa cơng
Ơng Chồng đã vậy lại Bà Chồng

Từng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
10


Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sơng
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
(Đá Ơng Chồng Bà Chồng)
Tạo hóa thật hay, thật khéo léo khi đã bày trị cho thiên nhiên những hình tượng
hết sức giống con người. Đá Ông Chồng Bà Chồng đã hay lại quí, một tảng đá lớn đè lên
trên một tảng đá nhỏ hơn. Qua ngòi bút của Hồ Xuân Hương, nó trở thành một tác phẩm
điêu khắc cảnh làm tình của thiên nhiên, đá thành người và người đang yêu nhau ở những
thời điểm mà lại là ông và bà, những người già. Tưởng tượng của thi nhân đã đẹp lại còn
bao dung. Tầng trên đá bạc rêu trắng như tuyết điểm, tầng dưới má thẹn ửng hồng. Ngắm
nghía đá Ơng Chồng Bà Chồng, Hồ Xn Hương đã hào hứng phả tình vào đá, tình đá
vượt hóa tình xuân. Hồ Xuân Hương đã đón nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan,
đã truyền sức sống vào cảnh vật, truyền cái đa tình của mình vào đá. Đọc thơ Hồ Xn
Hương ta thấy cảnh vật khơng cịn là những vật vơ tri vơ giác, mà nó đã bừng tỉnh giấc,
tràn đầy sức sống mang những xúc cảm và nhất là để yêu. Ở đây, ta thấy một Xuân
Hương yêu thiên nhiên và sau Xuân Hương, thiên nhiên trong độ phát triển sung sức, dồi
dào sức sống. Khi đứng trước thiên nhiên, ngay trước những vật tầm thường nhỏ nhoi
nhất, bao giờ Xuân Hương cũng có một sự ngạc nhiên thú vị, bao giờ cũng tìm thấy một
vẻ mới mẻ, một lí do để càng gắn bó với cuộc sống.
Hay ở “Quán Khánh”:
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xo kẽ kèo tre đốt khẳng kheo


11


Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
Một dịng nước biếc cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Câu 7, 8 Có bản chép: Nhìn xem phong cảnh vui là thế/ Nỡ để tri âm khách lạt tèo)
(Quán Khánh)
Bài thơ này chỉ có thể làm trong thời đại cũ, một thời đại cuối vua Lê chúa Trịnh, tất
cả mọi cái, từ vua chúa đến quan lại, đều “lộn lèo” cả lên. Vì xã hội đã lộn tùng phèo như
vậy, nên Xuân Hương mới “đứng chéo trông theo cảnh hắt heo” chứ không chịu đứng
thẳng hai chân một cách trang nghiêm. Một nụ cười thật thâm sâu, cười cho cảnh đời trớ
trêu, hắt heo ấy. Dù khơng nhắc đến hình ảnh con người nhưng qua hình ảnh “mái cỏ”,
“kèo tre” ta cũng phần nào hình dung được cuộc sống khó khăn của người dân lúc bấy
giờ. Nhà cửa, mái nhà thì cũng chỉ làm bằng cỏ, những cây cột chống đỡ cho ngơi nhà thì
cũng xiên vẹo. Phóng tầm mắt xa hơn ta thấy dường như cảnh thiên nhiên khơng cịn
hùng vĩ, sừng sững và đồ sộ nữa mà giờ lại “uốn éo”, “leo teo”. Lượng từ “một” càng tô
đậm thêm sự nhỏ bé, yếu ớt. Ngay cả những niềm vui nhỏ bé, đơn giản của con người lúc
bấy giờ, tất cả đã lộn lèo. Ngôi nhà xơ xác với cái cột khẳng kheo; thiên nhiên uốn eo, leo
teo; cánh diều lộn lèo,… Tất cả mọi thứ, tất cả cảnh vật, thiên nhiên dường như đang
đồng cảm với số phận cùng cảnh ngộ của con người khi sống trong một xã hội mà mọi
thứ đều “lộn lèo”. Qua những hình ảnh cùng cách gieo vần “eo”: “chéo, theo, (hắt) heo,
(thiên) thẹo, cheo leo, (kẽ) kèo, (khẳng) kheo, (uốn) éo, lèo tèo, (lộn) lèo”, ta cảm nhận
đươc rằng có một sự hài hước, dí dỏm trong cách gieo vần của Hồ Xuân Hương nhưng ẩn
sâu trong đó là niềm đau xót, lên án mạnh mẽ cái xã hội đương thời.
Không chỉ thể hiện sự lên án sâu sắc về xã hội thối nát đương thời mà thơng qua đó
“bà chúa thơ Nơm” cịn thể hiện tâm trạng cùng nỗi niềm khát khao hạnh phúc của mình.
Hình ảnh “ba chạc cây xanh” đã gợi cho ta liên tưởng đến sinh thực khí nam. Đặc trưng

của cây ba chạc là có rễ đâm sâu xuống mạch nước ngầm của lịng đất (sinh thực khí nữ)
mà vì thế nó có một sức sống hết sức dẻo dai, mãnh liệt. Và trong bài “Quán Khánh”, Hồ
12


Xuân Hương cũng đã miêu tả đặc điểm của loại cây này “xanh”, cho thấy sự phát triển
sinh sôi. Qua đó càng làm rõ hơn về tín ngưỡng phồn thực. Biểu hiện của khát vọng về
cuộc sống con người và thiên nhiên nẩy nở, sinh sôi, viên mãn, trường tồn đã làm cho đời
sống văn hóa nói chung và nghệ thuật tạo hình của nhân loại nói riêng ngay từ buổi hồng
hoang đã chứa đựng những chất sống sung mãn và đạt được sức mạnh biểu hiện sâu sắc.
Phồn thực luôn được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là giao hịa đực cái, sự sinh sơi nịi
giống hay biểu đạt tính tượng trưng của giao hịa nam nữ mà cịn là sự mong muốn, khát
khao cuộc sống no đủ, đông đúc, cuộc sống được sinh sôi, nẩy nở, mùa màng tươi tốt, cây
cỏ xanh tươi, hoa quả nặng trĩu cành. Tín ngưỡng phồn thực càng khẳng định rõ hơn khi ở
câu tiếp theo bà có nhắc đến hình ảnh “một dòng nước”, và “dòng nước” ấy lại là “dòng
nước biếc”. Tất cả cho thấy sự phát triển của mọi vật trong thiên nhiên khi có sự kết hợp
sinh thực khí nam và nữ. Lượng từ “một” càng khắc họa rõ hơn về tâm trạng cùng nỗi
niềm cơ đơn của dịng nước kia. Từ đó ta thấy niềm khát khao hạnh phúc cùng nỗi cô đơn
luôn hiện hữu trong con người của người thi sĩ tài năng này.
Có ý kiến cho rằng thơ Hồ Xuân Hương là “thi trung hữu quỷ”, có thể hiểu ý của chữ
“quỷ” ở đây chính là nghệ thuật điều khiển chữ nghĩa của nữ sĩ đã đạt tới mức tuyệt đỉnh
và khả năng cuốn hút, ám ảnh của thơ bà thật siêu phàm, ma mị. Điều này thể hiện rất rõ
trong bài thơ “Đèo Ba Dội”:
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ lt tùm bum nóc,
Hịn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thơng cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng?

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
(Đèo Ba Dội)

13


Bài thơ có cách phá đề rất lạ “Một đèo, một đèo, lại một đèo”, nữ sĩ viết như thế thì
nhạc điệu câu thơ cho thấy tư thế, thậm chí cả hơi thở mệt nhọc của người đang cố leo
đèo. Vừa hết dốc này, chưa kịp nghỉ ngơi cho khỏe thì dốc khác lại sừng sững trước mắt.
Khi lên đến đỉnh đèo, lữ khách thở phào sung sướng trước cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ
hiện ra trước mắt và bật thốt lên lời khen ngợi “Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo”. Ở đây,
nữ sĩ dùng đại từ phiếm chỉ “ai” và như thể cố tình hạ bớt quyến năng tối thượng của siêu
nhiên để cho gần với con người hơn. Con người sáng tạo ấy lại hóm hỉnh và tinh nghịch
khác thường khi “khéo tạc cảnh cheo leo” của đèo Ba Dội. Hình ảnh cửa son, hịn đá là
những sự vật bình thường nhưng “cửa son đỏ lt” và “hịn đá xanh rì” thì đã thấp thống
dấu ấn Hồ Xn Hương. Thêm hai tính từ “đỏ loét” và “lún phún” đã rõ ràng là Xuân
Hương chẳng lẫn bởi bà rất giỏi trong sáng tạo và chơi từ độc! Nếu như ở cặp câu thực,
hình ảnh cửa son và hòn đá là những sự vật tĩnh trở nên sinh động bởi màu đỏ loét của
sơn và xanh rì của rêu thì ở cặp câu luận “Lắt lẻo cành thơng cơn gió thốc/ Đầm đìa lá
liễu giọt sương gieo”, mọi sự vật đều sống động lạ kỳ như có linh hồn: “cành
thơng thì lắt lẻo, gió thì thốc, lá liễu thì đầm đìa, giọt sương thì gieo”. Hầu như Hồ
Xn Hương sử dụng những động từ, tính từ rất mạnh! Và có một sự liên tưởng đầy bất
ngờ và thú vị ở phần kết của bài thơ “Hiền nhân quân tử ai là chẳng?/ Mỏi gối chồn chân
vẫn muốn trèo.”, Hồ Xuân Hương tả thực mà ám chỉ, thanh mà tục, tục mà thanh. Ngày
xưa, người dân ít khi ra khỏi địa phương mình sinh sống. Cịn những đệ tử của nho giáo
theo đòi nghiệp bút nghiên hay muốn học hành đỗ đạt để ra làm quan với mục đích tốt
đẹp là phị vua giúp nước hay mục đích tầm thường và vinh thân phì gia thì đều phải vào
Kinh ứng thí (kinh đơ Huế). Muốn vào Huế thì bắt buộc phải leo qua đèo Ba Dội cheo
leo, hiểm trở, cho dù mỏi gối chồn chân. Cái cười tinh nghịch, giễu cợt của Xuân Hương
ngụ trong bốn chữ hiền nhân quân tử và chữ “muốn”. Ngày xưa, bậc vua chúa, quan lại

