MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................................2
1. Khái quát về Tin lành trên thế giới..................................................................................2
1.1. Về tên gọi của Tin lành.................................................................................................2
1.2. Hoàn cảnh, điều kiện ra đời của Tin lành.....................................................................2
1.3. Quá trình truyền bá, phát triển của Tin lành.................................................................3
1.4. Đặc điểm về giáo lý, luật lệ, lễ nghi và cơ cấu tổ chức................................................4
1.5. Một số nhận xét về Tin lành..........................................................................................6
2. Tin lành ở Vùng núi phía Bắc và các vấn đề liên quan...................................................7
2.1. Lược sử về Đạo Tin lành ở Việt Nam...........................................................................7
2.2. Một sổ đặc điểm chủ yếu của Tin lành ở Vùng núi phía Bắc và các vấn đề liên quan.8
2.3. Quá trình thâm nhập Đạo Tin lành ở Vùng núi phía Bắc.............................................9
2.4. Nguyên nhân một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Miền núi phía Bắc theo Tin
lành.....................................................................................................................................12
2.5. Tác động của Tin lành ở khu vực Miền núi phía Bắc.................................................15
3. Nâng cao vai trị của quản lý Nhà nước đối với Tin lành ở Vùng núi phía Bắc trong
thời kỳ hội nhập quốc tế....................................................................................................17
3.1. Dự báo tình hình và xu hướng phát triển của Tin lành...............................................17
3.2. Các giải pháp nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với Tin lành ở Vùng núi phía
Bắc.....................................................................................................................................18
3.2.1. Giải pháp chung.....................................................................................................18
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể.........................................................................................18
KẾT LUẬN.......................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................21
LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới, mở cửa hội nhập
quốc tế, Tin lành phát triển nhanh, thậm chí đột biến trong đồng bào dân tộc thiểu
số ở vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên. Những năm gần đây, Tin lành trở thành vấn
đề tơn giáo rất lớn, liên quan tới các chính sách của Đảng và Nhà nước ta, thu hút
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các cấp, các ngành có liên quan.
Bên cạnh đó, do nhiều ngun nhân, thơng tin về Tin lành ở Việt Nam, trong
đó có vùng núi phía Bắc rất phiến diện, sai lệch khiến dư luận hiểu chưa đúng về
tình hình tơn giáo, Tin lành ở Việt Nam. Điều đó được các thế lực chính trị ở một
số nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ lợi dụng thực hiện chiến lược “diễn biến hịa
bình”, chống phá Việt Nam. Xử lý tốt mối quan hệ với Tin lành ở vùng núi phía
Bắc có tác động tới hợp tác quốc tế của Việt Nam, trong đó có quan hệ với Mỹ, đặc
biệt, trong bối cảnh hai nước đã nâng cấp quân hê lên tầm “đối tác toàn diện”
(7/2013), Việt Nam được bầu là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc
(12/2013) và bảo vệ thành công “Báo cáo Kiểm điểm định kỳ, UPR - Chu kỳ 2”
(02/2014). Xuất phát từ tình hình Tin lành ở khu vực miền núi phía Bắc, chúng ta
cần thừa nhận một bộ phận quần chúng đã hình thành tình cảm, nhu cầu sinh hoạt
tôn giáo thuần túy và hợp lý và cần tôn trọng và căn cứ thực tiễn công tác quản lý
nhà nước về tôn giáo, Tin lành ở khu vực miền núi phía Bắc, nổi bật là hoạt động
của Tin lành bước đầu đã được bình thường hóa và ổn định, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt của đồng bào theo đạo và yêu cầu quản lý của chính quyền, đồng thời, hạn
chế được sự lôi kéo của các thế lực xấu từ bên ngồi. Do đó, tơi chọn chủ đề
“Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với Tin lành ở Vùng núi phía Bắc
trong thời kỳ hội nhập quốc tế” để làm bài thu hoạch cho môn học Tơn giáo và
Tín ngưỡng. Do kiến thức và tầm hiểu biết cịn hạn chế nên bài viết của tơi khơng
tránh khỏi sai sót rất mong được các giảng viên góp ý kiến cho bài thu hoạch được
hồn thiện.
Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2019
1
NỘI DUNG
1. Khái quát về Tin lành trên thế giới
1.1. Về tên gọi của Tin lành
Tin lành được tách ra từ Công giáo vào thế kỷ XI, cụ thể là năm 1054, Ki-tô
giáo diễn ra cuộc đại phân liệt, một bên theo văn hóa Hy Lạp, một bên theo văn
hóa La tinh. Cuộc đại phân liệt (Đơng-Tây) đã hình thành tơn giáo mới phương
Đơng là Chính thống giáo (Orthodoxism, cịn gọi là Ki-tô giáo phương Đông.
Thế kỷ thứ XVI, tại Châu Âu đã diễn ra cuộc đại phân liệt lần thứ hai trong
Cơng giáo, dẫn tới việc hình thành một tơn giáo mới, đó là Tin lành. Giáo hội Cơng
giáo gọi là đạo chống đối - Protestanism. Cuộc đại phân liệt lần thứ hai thực chất là
cuộc cải cách tôn giáo, cho nên trong nhiều trường hợp người ta còn gọi Tin lành là
“đạo Cải cách” (Reformism).
1.2. Hoàn cảnh, điều kiện ra đời của Tin lành
Tin lành ra đời ở Châu Âu vào thế kỷ XVI có nguồn gốc chính trị, xã hội sâu
xa, gắn với sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu mới về chính trị, xã
hội, tư tưởng tơn giáo. Ở thời kỳ này, Công giáo trở thành chỗ dựa tư tưởng cho
chế độ phong kiến và Giáo hội Cơng giáo bị chính trị hóa trở thành thế lực phong
kiến. Giai cấp tư sản đã thực hiện cải cách Công giáo nhằm thu hẹp dần thế lực và
ảnh hưởng của giai cấp phong kiến và là một trong những nguyên nhân chủ yếu
dẫn tới sự ra đời của Tin lành.
Tin lành ra đời xét về mặt văn hóa, tư tưởng gắn liền và được thúc đẩy bằng
phong trào Văn hóa Phục hưng– Chủ nghĩa Nhân văn, Chủ nghĩa Dân tộc ở châu
Âu thế kỷ XV, XVI. Với việc đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền, đề
cao tự do cá nhân, dân chủ và hạnh phúc của con người, Văn hóa Phục hưng đã tạo
ra cách nhìn mới về văn hóa, tư tưởng, về con người và tôn giáo, làm cơ sở cho
việc nảy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo. Tin lành ra đời thể hiện
sự khủng hoảng nghiêm trọng về vai trò ảnh hưởng và giảm sút uy tín của Giáo hội
Cơng giáo. Bên cạnh đó là sự khủng hoảng và bế tắc của nền thần học Kinh viện
(hình thành từ thế kỷ XII) – cơ sở quyền lực của Giáo hội Công giáo. Tất cả những
điều đó địi hỏi phải có một cuộc cải cách về tôn giáo.
2
Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là đời
sống sa hoa hưởng lạc của hàng giáo phẩm trong giáo triều Roma.
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên tại Đức vào tháng 11/1517 và
nhanh chóng lan sang các nước khác ở Châu Âu như Pháp, Thụy Sỹ, Anh, Xcôtlen, Ai-rơ-len, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy… đển đến cuối thế kỷ XVI hình
thành một tơn giáo mới tách ra khỏi Cơng giáo, đó chính là Tin lành.
1.3. Q trình truyền bá, phát triển của Tin lành
Thế kỷ XVI, giai cấp tư sản ở Châu Âu bước lên vũ đài chính trị, tự khẳng
định mình bằng hàng loạt các cuộc cách mạng tư sản (ở Anh-1640, Pháp-1789…).
Đặc biệt, sau đó giai cấp tư sản Châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược
nhằm mở rộng thị trường và khai thác tài ngun cho q trình cơng nghiệp hóa và
phát triển kinh tế ở Châu Âu. Tin lành đã khai thác triệt để các hồn cảnh đó để mở
rộng ảnh hưởng. Cuối thế kỷ XVII, mới có 70 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX, Tin lành đã có trên 200 triệu tín đồ. Thế kỷ XX với hai cuộc chiến
tranh thế giới (1914-1918 và 1939-1945) và tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa mạnh mẽ đã tạo môi trường thuận lợi cho Tin lành phát triển và mở rộng. Ra
đời ở Châu Âu, sau đó truyền qua Bắc Mỹ và tại đây với môi trường tự do, Tin
lành phát triển rực rỡ, hình thành nên nhiều tổ chức, hệ phái. Rồi từ Bắc Mỹ, bằng
nhiều cách, trong đó dựa vào địa vị, ảnh hưởng của Mỹ, Tin lành trở lại Châu Âu
và nhanh chóng vươn ra tồn thế giới. Đó là con đường phát triển của Tin lành và
lời lý giải cho việc Mỹ là trung tâm (điều hành) Tin lành thế giới.
Tin lành là một tôn giáo rất năng động, ln ln đổi mới và thích nghi, đặc
biệt là chủ trương “nhập thế”, lấy hoạt động xã hội làm phương tiện, điều kiện để
thu hút tín đồ. Từ rất sớm, Tin lành đã hướng các hoạt động truyền giáo tới các
vùng dân tộc thiểu số, ở khắp các châu lục như Ấ, Phi và Mỹ La tinh… và những
vùng xa xôi cùa châu Âu.
Sau gần 5 thế kỷ kể từ khi ra đời, với tốc độ phát triển nhanh, đến nay, Tin
lành đã trở thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba trên thế giới sau Cơng giáo và Hồi
giáo với hơn 550 triệu tín đồ của gần 290 hệ phái có mặt ở 135 nước trên khắp các
3
châu lục, trong đó tập trung chủ yếu tại các nước công nghiệp tiên tiến ở Tây Âu,
Bắc Âu và Bắc Mỹ.
1.4. Đặc điểm về giáo lý, luật lệ, lễ nghi và cơ cấu tổ chức
a. Đặc điểm về Kinh thánh và giáo lý
Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái với những điểm khác nhau về giáo thuyết,
nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội giữa các hệ phái nhưng nhìn chung
đều thống nhất ở những nội dung, ngun tắc chính. Có thể khái qt về giáo lý,
luật lệ, lễ nghị, tổ chức của Tin lành để so sánh với Công giáo như sau:
Về Kinh Thánh, mặc dù cả Công giáo và Tin lành đều lấy Kinh Thánh (gồm
Cựu ước và Tân ước ) làm nền tảng giáo lý (Riêng Cựu ước, Tin lành chỉ công
nhận 36/46 quyển), nhưng Tin lành đề cao Kinh Thánh một cách tuyệt đối, coi đó
là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và hành đạo. Tuy vậy, Tin lành khơng
coi đó là cuốn sách mà chỉ có một số ít người (ý nói các giáo sỹ) được quyền kê
cứu giảng giải như Cơng giáo mà tất cả tín đồ và chức sắc của Tin lành đều sử
dụng Kinh Thánh, nói và làm theo Kinh Thánh và do đó, Kinh Thánh giữ vai trò
như một giáo sỹ trên cả hai phương diện là mục vụ và truyền giáo.
Giáo lý của Công giáo và Tin lành về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn giáo
đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết “Thiên Chúa ba ngôi” (Cha, Con và Thánh
thần), tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên Chúa tạo ra và điều khiển, tin con người
do Thiên Chúa tạo dựng theo cách riêng và có phần hồn, phần xác và bị xa ngã, tội
lỗi, tin có ngơi hai Thiên Chúa là Chúa Giê-su xuống thế làm người chịu chết để
chuộc tội cho lồi người, tin có thiên thần, ma quỷ, Thiên đàng và địa ngục, ngày
tận thế, phục sinh và phán xét cuối cùng….
Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền thống của Cơng
giáo được Tin lành cải sửa và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định giữa hai tơn
giáo. Tin lành tin có sự hoài thai mầu nhiệm Chúa Giê-su của bà Maria nhưng cho
rằng chỉ là mẹ trần thế của Chúa Giê-su và chỉ đồng trinh cho đến khi sinh ra Chúa.
Do đó, Tin lành chỉ kính trọng chứ khơng tơn sùng, thờ lạy bà Maria. Tin lành tin
có Thiên sứ và các thánh Tông đồ, các thánh tử đạo và các thánh khác nhưng cũng
chỉ kính trọng, noi gương chứ khơng tôn sùng và thờ lạy họ như Công giáo. Đặc
4
biệt, Tin lành khơng thờ lạy các hình tượng, tranh ảnh. Mặc dù, Tin lành tin có
Thiên đường và địa ngục nhưng khơng q coi trọng tới mức dùng nó làm công cụ
khuyến, thưởng, răn đe, trừng phạt đối với con người.
b. Đặc điểm về luật lệ, lễ nghi
Tin lành là một tơn giáo đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ
đến bởi đức tin chứ khơng phải vì những “hình thức tại ngoại” tức các luật lệ lễ
nghi. Do đó, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của Tin lành rất đơn giản, dễ thực
hiện, không cầu kỳ, rườm rà như Công giáo.
Trong bảy phép Bí tích của Cơng giáo (Rửa tội, Thêm sức, Giải tội, Thánh
thế, Sức đấu, Truyền chức và Hôn phối”, Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép
Rửa tội (gọi là Bắp-tem), phép Thánh thể (gọi là Tiệc Thánh) và phép Hơn phối..
Một số phái Tin lành có thêm lễ Dâng con trẻ cho Thiên Chúa. Tin lành thực hiện
nghi lễ Thánh thể rất đơn giản so với Công giáo và được tổ chức vào Chủ nhật đầu
tiên của mỗi tháng. Tại đây, tất cả các tín đồ và giáo sỹ cùng uống “Rượu thánh”
và ăn “Bánh thánh”.
Nhà thờ (Thánh đường) của Tin lành có kiến trúc theo lối hiện đại, đơn giản
không tốn kém, đồ sộ và bài trí cầu kỳ, cơng phu như nhà thờ Cơng giáo. Trong
nhà thờ Tin lành khơng có tượng ảnh và hầu hết chỉ có cây thập giá biểu tượng
Chúa Giê-su chịu nạn. Trong nhiều trường hợp, Tin lành chỉ sử dụng phịng họp,
hội trường, thậm chí, đơi khi là ngơi nhà tạm của tín đồ để làm nơi nhóm lễ, chia sẻ
lời Chúa trong Kinh Thánh.
c. Giáo phẩm và tổ chức Giáo hội
Về giáo phẩm (chức sắc), Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi
theo Kinh Thánh), dưới mục sư là truyền đạo (còn gọi là giảng sư). Hiện nay, Tổng
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Bắc) và một số tổ chức Tin lành đều thống nhất gọi truyền đạo có nhiệm sở
là mục sư nhiệm chức. Các chức sắc của Tin lành chủ yếu là nam (nhưng một số hệ
phái tuyển chọn cả phụ nữ) và nhìn chung họ khơng giữ chế độ độc thân và khơng
có thần quyền, tức là khơng có quyền thay mặt Thiên Chúa ban phúc, tha tội cho
tín đồ. Quan hệ giữa chức sắc và tín đồ bình đẳng, cởi mở. Chức sắc ở một số hệ
5
phái Tin lành được bầu ra theo thời gian/nhiệm kỳ và hoạt động dưới sự kiểm sốt
của tín đồ. Hàng năm, tín đồ bỏ phiếu tín nhiệm mục sư quản nhiệm Hội thánh cơ
sở.
Về tổ chức, Tin lành xây dựng các giáo hội riêng rẻ, độc lập với những
hình thức khác nhau theo từng hệ phái, hoặc theo từng quốc gia nhưng giao quyền
tự tập, tự trị, tự dưỡng cho các Hội thánh cơ sở.
1.5. Một số nhận xét về Tin lành
- Tin lành là một tơn giáo có đường lối và phong cách hoạt động rất năng
động, luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội,
nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, qua đó mở rộng ảnh hưởng, tạo ra uy tín và khả
năng tiếp cận, chung sống với các chế độ và hồn cảnh chính trị-xã hội khác nhau,
kể cả khi bị cấm đốn.
- Với những cải cách đó, Tin lành trở thành một tơn giáo có màu sắc mới
mẻ hấp dẫn với trước hết là các tầng lớp tư sản trí thức, cơng chức, thị dân trong xã
hội cơng nghiệp và sau đó là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa - đó là
những nơi chưa có tơn giáo chính thống hoặc tơn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy
thối, mất dần uy tín, nơi đời sống dân sinh, dân trí cịn thấp. Truyền đạo đến
những nơi đó, Tin lành vừa phát huy được lợi thế vốn có “đơn giản về luật lệ, lễ
nghi, cách thức hành đạo” lại vừa nghiên cứu rất kỹ đặc điểm lịch sử, văn hóa, tâm
lý, lối sống, phong tục tập quán của từng dân tộc, chủ động “địa phương hố”,
“dân tộc hóa” để dễ dàng hịa nhập.
- Ra đời, phát triển song hành với giai cấp tư sản, Tin lành không tránh
khỏi mối quan hệ với giai cấp tư sản và được họ sử dụng làm vũ khí tư tưởng trong
các cuộc cách mạng tư sản lật đổ giai cấp phong kiến và thu hẹp ảnh hưởng của
Giáo hội Cơng giáo và việc tìm kiếm thuộc địa. Ngược lại, Tin lành nhờ dựa vào
giai cấp tư sản, lợi dụng các cuộc chiến tranh xâm lược mà giai cấp tư sản tiến
hành để củng cố phát triển lực lượng. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng
tổ chức hệ phái Tin lành, mối quan hệ trên có sự thay đổi, tùy vào thái độ của
những người đứng đầu, sự thao túng của các thế lực xấu ở mỗi nước và khu vực.
Sau này, Tin lành chịu ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên nhiều
6
hệ phái Tin lành có những đóng góp quan trọng cho hịa bình, dân sinh, dân chủ,
cho ổn định và phát triển của nhân loại.
2. Tin lành ở Vùng núi phía Bắc và các vấn đề liên quan
2.1. Lược sử về Đạo Tin lành ở Việt Nam
Tin lành có mặt ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX do tổ chức “Hội Liên hiệp Cơ
đốc và Truyền giáo” (The Christian and Missionary Alliance of America-CMA)
của Tin lành Bắc Mỹ truyền vào. Năm 1911, Tin lành cắm chân được một cơ sở
đầu tiên ở Đà Nẵng. Nhìn chung, Tin lành phát triển chậm ở Việt Nam trong thời
gian này.
Đến năm 1945, Tin lành ở Việt Nam có khoảng 5.000 tín đồ.
Đến năm 1954, sau hơn bốn mươi năm truyền giáo (từ 1911 đến 1954), Tin
lành ở Việt Nam mới có khoảng 50.000 tín đồ, hơn 100 mục sư, truyền đạo trong
một tổ chức chung: Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (Thành lập năm
1927).
Sau năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, Tin lành ở miền Bắc và miền
Nam có sự khác nhau. Ở miền Bắc, đa số tín đồ, giáo sỹ di cư vào Nam và chỉ cịn
lại vài ngàn tín đồ với gần 20 mục sư, truyền đạo. Năm 1955, lập ra tổ chức giáo
hội riêng gọi là Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) - thường gọi là
Hội thánh Tin lành miền Bắc. Cho đến năm 1975, số lượng tín đồ, giáo sĩ Tin lành
ở miền Bắc hầu như không thay đổi. Ở miền Nam, những năm 1954-1975, khai
thác môi trường chiến tranh lại được CMA và các tổ chức Tin lành quốc tế hỗ trợ,
nâng đỡ về vật chất, tinh thần. Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Nam) - thường gọi là Hội thánh Tin lành miền Nam- phát triển nhanh về số lượng
tín đồ, giáo sĩ, cũng như quy mô tổ chức giáo hội, phạm vi hoạt động. Đến năm
1975, ở miền Nam có khoảng 200 ngàn tín đồ của hơn 10 hệ phái với hơn 500 mục
sư, truyền đạo.
Khoảng hơn 10 năm gần đây, Tin lành Việt Nam phát triển khá nhanh ở
thành thị
7
và vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc, một ít ở Tây
Nam Bộ. Ở Tây Bắc, Tin lành phát triển chủ yếu trong dân tộc H’Mông dưới tên
gọi Vàng Chứ, trong dân tộc Dao, với tên gọi Thìn Hùng).
Mặt khác, xét theo khía cạnh địa-chính trị, địa-văn hóa, có hai khu vực
người dân tộc thiểu số theo Tin lành đông nhất là Tây Nguyên và dun hải miền
Trung, nam Trường Sơn có khoảng 400 nghìn tín đồ, Tây Bắc có gần 100 nghìn
người H’Mơng, người Dao. Đây là vùng địa-chính trị trọng yếu của quốc gia và là
mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong về lâu dài.
Đến nay, ở Việt Nam có khoảng 1.200.000 người theo Tin lành, với hơn 80
tổ chức, hệ phái hoạt động, trong đó có 10 tổ chức/hội thánh Tin lành được Nhà
nước ta công nhận (09 tổ chức có tư cách pháp nhân và 01 tổ chức có giấy đăng ký
hoạt động) và hơn 70 tổ chức, hệ phái Tin lành chưa được công nhận tồn tại độc
lập. Gần đây, ở miền Nam những nhóm Tin lành nhỏ lẻ có xu hướng hợp lại với
nhau dưới hình thức liên hiệp, hoặc sáp nhập với một số tổ chức Tin lành lớn hơn
để tạo danh nghĩa là tổ chức lớn.
2.2. Một sổ đặc điểm chủ yếu của Tin lành ở Vùng núi phía Bắc và các vấn đề
liên quan
a. Đôi nét về địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa:
Khu vực miền núi phía Bắc gồm các tỉnh ở Tây Bắc Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La, Hịa Bình, Lào Cai, Yên Bái, và các tỉnh Việt Bắc cũ như: Cao Bằng, Bắc
Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Ngun, và vùng núi phía Tây hai
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Khu vực này có tổng diện tích hơn 90.000 km 2,địa hình
núi non hiểm trở, 2/3 là núi cao, với 2.500 km đường biên giới giáp hai nước Trung
Quốc và Lào, giữ vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng, ảnh hưởng tới sự ổn
định và phát triển của cả nước. Tổng dân số khoảng 8 triệu người, hơn 70% là
đồng bào thuộc 30 dân tộc thiểu số, đa số là các dân tộc Tày (1.477.514 người),
Thái
(1.388.725
người),
Mường
(1.137.515
người),
H’Mông
(875.604
người),Nùng (856.442 người), Dao (620.538 người)
Có tiềm năng về phát triển kinh tế, nhưng cho tới nay, đây vẫn là khu vực
nghèo, khó khăn nhất trong cả nước. Những năm gần đây, với sự quan tâm đầu tư
8
của Nhà nước qua các Chương trình 135, 134, 120, 186… mà khu vực này đã đạt
được một số thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 10%, sản xuất
nông-lâm nghiệp đã chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, sản xuất cơng
nghiệp tăng khá ở mức 16%, thương mại và dịch vụ cũng có những chuyển biến
tốt. Công tác y tế, giáo dục, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu
số được cải thiện. An ninh, quốc phịng được duy trì ổn định, hệ thống chính trị
từng bước được củng cố và hồn thiện.
b. Về đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo:
Đồng bào các dân tộc thiểu số có đời sống tín ngưỡng đa dạng, phần đơng
theo tín ngưỡng đa thần và rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, thờ ma. Tuy nhiên, đối
với một số dân tộc, tín ngưỡng truyền thống có nơi cịn mang nét mê tín dị đoan và
tốn kém.
Thời kỳ sau này, các tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật giáo cũng đã
thâm nhập vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây; hiện có khoảng 30.000
người theo Phật giáo, 340.000 người theo Công giáo và khoảng 100.000 người
chịu ảnh hưởng của Tin lành. Đặc biệt trong khu vực có đồng bào người H’Mơng
cư trú với khoảng 800 nghìn người, chiếm hơn 97% số người H’Mơng cả nước, đại
đa sống ở vùng núi cao, điều kiện canh tác khơng thuận lợi, đời sống gặp nhiều
khó khăn. Người H’Mơng có phong tục, tập qn và tín ngưỡng khá độc đáo, với
tín ngưỡng đa thần, hình thức đám cưới, đám ma, cúng ma phong phú nhưng cũng
rất rườm rà và tốn kém.
2.3. Quá trình thâm nhập Đạo Tin lành ở Vùng núi phía Bắc
Trên thực tế Cơng giáo và Tin lành được truyền lên khu vực này từ khá lâu.
Từ năm 1930, CMA, Hội thánh Tin lành Việt Nam và một số tổ chức Tin lành khác
đã tìm cách truyền bá Tin lành lên các dân tộc thiểu số ở đây, nhưng kết quả rất hạn
chế. Họ chỉ thiết lập được một vài nhóm nhỏ rải rác trong người Thái ở Sơn La,
người H’Mông ở Lào
Cai, người Mường ở Hịa Bình, nhưng đến giai đoạn 1954-1975 tất cả những
nhóm này đều tự tan rã, đến nay khơng cịn dấu vết.
9
Chỉ có Hội thánh Tin lành Pháp lập được một nhóm khoảng vài trăm người
Dao theo Tin lành tại huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn và sinh hoạt tôn giáo ổn định
từ trướcnăm 1945 đến nay. Năm 1962, nhóm này chính thức trở thành một chi hội
thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Hiện nay chi hội này có trên 1.300
tín đồ ở 9 bản của 4 xã của huyện Bắc Sơn.
a. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990:
Một bộ phận người H’Mơng được nghe chương trình giảng đạo qua sóng
phát thanh bằng tiếng Mơng của đài FEBC phát từ Manila, Philippin,.. Năm 1986
đạo Vàng Chứ xuất hiện đầu tiên tại tỉnh Hà Giang, năm 1987 đạo Vàng Chứ phát
triển tại một số điểm thuộc huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Sau đó, tiếp tục lan sang
một số xã vùng cao thuộc các huyện Điện Biên, Tuần Giáo, Sìn Hồ, Mường Tè,
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (cũ). Đến năm 1990, đạo Vàng Chứ đã xâm nhập vào
164 xã thuộc 8 tỉnh miền núi phía Bắc có người Mông sinh sống là: Tuyên Quang,
Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Thái (nay là Bắc Kạn và Thái Nguyên), Sơn La, Lai
Châu (nay là Lai Châu và Điện Biên), Lào Cai và Yên Bái. Trong lúc một bộ phận
người H’Mông tự phát đi tìm một tơn giáo mới nhưng đạo Vàng Chứ không đáp
ứng đầy đủ nhu cầu ấy; đạo Tin lành đã khôn khéo lợi dụng những điểm tương
đồng giữa các sự tích, nhân vật trong truyền thuyết của người Mơng với những sự
tích và nhân vật trong Kinh Thánh để truyền đạo như hiện tượng xưng vua, đón
vua đã chuyển đạo Vàng Chứ dần dần thành Tin lành. Việc truyền đạo giai đoạn
này diễn ra bí mật, chủ yếu thơng qua chương trình phát thanh của đài FEBC và sự
rủ rê, lôi kéo của một số người Mông tại chỗ.
b. Giai đoạn từ năm 1991-1992:
Năm 1991, tiếp theo việc đón vua, xưng vua, một số người Mơng đứng đầu
các điểm nhóm đã liên hệ với nhà thờ Cơng giáo tại Yên Bái, Sơn Tây, Hà Nội. Họ
được các linh mục hướng dẫn, giảng giải về giáo lý, lễ nghi và được cung cấp một
số sách Kinh thánh nên hầu hết số người Mông theo đạo Vàng Chứ chuyển sang
theo Cơng giáo.
Sau một thời gian, phát hiện ra tín lý Cơng giáo có nhiều điểm khơng giống
với
10
những gì được tuyên truyền, mặt khác, lễ nghi của Công giáo quá phức tạp,
rườm rà không phù hợp với người H’Mơng mới theo đạo. Đồng thời, đài FEBC có
sự "hiệu chỉnh" và hướng dẫn họ liên hệ với Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Bắc) ở số 2- Ngõ Trạm, Hà Nội. Họ đã cử người xuống trụ sở Tổng hội nhờ
giúp đỡ. Tại đây, họ được các mục sư, truyền đạo hướng dẫn, giảng dạy cách thức
hành đạo. Họ nhận thấy Tin lành ngồi tính thiêng vừa phù hợp với sự mong mỏi
và tâm lý, vừa đơn giản, tiết kiệm phù hợp với cuộc sống của người H’Mơng. Và
điều này cũng rất giống với những gì họ nghe được trên các chương trình phát
thanh. Do đó, số người Mông theo đạo Vàng Chứ trước đây lại chuyển từ Công
giáo sang theo Tin lành.
c. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay:
Từ năm 1993, số lượng tín đồ Tin lành có sự gia tăng đột biến. Những người
đứng đầu các điểm nhóm liên hệ chặt chẽ với Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Bắc). Họ được cấp tài liệu, kinh sách, tài chính; được hướng dẫn, giảng giải
bài bản về giáo lý, lễ nghi của Tin lành. Khi về địa phương, những người này tiến
hành phân phát tài liệu, hướng dẫn sinh hoạt đạo cho đồng bào địa phương, lập
danh sách những người theo đạo gửi kèm theo đơn xin gia nhập Tin lành. Bên cạnh
đó, họ cũng được hướng dẫn nghe giảng về Tin lành bằng tiếng H’Mơng qua đài,
băng ghi âm... Đến năm 1994 đã có khoảng 40.000 tín đồ Tin lành tại các tỉnh miền
núi phía Bắc.
Từ năm 1995 đến nay, Tin lành khơng chỉ dừng lại ở dân tộc H’Mông, dân
tộc Dao mà vẫn tiếp tục lan sang các dân tộc khác như Thái, Tày, Nùng, Sán Chỉ,
Pà Thẻn, Hà Nhì, Mảng, Cờ Lao, La Hủ.
Đến năm 2008, ở 14 tỉnh miền núi phía Bắc có trên 110 ngàn người ở gần
1000 thơn/bản thuộc các dân tộc: H’Mông, Dao, Tày, Nùng, Sán Chỉ… theo Tin
lành, tập trung đông nhất ở các tỉnh: Điện Biên 24.560 người ở 128 bản, Cao
Bằng-14.223 người ở 158 bản, Hà Giang-15.201 người ở 159 bản, Bắc Kạn-10.219
người ở 85 bản, Lai Châu - 14.454 người ở 123 bản, Lào Cai - 14.338 người ở 116
bản, Tuyên Quang -6.382 người ở 67 bản, Thái Nguyên - 4.528 người ở 28 bản,…
11
(chưa kể hơn 37 ngàn người Mông theo Tin lành đã di cư vào Tây Nguyên thời
gian qua).
Cùng với việc gia tăng số lượng tín đồ theo Tin lành và mở rộng địa
bàn ảnh hưởng, Tin lành đã từng bước hình thành mơ hình tổ chức. Ban đầu việc
theo Tin lành chỉ mang tính tự phát, dần dần cùng với mối quan hệ với Tổng hội
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) tại các điểm nhóm đã hình thành Ban
Chấp sự, Ban Hiệp nguyện. Những tổ chức ban đầu sơ khai này đã làm đơn xin gia
nhập Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).
Ngoài Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), hiện nay một số hệ
phái Tin lành có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã phát triển lên khu vực
này như Liên hữu Cơ đốc, Phúc âm Toàn vẹn, Hội Truyền giảng Phúc âm, Cơ đốc
Phục lâm.
Theo Ban Tơn giáo Chính phủ, hiện nay, vùng núi phía Bắc có khoảng
100.000 đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là người H’Mông, theo Tin lành
(chiếm khoảng 15% tổng số người H’Mơng) ngồi ra cịn một bộ phận người
H’Mơng di cư tự do vào Tây Nguyên (khoảng 20 ngàn người) và một số di cư sang
Lào, Trung Quốc.
2.4. Nguyên nhân một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Miền núi phía Bắc
theo Tin lành
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, việc Tin lành phát triển đột biến ở khu vực
miền núi phía Bắc nước ta thời gian qua cịn có một số nguyên nhân chủ yếu, sau
đây:
Một là, đời sống dân sinh và trình độ dân trí thấp:
Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng
xa, điều kiện canh tác gặp nhiều khó khăn và trình độ dân trí thấp kém. Một số
vùng, một số dân tộc, đời sống kinh tê-xã hội có những sa sút so với trước. Trong
những năm giữa thập niên 1980, Nhà nước ta chuyển dần từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, một số chính sách ưu đãi đối với
đồng bào các dân tộc thiểu số trước đây khơng cịn được thực hiện. Đặc biệt, vào
những năm 1990-1991, khi Nhà nước ta chủ
12
trương xố bỏ cây thuốc phiện, là thu nhập chính của đồng bào Mơng trước
đây, nhưng chưa có biện pháp thay thế, khiến đời sống của đồng bào nhất là đồng
bào Mơng gặp nhiều khó khăn. (Chưa biết trồng cây gì ni con gì để thay thế).
Hai là, hệ thống chính trị trực tiếp ở cơ sở yếu kém:
Hệ thống chính trị trực tiếp (Đảng, chính quyền, đồn thể) và cơ sở cốt cán
trong đồng bào thiểu số ở vùng núi phía Bắc nhìn chung cịn mỏng, yếu và kém
hiệu lực, trình độ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, cấp ủy Đảng và đảng viên chưa
nắm chắc được quần chúng. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở
nhiều nơi chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới của công tác dân vận, chưa sát dân,
vận động quần chúng thiếu hiệu quả. Thực tế cho thấy, Tin lành phát triển nhanh ở
những nơi hệ thống chính trị của ta cịn yếu. Ngồi ra, do việc Tin lành xâm nhập
và phát triển là vấn đề mới nên nhiều địa phương còn bị động, lúng túng trong việc
xử lý. Các biện pháp để xử lý vấn đề còn chưa đồng bộ, chưa nhất quán, nặng về
các biện pháp xử lý hành chính, gây phản cảm trong quần chúng, dẫn đến sự cố kết
trong nội bộ tín đồ; đồng thời, cũng tạo cớ cho những thế lực thù địch ở bên ngoài
vu cáo Nhà nước ta vi phạm quyền tự do tôn giáo.
Ba là, sự suy yếu của phong tục tập qn và tín ngưỡng truyền thống:
Người H’Mơng, Dao và các dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc nói chung
có tín ngưỡng truyền thống đơn giản, nhưng phong tục tập quán lại rườm rà, mê tín
dị đoan vừa tốn kém vừa cản trở sự phát triển. Ngược lại, Tin lành có phương thức
truyền giáo năng động, lễ nghi đơn giản, ít tốn kém, dễ đi vào lịng người; Tin lành
cịn có một số ưu điểm như hạn chế uống rượu, hút thuốc lá, ủng hộ chế độ một vợ
một chồng, khuyên người theo bỏ được những hủ tục,... nên cũng dễ thu hút.
Bên cạnh đó, Tin lành triệt để khai thác những tương đồng về văn hóa giữa
lịch sử của người H’Mông và Kinh thánh. Họ đã “H’Mơng hóa” những nhân vật,
sự tích trong Kinh thánh, khai thác tục lệ "xưng vua", "đón vua" hàng năm của
đồng bào Mông, khơi dậy quá khứ về một vương quốc H’Mơng hùng mạnh, văn
minh xa xưa; người Mơng ln hồi niệm về quá khứ vinh quang oai hùng của dân
tộc mình và họ nói rằng, dân tộc H’Mơng cũng giống như dân tộc Do thái, đã được
Thiên chúa tuyển chọn; "Vàng chứ" chính là "Chúa Giê-su trong Tin Lành. Đối với
13
người H’Mông việc theo Tin lành vừa là tiếp thu cái mới vừa có sự gần gũi, quen
thuộc nên rất dễ tiếp nhận. Đây là lý do vì sao Tin lành dễ hịa nhập vào người
H’Mơng, Dao hơn vào các dân tộc thiểu số khác.
Bốn là, Tin lành khai thác lợi thế về niềm tin tôn giáo và lối sống đạo:
Tin lành là một tơn giáo có phương thức sinh hoạt đơn giản, gọn nhẹ chỉ cần
một quyển Kinh thánh trong tay, người theo Tin lành đã có thể duy trì được tín
ngưỡng của mình, rất thích hợp với những người có hồn cảnh kinh tế khó khăn.
Người H’Mơng theo Tin lành thường nói: “Đằng nào cũng thờ con ma, nhưng thờ
con ma Giê-su đỡ tốn kém hơn”. Qua sóng phát thanh bên ngồi, Tin lành có thể
tiếp cận đến được các vùng sâu, vùng xa, các tài liệu, Kinh thánh sang các tiếng
dân tộc dễ dàng tiếp cận với đồng bào. Bên cạnh đó, Tổng hội Hội thánh Tin lành
Việt Nam (miền Bắc) và một số tổ chức Tin lành khác cũng tích cực cung cấp tài
liệu, tài chính và hướng dẫn những người đứng đầu các điểm nhóm trong việc thực
hiện các sinh hoạt tôn giáo, xây dựng cơ cấu tổ chức. Cuối cùng, các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài, các khách du lịch cũng tranh thủ mọi cơ hội tiến hành hoạt
động truyền đạo vào khu vực này.
Một số nguyên nhân khác:
- Về tình hình kinh tế-chính trị, văn hóa-xã hội, từ năm 1986, Việt Nam tiến
hành đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và
hợp tác quốc tế,
trong đó có việc bình thường hóa quan hệ và tăng cường hợp tác với Mỹ
cũng như các nước công nghiệp phát triển khác ở Bắc Mỹ, châu Âu, tạo ra môi
trường cho Tin lành thâm nhập, phục hồi và phát triển ở Việt Nam, nhất là sự xâm
nhập trong đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi, nằm ngoài ý muốn chủ quan của
chúng ta.
- Về công tác quản lý nhà nước, việc chậm giải quyết và thả nổi công tác
quản lý nhà nước đối với Tin lành một thời gian dài đã tạo môi trường thuận lợi
cho Tin lành phát triển. Mặt khác, cách giải quyết vấn đề Tin lành ở một số địa
14
phương chủ yếu bằng biện pháp hành chính, đã tạo tâm lý phản cảm, sự co cụm
của những người theo đạo.
2.5. Tác động của Tin lành ở khu vực Miền núi phía Bắc
- Đối với đời sống văn hố: Giữa văn hóa, lối sống niềm tin tơn giáo của
Tin lành
với văn hóa, lối sống, tín ngưỡng truyền thống, nhất là của đồng bào dân tộc
thiểu số, nhưở vùng núi phía Bắc, có sự xung đột, có nơi diễn ra gay gắt. Tuy
nhiên, phải thừa nhận rằng Tin lành cũng đem lại tiến bộ trong tư duy, lối sống,
phong tục tập quán, góp phần cải tạo những yếu tố phong tục tập quán lạc hậu, tư
tưởng bảo thủ, trì trệ.
- Đối với kinh tế, thời kỳ đầu, Tin lành thâm nhập đã gây tác động tiêu cực
đến kinh tế, như bà con bỏ sản xuất, di cư tự do, nhất là đối với đồng bào H’Mông
theo Tin lành; Tuy nhiên, ở những nơi ổn định, Tin lành giúp tạo ra phong cách làm
việc hiệu quả, thói quen minh bạch, cơng khai. Đây là những yếu tố có ý nghĩa
thúc đẩy phát triển kinh tế, phù hợp với xu hướng thời đại.
- Đối với an ninh, trật tự, do mới truyền đạo, chưa có cơ sở vật chất địa
điểm sinh hoạt ổn định, chưa được đăng ký, công nhận nên những tổ chức Tin
lành thường sinh hoạt tại tư gia hoặc theo điểm nhóm, gây ra sự ồn ào, xáo trộn
trong cộng đồng. Một số hệ phái Tin lành, do đặc điểm sinh hoạt tồn giáo nói tiếng
lạ tạo ra sự khác thường, khó chấp nhận. Đặc biệt, cùng với sự thâm nhập của Tin
lành là sự quan tâm của các thế lực bên ngoài (nhất là ở Mỹ, một số nước châu Âu,
tổ chức nhân quyền như Human Right Watch, Freedom House, Amnesty
International.., một số nhóm Việt kiều cực đoan, phản động) hịng lợi dụng những
sơ hở trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta để phục vụ
mục đích chính trị, xuyên tạc, kích động, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của
nước ta. Một số phần tử đứng đầu trong Tin lành đã lợi dụng yếu tố này, cố tình tổ
chức những hoạt động truyền giáo công khai, rầm rộ; hoặc xây dựng nhà nguyện
trá hình, kích động đồng bào người H’Mơng, người Dao di cư tự do, hoặc xúi giục
họ tụ tập đơng người…, gây sức ép đối với chính quyền địa phương và Nhà nước.
2.6. Công tác đối với Tin lành ở Miền núi phía Bắc trong thời gian qua
15
Trước khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo, cơng tác đối với các tổ chức
tơn giáo nói chung thực hiện theo Nghị định 26/NĐ-CP. Đối với các tổ chức Tin
lành chưa được công nhận tồn tại 2 cách ứng xử: (1) Đối với một số chi hội (Hội
thánh cơ sở) thuộc các tổ chức, hệ phái hoạt động tương đối liên tục từ trước năm
1975, một số tỉnh tạo diều kiện bằng cách mặc nhận cho sinh hoạt như tổn tại. (2)
Đối với các nhóm Tin lành tư gia, biện pháp chung là tạo điều kiện cho đồng bào
sinh hoạt tại gia. Các cuộc nhóm lễ đơng người thường khơng được chấp thuận cho
phép. Do đó, sinh hoạt của các điểm, nhóm Tin lành đều coi là trái pháp luật.
Sau khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo (2004) và Chỉ thị số 01/2005/CTTTg, ngày 04/2/2005 của Thủ tướng CP, công tác đối với các tổ chức Tin lành chưa
được cơng nhận có sự chuyển biến tích cực hơn nhưng chưa đồng đều. Biểu hiện
cụ thể như sau:
Về các biện pháp quản lý hành chính nhà nước: Chính quyền ở các tỉnh
miền núi phía Bắc đã cấp đăng ký cho 139 điểm nhóm với 19.000 người. Bước đầu
chấp thuận cho Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) liên hệ về mặt tổ chức với
những điểm nhóm đã được cấp đăng ký; đồng thời, giúp đỡ và cho phép Tổng hội
mở lớp bồi dưỡng thần học cho những người đứng đầu các điểm nhóm, cử tuyển
33 học viên theo học khóa 3 (15 học viên), khóa 4 (18 học viên) của Viện Thánh
kinh Thần học thuộc Tổng Liên hộị Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam),
trong đó có một số học viên là người dân tộc H’Mông, Dao.
Các địa phương hạn chế sử dụng các biện pháp xử phạt hành chính như
trước đây, thay vào đó là xu hướng mặc nhận sự tồn tại của các tổ chức hệ phái
nhóm Tin lành. Các hình thức quản lý theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo (thơng
báo, đăng ký và chấp thuận) chưa được các địa phương chủ động áp dụng thực
hiện. Nhìn chung là chờ sự hướng dẫn của Trung ương, cho rằng khi nào Trung
ương công nhận tổ chức hệ phái cấp trên, địa phương mới triển khai công tác đối
với các tổ chức tôn giáo cơ sở cấp dưới trực thuộc, dẫn đến sự lúng túng trong giải
quyết theo pháp luật đối với các tổ chức Tin lành chưa được công nhận, hầu hết
chạy theo từng vụ việc.
16
Về bộ máy và cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo: Một số
tỉnh, thành đã có sự củng cố, kiện tồn để tương xứng với nhiệm vụ cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới. Tuy nhiên, nhìn chung là chưa hồn thiện, thiếu và yếu,
chưa đáp ứng nhiệm vụ được giao, nhất là cấp cơ sở và các tỉnh miền núi phía Bắc.
Kinh phí cho hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo thấp; chế độ đãi ngộ cho cán
bộ khơng có, trong khi công tác tỏn giáo, nhất là đối với Tin lành là một lĩnh vực
mới nhạy cảm.
3. Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với Tin lành ở Vùng núi phía
Bắc trong thời kỳ hội nhập quốc tế
3.1. Dự báo tình hình và xu hướng phát triển của Tin lành
Căn cứ diễn tiễn tình hình tơn giáo ở vùng núi phía Bắc thời gian vừa qua,
trên cơ sở xem xét tồn diện ở tất cả các khía cạnh, có thể dự báo diễn biến tình
hình phát triển của Tin lành nói chung những năm tới đây, như sau:
- Các nhóm/hệ phái Tin lành sẽ tăng cường truyền đạo trong đồng bào dân
tộc thiểu số, trong đó có vùng núi phía Bắc. Các nhóm Tin lành của người nước
ngồi, đặc biệt là từ Bắc Mỹ, Bắc Âu và Hàn Quốc, sẽ tiếp tục truyền giáo tại Việt
Nam và hỗ trợ hoạt động cho các hệ phái Tin lành được nhà nước công nhận, đồng
thời, tạo sức ép đối với Nhà nước ta trong việc giải quyết yêu cầu của các nhóm
Tin lành tư gia.
- Các hoạt động truyền đạo sẽ nhận được sự hỗ trợ, tác động từ các tổ chức
tôn giáo trong nước và quốc tế dưới nhiều hình thức. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh
hoạt động truyền giáo của các hệ phái Tin lành dẫn tới việc tranh chấp tín đồ, ở
một số nơi, có thể gây xung đột về văn hóa, lối sống giữa Tin lành và văn hóa
truyền thống.
- Do đặc thù của vùng núi phía Bắc, các thể lực thù địch sẽ tiếp tục đẩy
mạnh các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo, xun tạc chính sách tơn
giáo của Đảng, Nhà nước ta và triệt để khai thác những sơ hở trong việc giải quyết
vấn đề Tin lành ở cơ sở, tạo ra điểm nóng gắn với nhân quyền để chống phá ta.
Đặc biệt, chúng ra sức mua chuộc và nắm số cực đoan, li khai trong các dân tộc,
17
tôn giáo, nhất là số cầm đầu để tập hợp lực lượng chống đối. Thậm chí, ở một số
nơi chúng kích động bạo loạn, tạo cớ để can thiệp.
3.2. Các giải pháp nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với Tin lành ở Vùng
núi phía Bắc
3.2.1. Giải pháp chung
- Cần giải quyết tận gốc nguyên nhân của một bộ phận đồng bào dân tộc
thiểu số theo Tin lành bằng việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trên
cơ sở phát huy hết tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, miền nhằm thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, không ngừng nâng cao đời sống dân sinh và trình độ dân trí; củng cố hệ thống
chính trị cơ sở.
- Có chính sách cụ thể, hiệu quả trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hố
tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp, đậm đà bản sắc của các dân tộc thiểu số, đồng
thời, loại bỏ những hủ tục lạc hậu. Bên cạnh đó, cố gắng khoanh lại không để cho
Tin lành phát triển lan rộng ra các dân tộc khác.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể
Một là, tiếp tục cơng tác qn triệt chủ trương, chính sách đổi mới đối với
tơn giáo nói chung, đối với Tin lành nói riêng, theo tinh thần của Chỉ thị số 01/CTTTg ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công việc đối với đạo Tin
lành trong cấp ủy Đảng, chính quyền, đồn thể và trong tín đồ, chức sắc Tin lành;
đồng thời, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người theo Tin lành, trong đó, có
người dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc và hướng dẫn đồng bào hoạt động tôn
giáo theo pháp luật.
Hai là, tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo của tín đồ và hoạt động tơn giáo
của chức sắc, các điểm nhóm Tin lành ở vùng núi phía Bắc thuộc Tổng hội Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã được công nhận; đồng thời, tiếp tục hướng
dẫn các điểm nhóm thuộc Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và
của các tổ chức hệ phái đủ điều kiện theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo đăng ký
18
hoạt động tôn giáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, theo quy định
của pháp luật.
Ba là, mở rộng diện cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo theo điểm nhóm ra các
khu vực và hệ phái Tin lành khác ngoài Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).
Phấn đấu đến cuối năm 2020, phải tiến hành xong việc đăng ký điểm nhóm ở từng
thơn/bản đối với những nơi có thời gian theo Tin lành lâu năm và sinh hoạt tôn
giáo ổn định. Từng bước xem xét, giải quyết vấn đề tổ chức của các điểm nhóm đã
được cấp đăng ký sinh hoạt trong mối quan hệ với Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Bắc) hoặc với các hệ phái Tin lành khác đã được công nhận, đồng thời, giải
quyết các điều kiện sinh hoạt tôn giáo cho đồng bào khi hội đủ các điều kiện theo
luật định.
Bốn là, tiếp tục hướng dẫn đồng bào theo Tin lành được sinh hoạt tơn giáo
tại gia đình. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho đồng bào có nhu cầu và nguyện vọng
xin ra khỏi Tin lành để quay trở lại với tín ngưỡng truyền thống, nhưng tuyệt đối
khơng ép buộc.
Năm là, tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn về chính sách tơn giáo, tín ngưỡng
đối với cán bộ chính quyền cấp cơ sở và chức sắc tôn giáo ở địa phương; đồng
thời, xem xét tổ chức các lớp tập huấn cho cả hai đối tượng trên cùng tham gia.
KẾT LUẬN
Tại miền núi phía Bắc cùng với Tây Bắc và Tây Nguyên, Tin lành vẫn còn là
một vấn đề cần được quan tâm, nó khơng chỉ là vấn đề về tơn giáo mà cịn là vấn
đề dân tộc, vấn đề tư tưởng, an ninh chính trị, và liên quan tới chính sách đối nội
và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Mặc dù, quá trình truyền bá có
sự lợi dụng của các thế lực xấu, nhưng hiện nay, Tin lành là một thực thể đang tồn
tại, phản ánh nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo của một bộ phận nhân dân. Do
19
đó, Đảng và Nhà nước ta cần có chính sách phù hợp, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tơn
giáo, tín ngưỡng của nhân dân, đồng thời, đấu tranh chống sự lợi dụng Tin lành của
các thế lực xấu chống phá ta.
Tóm lại,việc đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý nhà
nước đối với Tin lành trong tình hình mới là một đóng góp thiết thực vào việc thực
hiện và triển khai tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với Tin
lành ở Việt Nam nói chung và Tin lành ở vùng núi phía Bắc nói riêng; đồng thời,
qua đó, triển khai hoạt động đối ngoại nhân dân về thông tin đối ngoại, vận động,
đấu tranh dư luận liên quan tới nhân quyền, tôn giáo ./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đạo Tin lành, ảnh hưởng của đạo Tin lành đối với an ninh trật tự trong vùng
dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc - Đề tài khoa học Trường Đại học Cảnh
sát Nhân dân, Hà Nội, 1999 – 2001
2. Đặng Nghiêm Vạn - Nguyễn Hồng Dương- Vương Duy Quang - về tình
hình phát triển của đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc Trường Sơn –Tây
Nguyên, Hà Nội, 2000
3. Nguyễn Thanh Xuân - Đạo Tin lành trên thế giới và mối quan hệ với Tin
lành ở Việt Nam – NCKH. Hà Nội, 1998
20
4. Nguyễn Thanh Xn – Góp phần tìm hiểu đạo Tin lành ở Việt Nam - Viện
TTKH - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997
5. Nguyễn Thanh Xuân – “Chủ trương, chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay” – Bài giảng Lớp cao học – Viện Nghiên cứu Quyền con người,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 10/2016
6. Vũ Văn Hậu - Củng cố mối quan hệ Dân tộc và Tôn giáo ở Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh—NXB Chính trị quốc gia2009.
7. Hiến pháp CHXHCN Việt Nam (1980, 1992 và 2013).
8. Bộ Ngoại giao – “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người” (Sách
Trắng-2005 & 2015)
9. