BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HỌC MÁC – LÊNIN VỀ TIỀN TỆ
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã lớp học:
Tp.HCM, ngày 20, tháng 06, năm 2020
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................1
2. Mục đích chọn đề tài............................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................2
KIẾN THỨC CƠ BẢN.....................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN
TỆ.................................................................................................3
1.1
KHÁI NIỆM.........................................................................................3
1.2
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ..............................3
1.2.1 Lịch sử phát triển........................................................................3
CHƯƠNG 2: LÀM RÕ BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ....9
2.1
BẢN CHẤT.........................................................................................9
2.2
TÍNH CHẤT CỦA TIỀN TỆ..................................................................10
2.2.1 Tính lưu thơng...........................................................................10
2.2.2 Tính dễ nhận biết......................................................................10
2.2.3 Tính có thể chia nhỏ được.........................................................10
2.2.4 Tính lâu bền..............................................................................10
2.2.5 Tính dễ vận chuyển...................................................................10
2.2.6 Tính khan hiếm..........................................................................11
2.2.7 Tính đồng nhất..........................................................................11
2.3
CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ...............................................................11
KIẾN THỨC VẬN DỤNG...............................................................16
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN
TỆ TRONG NGÀNH SẢN XUẤT HÀNG HĨA..................................16
3.1
TẠO RA CƠNG ĂN VIỆC LÀM............................................................16
3.2
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ..................................................................16
3.3
ỔN ĐỊNH GIÁ CẢ..............................................................................16
3.4
ỔN ĐỊNH LÃI SUẤT..........................................................................16
3.5
ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH...................................................17
3.6
ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI..................................................17
KẾT LUẬN...................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................19
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tiền tệ từ lâu đã được xem là một phát minh kỳ diệu của lồi
người. Ở mỗi quốc gia, tiền tệ có vai trò rất quan trọng, là trung
gian trong việc mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Sự ra đời
của tiền tệ gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thơng
hàng hóa. Gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng
hóa chính là tiền tệ. Trong sự phát triển nền kinh tế của các nước
trên thế giới. Vấn đề về tiền tệ là vấn đề rất được xã hội quan tâm
do tiền tệ ra đời làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ được dễ
dàng và thuận tiện hơn. Tiền tệ được phát triển qua các giai đoạn
khác nhau, sự thay thế nhau của các loại tiền trong từng thời kỳ. Ở
Việt Nam cũng vậy, sự thay đổi của tiền tệ, thay đổi hình thái của
tiền tệ ( kim loại, giấy, polime, thẻ,... ), lịch sử của tiền tệ cũng
chịu ảnh hưởng của lịch sử xã hội. Sự thay đổi đi lên của tiền tệ
cũng là một phần để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất
nước. Chính sự phát triển và vai trò quan trọng của tiền tệ mà
chúng em đã lựa chọn đề tài: “Lý luận của kinh tế chính trị học
Mác – Lênin về tiền tệ và liên hệ thực tiễn”. Tìm hiểu về đề tài này
không chỉ cho chúng em biết thêm những kiến thức về lịch sử xuất
hiện của tiền tệ mà còn hiểu biết sâu sắc hơn về thực tế xoay
quanh chế độ tiền tệ, những ảnh hưởng của tiền tệ với nền kinh tế
Thế Giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích chọn đề tài.
Với đề tài này, nhóm em sẽ nghiên cứu và tìm hiểu những kiến
thức cơ bản về lịch sử, bản chất, chức năng của tiền tệ, từ những
kiến thức đó sẽ đi sâu vào bàn luận và đưa ra vai trò của tiền tệ
1
trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa Việt Nam, mối quan hệ giữa
chúng như thế nào, nhằm giúp mọi người hiểu được tầm quan
trọng của tiền tệ tromg nền kinh tế xã hội hiện nay ở các quốc gia
cũng như là ở Việt Nam. Sau đó nhóm sẽ đưa ra những lĩnh vực
trong đời sống và áp dụng những lý thuyết đã bàn luận, nêu những
thành tựu có và sẽ đạt được.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Tra cứu tài liệu, tổng hợp, chắc lọc và phân tích thơng tin,
nghiên cứu và đưa ra những nhận xét đánh giá.
Vận dụng các quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái
qt mơ tả, phân tích và tổng hợp, bàn bạc nâng cao vấn đề, tư
duy suy luận logic liên quan đến ngành khoa học xã hội nhân
văn.
Các phương tiện truyền thông, thông tin đại chúng, web, mạng
xã hội,...
2
KIẾN THỨC CƠ BẢN
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN CỦA TIỀN TỆ
1.1
-
KHÁI NIỆM
Theo kinh tế học thì tiền tệ là tiền khi chỉ xét với chức năng là
phương tiện thanh toán, là đồng tiền được luật pháp quy định
để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay
-
nền kinh tế. Theo định nghĩa này thì tiền tệ là tiền lưu thơng.
Triết học Mác – Lenin, dựa theo nghiên cứu về lịch sử và bản
chất tiền tệ của C. Mác, định nghĩa : “Tiền tệ là hàng hóa đặc
biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
-
hàng hóa”.
Có sự khác biệt về cách định nghĩa về tiền tệ bởi vì những nhà
kinh tế học trước C. Mác giải thích tiền tệ dựa vào hình thái
phát triển cao nhất của giá trị hàng hóa và cho rằng tiền tệ là
sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng
hóa, trong khi C. Mác nghiên cứu tiền tệ về lịch sử phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các
hình thái giá trị hàng hóa để tìm ra nguồn gốc và bản chất của
tiền tệ.
1.2
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ
1.2.1 Lịch sử phát triển
a. Hình thái giá trị giản đơn
- Đây là hình thái phơi thai của giá trị.
- Nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hóa khi sự
trao đổi vẫn mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực
tiếp vật này để lấy vật khác.
3
-
Hình thái giá trị này tồn tại vào thời kỳ sơ khai của loài người,
khi xã hội đã bắt đầu có sự phân hóa về lao động cũng như
-
hình thành nên các hình thức xã hội đầu tiên.
Do sự gia tăng sản xuất dẫn đến dư thừa hàng hóa, là điều
kiện mở đầu cho sự trao đổi trực tiếp giữa các cá thể trong xã
-
hội.
Ở hình thái giá trị này thì tỷ lệ trao đổi là khơng cố định và bị
phụ thuộc bởi nhu cầu và mong muốn trao đổi của người thực
-
hiện trao đổi.
C. Mác chỉ rõ : “ Bí mật của mọi hình thái giá trị đều nằm ở
trong hình thái đơn giản đó”. Bản thân hình thái giá trị này
bao gồm hình thái tương đối và hình thái ngang giá. Hai hình
thái này là hai mặt liên quan, không thể tách rời nhau nhưng
cũng là hai cực đối lập của một phương trình giá trị.
Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc.
→ Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Cịn thóc là cái
được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Với
thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị
của vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị.
Trong ví dụ, giá trị của 1m vải, bản thân nó nếu đứng một mình
thì khơng thể phản ánh được hay biểu hiện được giá trị của bản
thân nó là bao nhiêu. Muốn biết được giá trị của 1m vải đó cần
đem so sánh với giá trị của 10kg thóc, do đó hình thái giá trị
của lm vải ở đây là hình thái tương đối, cịn 10kg thóc khơng
biểu hiện giá trị của bản thân nó được, trong mối quan hệ với
vải, nó chỉ biểu hiện giá trị của vải nên nó là hình thái ngang giá
của giá trị của vải. Nếu thóc muốn biểu hiện giá trị của mình,
thì phải đảo ngược phương trình lại: l0kg thóc = 1m vải.
b. Hình thái giá trị đầy đủ
4
-
Thời kỳ tiếp sau sự phân công xã hội lần thứ nhất, chăn ni
tách khỏi trồng trọt, lượng hàng hóa tăng dẫn đến sự trao đổi
thường xuyên hơn. Một hàng hóa này có thể quan hệ với
nhiều hàng hóa khác, tương ứng với giai đoạn này là hình thái
giá trị đầy đủ, thực chất chỉ là sự mở rộng của hình thái giá trị
giản đơn bởi trên thực tế vẫn chỉ là sự trao đổi trực tiếp với tỷ
-
lệ trao đổi không cố định.
Sự phức tạp trong trao đổi khi số lượng hàng hóa trở nên
nhiều và đa dạng hơn đã manh nha hình thành một hình thái
giá trị chung có khả năng làm thước đo giá trị trao đổi giữa
-
các hàng hóa. Đó là tiền thân cho sự ra đời của “tiền”.
Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc hoặc = 2 con gà hoặc = 0,1 chỉ vàng
Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Ở ví dụ trên, giá
trị của 1 mét vải được biểu hiện ở 10kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng.
Như vậy, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác
nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
c. Hình thái chung của giá trị
- Càng ngày, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội, hàng hóa được đưa ra trao đổi
thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi cũng
trở nên phức tạp hơn, khi người có mặt hàng này khơng muốn
trao đổi với mặt hàng khác. Khi đó, có thể trao đổi với mặt
hàng mong muốn. Đó là bước đầu hình thành nên khái niệm
-
tiền tệ ngày nay.
Tuy nhiên, vật ngang giá chung này chưa cố định mà có sự
khác biệt lớn giữa các vùng. Qua nghiên cứu khảo cổ, các nhà
khoa học đã nhận định rằng ở nhiều nơi, tiền có thể là những
chiếc lơng chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sị q hiếm. Ngồi
ra cịn có chè lá (với các khu vực đồng bằng không thể trồng
chè) và muối (với các khu vực núi cao không thể làm muối).
5
Không chỉ thế, ở một nơi nọ trên thế giới, người ta sử dụng
răng cá mập như là tiền. Có nơi người ta cịn dùng cọng lơng
cứng trên đi voi để làm tiền. Lông chim là loại tiền nhẹ nhất
từ trước đến nay. Chúng được sử dụng trên đảo Santa Cruz. Đá
là loại tiền nặng nhất từ trước đến giờ. Chúng được sử dụng
trên đảo Yap ở Thái Bình Dương. Loại tiền nhỏ nhất từ trước
đến nay được phát hiện ở Hy Lạp. Tiền được làm bằng kim
-
loại, nhưng có kích thước nhỏ hơn hạt táo.
Tuy nhiên, khi q trình sản xuất phát triển hơn và quy mô
trao đổi được mở rộng giữa các vùng, sự khác biệt về hàng
hóa mang hình thái chung giữa các vùng dẫn đến thêm nhiều
-
khó khăn hơn, địi hỏi bước phát triển mới của hình thái giá trị.
Ví dụ: 10kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng,… = 1m vải
Ở đây, tất cả hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hóa
đóng vai trị là vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn
định ở mọi thứ hàng hóa nào. Các địa phương khác nhau thì hàng hóa dùng
làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.
d. Hình thái tiền tệ
- Quá trình mở rộng thị trường và sản xuất hàng hóa trong tình
cảnh tồn tại rất nhiều vật ngang giá chung giữa các vùng đòi
hỏi khách quan một vật ngang giá chung thống nhất giữa các
vùng để đảm bảo trao đổi được thông suốt. Khi vật ngang giá
chung được cố định thì ở một vật độc tơn và phổ biến thì hình
-
thành hình thái tiền tệ của giá trị.
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trị tiền tệ, nhưng về sau
được cố định lại ở kim loại quý như vàng, bạc và cuối cùng là
vàng. Khơng ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền
dưới những hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà
khảo cổ đã phát hiện những đồng tiền kim loại có từ năm 600
trước Cơng ngun, vì thế ta biết chúng đã được lưu hành
6
trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những
kim loại quý như vàng và bạc để chế tiền xu. Họ in hình người
hoặc con thú trên mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó.
Trong những năm 1200, người Trung Quốc đúc những đồng
tiền bằng sắt. Những đồng tiền này giá trị chẳng là bao, cho
nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua hàng.
Do đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng
tiền sắt nặng nề nên chính phủ đã cho in những giấy biên
nhận. Người ta mang vác các biên nhận này đến ngân hàng
để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát
hành và sử dụng tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền giấy đều có
cùng kích cỡ và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la
có cùng kích cỡ và màu sắc y như tờ một trăm đô la. Ở nhiều
quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều kích cỡ và màu sắc
khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp hơn.
Việc này tạo điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thống qua
-
là có thể xác định được giá trị của chúng.
Nếu như trước kia tiền thường được liên kết với các phương
tiện trao đổi hiện thực có giá trị thí dụ như đồng tiền bằng
vàng thì tiền ngày nay thơng thường là từ vật liệu mà chính nó
khơng có giá trị (tiền giấy). Điều đó đồng nghĩa là bản thân
tiền khơng có giá trị gì cả nếu xét về vật liệu làm ra tiền
nhưng nó mang giá trị bởi giá trị của tiền hình thành từ trị giá
đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Trước kia ở châu Âu đã sử
dụng vàng và bạc làm giá trị đối ứng của tiền, đó là chế độ
bản vị vàng và bản vị bạc. Tuy nhiên chế độ bản vị này đã góp
phần gây nên cuộc Đại khủng hoảng 1929 gây ảnh hưởng lớn
đến nền kinh tế thế giới nên ngày nay việc này khơng cịn
7
thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng
-
hóa mà người ta có thể mua được.
Trên cơ sở tổng kết lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa
và sự phát triển của các hình thái tiền, C. Mác khẳng định:
tiền là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi
hàng hóa, là sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị
-
từ thấp đến cao.
Trong lịch sử, khi sản xuất chưa phát triển, việc trao đổi hàng
hóa lúc đầu chỉ mang tính đơn lẻ, ngẫu nhiên, người ta trao
đổi trực tiếp hàng hóa có giá trị sử dụng này để đổi lấy một
hàng hóa có giá trị sử dụng khác. Đây là hình thái sơ khai, C.
-
Mác gọi là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị.
Quá trình sản xuất phát triển hơn, hàng hóa được sản xuất ra
phong phú hơn, nhu cầu con người cũng đa dạng hơn, trao đổi
được mở rộng và trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa có
thể được đem trao đổi với nhiều hàng hóa khác nhau. Ở trình
-
độ này, C. Mác gọi là hình thái mở rộng của giá trị.
Lúc này, trao đổi được mở rộng song không phải khi nào cũng
dễ dàng thực hiện. Nhiều khi người ta phải đi vòng qua trao
đổi với nhiều loại hàng hóa mới có được hàng hóa mà mình
cần. Khắc phục hạn chế này, những người sản xuất quy ước
thống nhất sử dụng một loại hàng hóa nhất định làm vật
ngang giá chung. Hình thái tiền của giá trị hàng hóa xuất
-
hiện.
Q trình đó tiếp tục được thúc đẩy đến khi những người sản
xuất hàng hóa cố định yếu tố ngang giá chung đó ở vảng hoặc
bạc. Tiền vàng hoặc tiền bạc xuất hiện trở thành yếu tố ngang
giá chung cho toàn bộ thế giới hàng hóa. Khi đó, người tiêu
dùng muốn có được một loại hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu,
họ có thể sử dụng tiền để mua hàng hóa ấy.
8
Ví dụ: 10kg thóc hoặc 1m vải hoặc 2 con gà, … = 0,1 chỉ vàng (vàng trở
thành tiền tệ)
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trị tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại
ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ vàng và bạc đóng vai trị
tiền tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ,
khơng hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng
giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành hai
cực : một bên là các hàng hóa thơng thường, cịn một bên là hàng hóa (vàng)
đóng vai trị tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hóa đã có một phương diện biểu
hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại
9
CHƯƠNG 2: LÀM RÕ BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG
CỦA TIỀN TỆ
2.1
-
BẢN CHẤT
Về bản chất, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, là kết quả của
quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền
xuất hiện là yếu tố ngang giá chung cho thế giới hàng hóa.
Tiền là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa. Tiền phản ánh
lao động xã hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất và
-
trao đổi hàng hóa.
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình phát
triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước C.Mác giải thích
tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, bởi vậy đã khơng làm rõ được
bản chất của tiền tệ. Trái lại, C.Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng
-
hóa, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Vậy, tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung thống
nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
giữa những người sản xuất hàng hóa
- Quan niệm về tiền trong kinh tế học :
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được thừa nhận chung
để thanh toán cho việc giao hàng hoặc để thanh tốn nợ
nần. Nó là phương tiện trao đổi. Những chiếc răng chó ở
quần đảo Admiralty, các vỏ sứ ở một số vùng châu Phi, vàng
thế kỷ XIX đều là các ví dụ về tiền. Điều cần nói khơng phải
hàng hóa vật chất phải sử dụng mà là quy ước xã hội cho
rằng nó sẽ được thừa nhận không bàn cãi với tư cách là một
phương tiện thanh toán
Khi giá trị của một đơn vị hàng hóa được đại biểu bằng một
số tiền nhất định thì số tiền đó được gọi là giá cả hàng hóa.
Giá cả hàng hóa lên xuống xoay quanh giá trị của nó. C.
10
Mác cho rằng, giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố như: giá trị hàng hóa, mức độ khan hiếm, quan hệ
giữa số lượng người mua và số lượng người bán, tình trạng
đầu cơ, giá trị của đồng tiền... Để kiếm soát sự ổn định của
giá cả, người ta phải sử dụng nhiều loại công cụ kinh tế
khác nhau, trong đó có việc điều tiết lượng tiền tương ứng.
2.2
TÍNH CHẤT CỦA TIỀN TỆ
2.2.1 Tính lưu thơng
-
Đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ, người dân phải
sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ
khơng được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân
hàng trung ương phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó
khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta khơng chấp nhận
nó như là một phương tiện trao đổi.
2. Tính dễ nhận biết
-
Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người
ta có thể nhận ra nó trong lưu thơng một cách dễ dàng. Chính
vì thế những tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành
được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy chất lượng
cao nào khác.
2.2.3 Tính có thể chia nhỏ được
-
Tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho người
bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi
thanh tốn bằng một loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được
nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc phục
được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu một
người mang một con bò đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về số
11
gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong khi lại khơng có được
những thứ khác cũng cần thiết khơng kém.
2.2.4 Tính lâu bền
-
Tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ
giá trị cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng
khơng thể dùng để làm tiền, chính vì vậy những tờ giấy bạc
được in trên chất liệu có chất lượng cao cịn tiền xu thì được
làm bằng kim loại bền chắc.
2.2.5 Tính dễ vận chuyển
-
Để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang theo,
tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy
bạc và những đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa phải
chứ tiền giấy khơng được in khổ rộng ví dụ như khổ A4.
2.2.6 Tính khan hiếm
-
Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì
nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ khơng
cịn ý nghĩa trong việc cất trữ giá trị và khơng được chấp nhận
trong lưu thơng nữa. Vì thế trong lịch sử những kim loại hiếm
như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân hàng
trung ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền
xu.
2.2.7 Tính đồng nhất
-
Tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau
không phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu
5.000 VND được làm ra cách đây 2 năm cũng có giá trị như
một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thơng. Có như
vậy tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính tốn một
cách dễ dàng và thuận tiện trong trao đổi.
12
2.3 CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
Theo C. Mác, tiền có năm chức năng sau:
-
Thước đo giá trị:
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền được dùng để
biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả hàng hóa khác nhau.
Để đo lường giá trị của các hàng hóa, tiền cũng phải có giá
trị. Vì vậy để thực hiện chức năng thước đo giá trị người ta
ngầm hiểu đó là tiền vàng. Sở dĩ như vậy là giữa giá trị của
vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã phản ánh
lượng lao động xã hội hao phí nhất định.
Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân
tiền tệ cũng phải được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định
làm tiêu chuẩn đo lường giá cả của hàng hóa. Đơn vị đó là
một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở
mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Chẳng
hạn ở Mỹ, tiêu chuẩn giá cả của 1 đồng đơla có hàm lượng
vàng là 0,736662gr, ở Pháp 1 đồng frăng hàm lượng vàng là
0,160000gr, ở Anh 1 đồng Fun St’zelinh có hàm lượng vàng
là 2,13281 gr.. .Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn
giá cả khơng giống với tác dụng của nó khi dùng; làm thước
đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các
hàng hóa khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản
thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hóa tiền tệ
thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng)
thay đổi khơng ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn
giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào.
Ví dụ: 1 đơla vẫn bằng 10 xen.
13
Ví dụ: Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị
của tiền tệ. Một đơi giày bảo hộ có giá trị bằng 5 xu ( tiền xu ngày xưa
được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1 đồng (tiền đồng được
đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị
hàng hố tiền tệ (vàng) thay đổi khơng ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu
chuẩn giá cả của nó.
-
Phương tiện lưu thông:
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền được
dùng làm môi giới cho quá trinh trao đổi hàng hóa. Để phục
vụ lưu thơng hàng hóa, ban đầu nhà nước đúc vàng thành
những đơn vị tiền tệ nhất định, sau đó là đúc tiền bằng kim
loại. Dần dần, xã hội nhận thấy, để thực hiện chức năng
phương tiện lưu thông, không nhất thiết phải dùng tiền
vàng, mà chỉ cần tiền ký hiệu giá trị. Từ đó tiền giấy ra đời
và sau này là các loại tiền ký hiệu giá trị khác nhau như tiền
kế toán, tiền séc, tiền điện tử, gần đây với sự phát triển của
thương mại điện tử, các loại tiền ảo xuất hiện (bitcoin) và đã
có quốc gia chấp nhận bitcoin là phương tiện thanh tốn.
Trong tương lai, có thể nhân loại sẽ phát hiện ra những loại
tiền khác nhau nữa để giúp cho việc thanh tốn trong lưu
thơng trở nên thuận lợi. Tiền giấy ra đời giúp trao đổi hàng
hóa được tiến hành dễ dàng, thuận lợi và ít tốn kém hơn
tiền vàng, tiền kim loại. Tuy nhiên, tiền giấy chỉ là ký hiệu
giá trị, bản thân chúng khơng có giá trị thực nên nhà nước
phải in và phát hành số lượng tiền giấy theo yêu cầu của
quy luật lưu thông tiền tệ, không thể phát hành tùy tiện.
Nếu in và phát hành quá nhiều tiền giấy sẽ làm cho giá trị
của đồng tiền giảm xuống, kéo theo lạm phát xuất hiện.
14
Cơng thức lưu thơng hàng hóa: H – T – H. Trong đó H là hàng
hóa, T là tiền mặt. Khi tiền làm mơi giới trong trao đổi hàng
hố đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời
nhau cả về thời gian và khơng gian. Với việc khơng nhất trí
giữa mua và bán vơ tình gây ta những nguy cơ của khủng
hoảng kinh tế.
Ví dụ: Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm
bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng
tiền để tiện lưu trữ và đếm. Những đồng tiền bị đục lỗ đó
vẫn có giá trị lưu thơng trong xã hội ngày đó. Như vậy, giá
trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có
tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thơng chỉ đóng
vai trị trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng
nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thơng,
tiền khơng nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình
đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim
loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng
thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến
sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy khơng có giá trị
mà chỉ là ký hiệu của giá trị, chính vì vậy việc in tiền giấy
-
phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
Phương tiện cất trữ:
Tiền là đại diện cho giá trị, đại diện cho của cải nên khi tiền
xuất hiện, thay vì cất trữ hàng hóa, người dân có thể cất trữ
bằng tiền. Lúc này tiền được rút ra khỏi lưu thơng, đi vào
cất trữ dưới hình thái vàng, bạc và sẵn sàng tham gia lưu
thông khi cần thiết.
Tại sao tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã
hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền
15
vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thơng thích ứng một
cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng,
lượng hàng hố nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thơng. Ngược lại,
nếu sản xuất giảm lượng hàng hố lại ít thì một phần tiền rút khỏi lưu thơng
đi vào cất trữ.
Ví dụ: Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ,
trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích.
Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng.
Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền
vàng, bạc.
- Phương tiện thanh toán:
Khi thực hiện, chức năng thanh toán, tiền được dùng để trả
nợ, trả tiền mua chịu hàng hóa... Chức năng phương tiện
thanh tốn của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương
mại, tức mua bán thông qua chế độ ứng dụng, thanh tốn
khơng dùng tiền mặt mà chỉ dùng tiền trên sổ sách kế toán,
hoặc tiền trong tài khoản, tiền ngân hàng, tiền điện tử...
Khi sản xuất và trao đổi hàng hố phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu
nảy sinh việc mua bán chịu. Trong việc mua bán chịu người mua trở thành
con nợ, ngươi bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát
triển rộng rãi. Và đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó khơng thanh
tốn. Điều này sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả
năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
Ví dụ: Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành
con nợ của ngân hàng nếu tiêu xài không đúng cách.
- Tiền tệ thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngồi biên giới quốc gia,
tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng
làm phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước
với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá
16
trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được cơng nhận
là phương tiện thanh tốn quốc tế.
Ví dụ: Hiện nay ngành du lịch phát triển, mọi người dễ dàng du lịch nước
ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý
giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện
tại 1usd = 23.000 VNĐ...
17
KIẾN THỨC VẬN DỤNG
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI CÁC CHỨC
NĂNG CỦA TIỀN TỆ TRONG NGÀNH SẢN XUẤT
HÀNG HÓA
3.1
TẠO RA CƠNG ĂN VIỆC LÀM
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hiệu
quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ
lạm phát tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho ngân hàng Trung ương trách nhiệm là phải
vận dụng các cơng cụ của mình góp phần tăng cường mở rộng đầu tư sản xuất kinh
doanh đồng thời phải tham gia tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định khống
chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên.
3.2
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Sự
tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: Lãi suất và số cầu tổng quát. Khối tiền tệ tăng
hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu tổng quát, từ đó tác động đến sự
gia tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác động lên tổng sản lượng quốc gia, tức là tác
động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vậy chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục
tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp.
3.3
ỔN ĐỊNH GIÁ CẢ
Ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Ổn định giá
cả giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có
hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi
trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội,
thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình
cũng như xã hội.
3.4
ỔN ĐỊNH LÃI SUẤT
18
Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biến động của lãi suất làm cho nền
kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là
thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh tốn, cho nền kinh tế quốc dân
thơng qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các
nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp
với sự vận động của cơ chế thị trường.
3.5
ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Việc ổn định thị trường tài chính là mục tiêu rất quan trọng trong cơng tác điều hành
nền kinh tế của mỗi chính phủ, ổn định thị trường tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự
ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất có thể gây nên sự mất ổn định cho các tổ
chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất là một
vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó khăn
về tài chính như chúng ta đã biết.
3.6
ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
Thị trường ngoại hối là thị trường mà ở đó tiền tệ của các nước khác nhau được đem ra
trao đổi với nhau, chính tại thị trường này tỷ giá hối đối được xác định. Việc tỷ giá ổn
định khơng chỉ có tác động tích cực do một phần vốn đầu tư USD trước đây có thể
chuyển vào thị trường chứng khốn để “đánh sóng” mà nó cịn có ý nghĩa rất lớn đối
với việc củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước ngồi. Chính sách tỷ giá ln là một yếu
tố vĩ mơ quan trọng để nhà đầu tư nước ngồi xem xét khi họ có ý định đầu tư vào Việt
Nam. Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sức mua của đồng tiền, từ đó tác động
ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh
tế đó.
19
KẾT LUẬN
Như vậy, sự ra đời của tiền tệ gắn liền với sự phát triển của sản xuất
và lưu thông hàng hóa. Gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế hàng hóa chính là tiền tệ. Trong sự phát triển nền kinh tế của
các nước trên thế giới. Tiền tệ là vấn đề rất được xã hội quan tâm do
tiền tệ ra đời làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ được dễ dàng
và thuận tiện hơn. Tiền tệ được phát triển qua các giai đoạn khác
nhau, sự thay thế nhau của các loại tiền trong từng thời kỳ
Tiền là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa. Tiền phản ánh lao
động xã hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi
hàng hóa. Và có những tính chất đặc trưng riêng biệt áp dụng vào
thực tiễn sản xuất và đời sống.
Từ những phân tích ở kiến thức vận dụng ta đúc kết được là 5 chức
năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển
của sản xuất và lưu thơng hàng hố. Là cầu nối lớn để tạo ra công ăn
việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả thị trường,...
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trên Internet:
1. GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ (TÀI LIỆU DÙNG TẬP HUẤN
GIẢNG DẠY NĂM 2019).
2. Ths. Đặng Thị Việt Đức – Ths. Phan Anh Tuấn; Nguồn gốc
của tiền tệ; (ngày 27/6/2020)
3. Tiền tệ; />%E1%BB%87 (ngày 27/6/2020)
4. Nguồn gốc, bản chất và chức
năng
của
tiền
tệ;
(ngày 28/6/2020).
5. -10544/ (ngày 28/6/2020)
6. (ngày 29/6/2020).
21