và tầng lớp nho sĩ thường tự xếp mình vào tầng lớp cao sang nhất của xã hội và tự xưng
là hiền nhân quân tử. Muốn thành tầng lớp ấy thì bắt buộc phải học hành, thi cử tới nơi tới
chốn. Vào kinh đô Huế thi Đình để được thành Trạng Nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn
hoặc ông Nghè... rồi được bổ nhiệm, thăng chức quan lớn quan bé “phụ mẫu chi dân”. Cái

14


bả cơng danh như mùi rượu thơm đầu gió, hấp dẫn thế cơ mà! Vậy thì trèo! Khó mấy
cũng trèo, mệt mấy cũng trèo!
Nhưng chữ “muốn” khác chữ “phải” xa lắm về mặt hàm ý: phải là bắt buộc, miễn
cưỡng chấp nhận; cịn muốn là hồn tồn tự nguyện. Những bậc hiền nhân quân tử không
hề ngán ngại cái đèo Ba Dội trong liên tưởng kia, mà ngược lại: Mỏi gối chồn chân vẫn
muốn trèo; sức cùng lực kiệt vẫn muốn trèo!!! Chứng tỏ “cái đèo” ấy có sức cuốn hút ghê
gớm khó mà cưỡng lại! Như vậy, từ sự vật này, Hồ Xuân Hượng khiến người đọc hình
dung ra sự vật khác. Từ hành động trèo đèo Ba Dội sang hành động “trèo đèo” khác vốn
dĩ là bản năng tự nhiên xảy ra hằng ngày của con người. Ấy thế nhưng cái đám tự xưng
là hiền nhân quân tử cao quý kia tuy luôn tỏ vẻ khinh bỉ, coi thường nhưng chẳng ai là
khơng thích, khơng muốn, có khi còn “ham hố” nữa là đằng khác. Đây như là tiếng cười
châm biếm của nữ sĩ họ Hồ đau như roi quất vào mặt và tiếng cười khanh khách ấy còn
vọng mãi tới bây giờ - khi đám đạo đức giả đang nhan nhản trong xã hội!
Với “Kẽm Trống, Đá Ông Chồng Bà Chồng, Quán Khánh, Đèo Ba Dội”, là
một thế giới hang động, đồi núi hiện ra dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương cùng mang
những đặc điểm chung là cảnh thiên nhiên đẹp, sống động, đầy màu sắc và tràn đầy
sức sống. Đặc biệt ta thấy được tài năng của Hồ Xuân Hương khi mô tả rất thực tế và
sống động về một thế giới hang động, đồi núi thật phong phú và đa dạng.
Có thể thấy rằng thế giới hang động, đồi núi trong thơ Hồ Xuân Hương thật ấn
tượng. Ấn tượng không bởi nét hoang sơ, hùng vĩ hay sự khác biệt, lạ lẫm của cảnh vật
thiên nhiên mà chính vì nét gần gũi, quen thuộc. Thế giới hang động, đồi núi là thế giới
của những cuộc hành trình khám phá vơ cùng tinh nghịch, hồn nhiên,… Dường như thế

giới ấy khơng bị gị bị, ràng buộc bởi một chuẩn mực, khn thước nào cả. Nó mang lại
cho con người những rạo rực, háo hức cũng như khát khao đi tìm một bến bờ hạnh phúc.
Có lẽ vì thế mà khi thâm nhập thế giới hang động, đồi núi trong thơ Hồ Xuân
Hương, ta cũng thấy thú vị và thỏa lòng.

15


2.2. Đề tài về đồ vật, con vật, bánh trái.
Thời đại Hồ Xuân Hương, hầu hết các nhà thơ, nhà văn thường đi theo lối đề vịnh
quen thuộc “thi ngôn chi” nhưng nữ sĩ lại chọn cho mình một con đường riêng, khác biệt
với “số đông” lúc bấy giờ. Hồ Xuân Hương đi sâu vào khám phá, khai thác thế giới tự
nhiên. Thế giới ấy khốt lên mình vẻ đẹp tự nhiên và quen thuộc, mà theo nữ sĩ điều đó
xứng đáng được trao truyền lại cho cuộc đời. Đó là những nét đẹp dung dị, đời thường mà
ta mảy may không quan tâm và quên bẳn đi. Nhưng cũng khơng vì thế những hình ảnh
như trái mít, con ốc, bánh trôi, cái đu, chiếc quạt, khung cửi khung tranh,… khi đi vào
thế giới thơ Hồ Xuân Hương lại vơi đi sức hấp dẫn, cuốn hút của nó. Chính những điều
tưởng chừng bình dị, quá đỗi quen thuộc lại làm nên những ấn tượng và độc đáo đến lạ
thường.
Mít là loại trái cây có ở khắp vùng người Việt sinh sống. Con ốc ở bất cứ vùng quê
nào cũng có. Bánh trơi là món chè ngọt người dân thường ăn. Cái đu ở các vùng phía Bắc
thường dựng lên trong suốt 3 tháng mùa xuân để khi tổ chức lễ hội, người dân có dịp giao
lưu với nhau. Giếng nước đầu làng quen thuộc như cây đa, mái đình, sinh hoạt thường
nhật của người dân. Chiếc quạt giấy không hề xa lạ với người dân xứ nóng. Khung cửi là
hoạt động lao động phần lớn của người dân ở nông thôn. Khung tranh ngày Tết vẫn
thường được treo trong nhà như tranh làng Hồ, tranh Hàng Trống…Chiếc trống của lễ
hội, của đình đền ở làng nào chả có. Đồng tiền là phương tiện giao dịch mua bán không ai
là không có. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Mời nhau ăn trầu, bửa cau, têm trầu, quệt vôi
là việc làm thường xun của mỗi gia đình có người lớn tuổi. Trẻ con thường được sai
ngốy trầu. Sân vườn mỗi nhà ít nhiều cũng có một vài cây cau, thả vài dây trầu quấn

quanh vừa là cây cảnh đẹp vừa để dùng quanh năm. Kể cả rêu, cỏ yếu ớt thậm chí khơng
có giá trị gì cũng ln có mặt trong thơ Xuân Hương... Điều quan trọng là Xuân Hương tả
những hình ảnh quen thuộc này theo nguyên lý động. Chất sống của sự vật rất quan trọng
trong thơ Xuân Hương. Chưa bao giờ Xuân Hương nhìn sự vật ở trạng thái tĩnh .
“Quả mít” - chỉ với bốn câu ngắn ngủi, Hồ Xuân Hương đã diễn tả rất thực về đặc
điểm của quả mít da xù xì, múi dày, cơm vàng óng:
16


Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dày
Qn tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay!
(Quả mít)
Song song đó cịn có sự liên tưởng từ “em” đến người “quân tử” với hành động
“đóng cọc” cho mít mau chín, hành động “mân mó nhựa ra tay” khi cầm lên đặt xuống,
xem tới xem lui, xem chỗ nào cứng chỗ nào đã mềm có thể ăn được. Đó là một bức tranh
sinh động khơng đơn thuần về hình dáng, màu sắc, tính chất mà cịn là sự thích thú, mong
muốn và hành động của con người trước sự trần trụi hấp dẫn của quả mít mà “múi nó
dày”…
Tương tự như quả mít, “Con ốc” trong thơ Hồ Xuân Hương mang một thân phận thấp
hèn, sống “lăn lóc” ở “chốn cỏ hơi” suốt đêm ngày, có “yếm” có “lỗ trơn”. Cũng có
nhân vật “tơi”, cũng có chàng “quân tử”, cũng có hành động “thương, bóc, ngó ngốy”:
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc chốn cỏ hơi.
Qn tử có thương thì bóc yếm.
Xin đừng ngó ngốy lỗ trơn tơi.
(Ốc nhồi)
Hồ Xn Hương sao không chọn đối tượng khác như con cua, con ếch… mà lại đề
vịnh con ốc? Hẳn đó là dụng ý của nữ sĩ. Con ốc ấy dù di chuyển có chậm chạp nhưng có

sự đối thoại rất linh hoạt, ngọ ngoạy phản kháng kịch liệt, dù cho thân phận có lênh đênh,
nổi trơi, lăn lóc chốn ao tù nước đọng. Và hơn hết, nó được con người để ý, quan tâm bởi
trước hết nó là một thứ có thể “cứu đói” cho con người.

17


Trong thơ vịnh vật mọi từ ngữ, chi tiết, hình ảnh… đều nhằm hình thành hình tượng
sự vật nhưng thực chất thơng qua đó người viết gợi đến các vấn đề liên quan đến con
người. “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương tuân thủ nghiêm túc quy tắc ấy:
Thân em vừa trắng lại vừa trịn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lịng son.
(Bánh trơi nước)
Mọi người đều có thể hình dung về chiếc bánh và cách làm bánh. Bánh trôi làm từ
bột nếp màu trắng, nặn lại thành hình trịn, bên trong có nhân bằng đường thanh, màu
vàng đỏ. Bánh tròn hay méo do bàn tay khéo léo, vụng về của kẻ nặn. Khi nặn xong bỏ
vào nước đun sôi, bánh đang chìm dưới nước là chưa chín lúc bánh nổi lên tức đã chín.
Thơng qua chiếc bánh trơi, hình ảnh người phụ nữ hiện lên thật khéo léo, tinh tế, hấp dẫn.
Cơ gái hội đủ vẻ đẹp bên ngồi “trắng, tròn” và phẩm chất “tấm lòng son”. Đặc biệt là
dù sống trong mơi trường đầy khó khăn “ba chìm bảy nổi”, hay sự phụ thuộc “rắn nát”
do kẻ nặn… người con gái ln vươn lên làm chủ tình cảm, làm chủ nhân cách để giữ
được “tấm lòng son”.
Để viết nên hai thi phẩm vịnh cái quạt, nữ sĩ tiếp thu cách biểu đạt ngơn từ và hình
tượng nghệ thuật trong những câu đố cổ truyền của người dân Việt về chiếc quạt giấy:
Rành rành ba góc rành rành
Khi thì ẹp lại khi thì vạnh ra

Khi vui thì sướng hay là

Khi buồn thì chảy nước ra là là
hay
Trời sinh ra ba góc khéo về ba
18


Một góc thiếu đi một miếng da
Nhấp nhổm càng lâu càng thấy sướng
Tại sao nước nọ chẳng tuôn ra.
Trong thơ Hồ Xuân Hương,“Cái quạt” xuất hiện với tâm thế là một vật gần gũi nhất
nhưng khôn kém phần linh hoạt và năng động:
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dánh tự ngàn xưa.
Chành da ba góc da cịn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lịng đã sướng chưa?
(Cái quạt I)
Mười bảy hay là mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp nhường nào cắm một cây.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
(Cái quạt II)
19



Hình ảnh “chành ra, khép lại, phì phạch…” (Cái quạt (I)), cùng với vẻ đẹp “hồng
hồng, má phấn, mỏng, dày, rộng, hẹp…” (Cái quạt (II)) khiến cho người dùng nó phải
quyến luyến chẳng “rời tay, nâng niu, yêu dấu. yêu đêm, u ngày”. Chẳng những thế nó
cịn có những cơng dụng khác, khơng chỉ có “mát mặt anh hùng”, nó cịn có thể “che
đầu” che mưa cho người “ qn tử”. Ở độ nóng cao, lúc “ tắt gió”, quạt càng “mát”.
Nâng niu ban đêm “chưa phỉ”, lại thêm “yêu dấu” lúc ban ngày. Người đọc chóng mặt vì
độ quay của chiếc quạt, nó hoạt động khơng ngừng nghỉ trên tay hết “vua” đến “chúa”,
hết “anh hùng” tới người “quân tử”… Cái quạt trong thơ Hồ Xuân Hương vừa thật
nhưng cũng lắm mơng lung, huyền ảo thách thức sự tị mị, tưởng tượng và có khả năng
mê hoặc, cuốn hút con người.
“Giếng nước” là hình ảnh thân thương của người trong một làng. Giếng là nơi tập
trung sinh hoạt mỗi ngày, giếng cũng là nơi bày tỏ tình cảm, thơng báo tin tức, cũng là nơi
quang gánh đi về tình tự bên nhau... Vì thế đi xa ai cũng nhớ. Cùng với gốc đa đầu làng,
ngõ trúc quanh co, giếng nước còn là nơi sinh hoạt tinh thần đậm nét truyền thống của dân
tộc ta. Xuân Hương đã chọn hình ảnh quen thuộc này như cột mốc quan trọng trong đời
sống tinh thần người Việt để dẫn giải một nét đẹp mà bình thường khơn dễ gì nhận ra:
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dịng thơng.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.
(Cái giếng)
Hồ Xuân Hương miêu tả chiếc giếng chung của làng quê trong nhiều làng cổ Việt
Nam. Đây là loại giếng thơi giống cái ao trịn, có bậc đá ong hoặc bậc gạch để lên xuống
20



gánh nước bằng đơi thùng gỗ hoặc nồi đình. Hồ Xuân Hương giới thiệu không gian, nơi
người ta thường bắt gặp ở các giếng nước. Đặc điểm của giếng này “tốt” và “lạ lùng” vì
có “cầu trắng đơi ván ghép, nước trong, cỏ gà mọc lún phún ở quanh mép, cá diếc thì
lách giữa dịng…”. Cái giếng làng hiện lên như nó vốn có nhưng có sức ám gợi cao.
Thường người ta chỉ nói “dịng sơng” khơng ai nói “dịng giếng” nhưng Hồ Xuân Hương
dùng đến hai lần từ “dòng” và giếng thì làm gì có cá mà “le te lách”. Hình ảnh cái giếng
“thanh tân ai cũng biết” ai cũng rõ rằng cái giếng ấy có nước trong, nước ngọt và nuôi
sống cả dân làng. Thế nên “Đố ai dám thả nạ dòng dòng”. Đây là cái giếng của của mùa
xuân, của hoạt động cuộn trào, náo nhiệt, sôi động. Giếng cũng là nơi tắm mát, lấp đầy vì
thế mà “cỏ gà” trỗi dậy “lún phún”, “cá diếc” quẫy đạp “le te lách”. Những chuyển động
ấy chính là hành trình của sự trổi dậy đầy nội lực.
“Đá” là vật thể quen thuộc ở vùng núi nước ta. Nhưng đá trong thơ Xuân Hương
không chỉ đơn thuần là đá. Đá còn thể hiện ở sức nặng, sự cứng cỏi, sự rắn chắc... và đá
bao giờ cũng có hình thẳng đứng vươn lên chín tầng cao.
Khen thay con tạo khéo khơn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ mó lam nham...
(Hang Thánh Hóa)
Đá kia cịn biết xn già giặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
(Đá Ông Chồng Bà Chồng)

Những lườn đá, bậc đá, hòn đá, chòm đá, đẽo đá, đeo đá, đá ông chồng bà chồng,
cả thạch nhũ nữa... hiện lên hết sức sinh động, ngộ nghĩnh, đa dạng. Điều đó thích hợp để
Xuân Hương diễn tả những điều khó nói và thể hiện cái cao, cái sâu, cái tinh nghịch, cái
bí hiểm trong tâm tưởng của mình.
21



Ẩn chứa trong sự quen thuộc của đề tài về đồ vật, con vật, bánh trái trong thơ Hồ
Xuân Hương là những điều bất ngờ, thú vị. Càng ngẫm sâu về con chữ của Hồ Xuân
Hương, ta càng thấy được những tâm tư, nguyện vọng và gần hơn là những tiếng cười hồn
nhiên, tiếng khóc nhiệt huyết, tiếng chửi mạnh mẽ đối với xã hội có q nhiều bất cơng
ngang trái đang tồn tại
2.3. Đề tài về thầy tu và chùa chiền
Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã đánh dấu sự mục ruỗng của xã hội
phong kiến từ trong ra ngồi, kéo theo đó là sự xuất hiện của những “quái thai xã hội” –
những kiểu người dị dạng, giả dối, đạo đức giả, chà đạp lên những giá trị truyền thống tốt
đẹp. Những kiểu người này chính là đối tượng đả kích chính của bút pháp châm biếm.
Bằng cái nhìn sắc sảo bao quát cuộc sống, ngòi bút châm biếm Hồ Xuân Hương trở nên
giàu sức chiến đấu khi đã vạch trần, tố cáo, đả kích đủ mọi tầng lớp tiêu cực trong xã hội.
Ngòi bút ấy hướng đến trước hết là tầng lớp nhà sư và không gian chùa chiền. Đây
là những hình ảnh rất quen thuộc và được tơn kính ở đất nước ta. Nhưng trong xã hội rối
ren lúc bấy giờ, nhà chùa khơng cịn là nơi tu hành tơn nghiêm nữa. Nhiều kẻ lợi dụng
chùa chiền để làm điều bậy bạ. Nhà sư với những phẩm chất cao quý, với sứ mệnh lớn
lao, v.v… đến thời Hồ Xuân Hương chỉ cịn là một “đại tự sự” khơng có thật. Thơ Xuân
Hương viết khá nhiều về họ: Chùa Quán Sứ, Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Kiếp tu
hành… mà tuyệt nhiên không thấy một bài nào ngợi ca. Hồ Xuân Hương chỉ trích thậm
tệ sự sa đọa của các nhà sư, bà mỉa mai hạng tu hành không giữ vững được đạo nên phải
hoàn tục. Nhà thơ phác họa vài nét nhưng qua đó người đọc phần nào nhận ra giọng điệu
châm biếm, thâm thúy, sâu cay của tác giả về những cảnh “chướng tai gai mắt” ở nơi
tôn nghiêm.
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
22



(Kiếp tu hành)
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã mượn cách cảm, cách nghĩ dân gian để bà bộc bạch những
điều chướng tai gai mắt với những kẻ đội lốt tu hành nhưng đa đoan, tráo trở. Nhưng
ngẫm ra, bà chỉ mượn ngơn ngữ dân gian mà cách nghĩ thì vơ cùng trí huệ, sắc sảo. Có
thơng tuệ bà mới có sự phân biệt và phê phán rạch ròi giữa giới chân tu và những kẻ đội
lốt tu hành. Bước vào cõi tu mà lòng còn mang nhiều dục vọng. Tâm chưa động đến ý
kinh mà lịng muốn xi Tây Trúc. Cái hãnh tiến trần tục của kẻ tu hành mê muội, ước
muốn thấy chốn Phật ngự bằng mắt chứ không phải bằng tâm thức nhập định Phật môn.
Sự thâm thúy của Hồ Xuân Hương còn ở cách dùng từ. Ở đây, từ “phải” bà dùng rất
“đắt”. Bà khơng nói “mới lộn lèo”, “đã lộn lèo” vì “mới, đã” trong ngữ cảnh này cịn
mang tính khách quan, đơi khi vượt ra ngoài nỗ lực kiềm chế của con người. Nhưng “phải
lộn lèo” thì hồn tồn khác hẳn. Nó mang cả ý chí chủ quan đầy dục vọng của kẻ tu hành
chưa thắng được bản ngã. Chỉ trích như thế chưa đủ, Hồ Xn Hương cịn tung hứng
ngơn từ với cái tài chơi chữ mà người đời sau gọi Nữ sĩ là Bà Chúa Thơ Nơm. Với lối
“nói lái” phổ biến trong ca dao, nữ sĩ đã thẳng thừng lật mặt, bôi vôi kẻ đội lốt tu hành.
Bài thơ đã mượn cái vỏ của thể loại thất ngôn tứ tuyệt để tâm tình, ca thán về sự sáo rỗng
của tâm hồn, sự xói mịn của đạo đức và chua xót hơn là sự dối trá với chính mình.
Bài Sư bị ong châm nối tiếp mạch suy nghĩ ấy của Hồ Xuân Hương. Trước hết bài thơ
mang giọng điệu hỏi thăm, giống như Nguyễn Khuyến hỏi thăm một ông tham quan nọ bị
cướp đến “thăm hỏi”:
“Cướp của đánh người quân tệ nhỉ,
Xương gà, da cóc có đau khơng?”
Hỏi thăm một cách thóc mách, hỏi thăm để tố cáo: Không hiểu nhà sư đi đâu mà dáng vẻ
hấp tấp, vội vã, nấp lén…như sợ bị phát hiện. Nhà sư đang đi đâu kia rõ ràng khơng phải
đi làm việc đại sự, thậm chí chắc chắn là việc làm không lương thiện. Cho nên mới bị ong
châm. Nó châm vào đầu sư khơng đội nón vì nó tưởng đó là cái gì…của bà cốt. Chỉ có Hồ
Xn Hương mới có thể tưởng tượng ra hình ảnh như thế. Ngồi ra Hồ Xn Hương cịn
dùng tiếng chửi của giới tu hành để chửi con ong: “bá ngọ”. Nhưng đó chỉ là vờ mắng

23


chửi thôi. Con ong bé cái nhầm hay con ong cố tình nhầm để châm chích, và cũng để cho
người có cái cớ mắng chửi. Đầu sư giống “gì…bà cốt” nên đầu sư cũng ngang với gì bà
cốt vậy. Hồ Xuân Hương mắng con ong mà như chửi thẳng vào mặt của giới tu hành vậy.
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chúng đội để ong châm.
Đầu sư há phải gì ... bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm.
(Sư bị ong châm)
Đằng sau cái lớp nghĩa trêu chọc, bông đùa là sự phê phán gay gắt, là phản ứng mãnh
liệt trước bao kẻ lợi dụng cái gọi là quốc giáo, là bao kẻ đội lốt tu hành làm hoen ố cửa
Phật. Hình dáng khơng giống ai, trọc đầu nhưng khơng có đi sam nên chẳng phải Ngơ,
và khơng có tóc nên chẳng giống dân ta một chút nào vì ở nước ta nam nữ thời ấy đều để
tóc dài: “đầu thì trọc lốc, áo khơng tà”. Tất nhiên thầy tu phải như thế nhưng trong cách
nói của Hồ Xuân Hương cho thấy sự luộm thuộm, lôi thôi, không tươm tất thơng qua cách
nói nhấn mạnh “trọc lốc, khơng tà”. Các vị sư này đều có đủ “nào nón tu lờ”, nào “mũ
thâm” thế nhưng đi ra đường lại khơng thích đội “ đi đâu khơng đội để ong châm”. Đó là
sự vụng trộm, là thái độ thiếu vẻ đường đường chính chính của một nhà tu hành. Thậm
chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành tiếng văng tục:
Ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương luôn thể hiện một cái tôi mạnh mẽ. Với bọn
sư khơng lo tu hành, ngịi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm
hóc, tài tình:
Chẳng phải Ngơ, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vải núp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
24



Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ,
Ngất nghểu tồ sen nọ đó mà.
(Sư hổ mang)
Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các vị sư hổ mang một cách
trớ trêu: Chẳng phải giặc, cũng khơng phải qn mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào
một mối quan hệ đối lập sống cịn xưa nay, Ngơ – ta (qn thù – đất nước), và cười khẩy
khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng hiểu là Ngô hay ta của sư: đầu trọc – thì chẳng
phải Ngơ rồi, mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc đẩy đối tượng
châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh ở giữa giống như một cái cười tinh qi.
Ví với giặc, dù khơng phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư khơng phải dân
mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác.
Là một cái tôi khao khát sống mãnh liệt, Hồ Xuân Hương ghét cay ghét đắng những
kẻ tự tách mình ra khỏi đời sống, hay nói đúng hơn, là lấy cớ đi tu để tách mình ra khỏi
đời sống, nhưng bên trong thì vẫn đầy những ham muốn đồi bại, dung tục, làm xấu mặt
tơn giáo mà mình đang phụng sự. Về đề tài sư hổ mang, tiếng thơ Hồ Xn Hương cũng
có những dịng cười cợt gay gắt, chua cay. Nàng đã tài tình dựng lại một bức tranh chốn
tu hành hỗn tạp, rối loạn, không ra thể thống gì. Món đồ dâng lên cũng kiếng thì bày la
liệt như thể món hàng ngồi chợ. Người tu hành thì khơng có dáng vẻ thanh tịnh của kẻ
chân tu, mà lại thập thò, lén lút, nấp sau lưng “sáu bảy bà”. Đặc biệt không gian hỗn độn
đầy những tạp âm. Tiếng người, tiếng vật, hỗn loạn, tạp nham… có cịn đâu là chốn tu
thành hành thanh tịnh, cịn đâu chốn cửa Phật thiêng liêng? Xuân Hương đã trực tiếp
ném sự căm giận của mình vào các thầy tu giả nhân giả nghĩa. Nhà chùa phơi bày lên cái
xấu xa đồi bại đáng lên án, đáng phê phán. Những kẻ khoác áo thầy tu chẳng qua cũng chỉ
là những kẻ lường gạt những người cả tin mê muội. Rồi cũng chính những kẻ đó tu lâu
ngày sẻ trở thành sư cụ, rồi ngày một ngày hai sẽ ngất nghểu chốn tòa sen.
Với bài Chùa Quán Sứ cho ta thấy cảnh sinh hoạt ở chùa thật lười biếng và vô
nghĩa. Sư cụ thì đáo nơi neo, chú tiểu thì bỏ kinh kệ, bỏ cả chày Kình. Giọng thơ châm

25


×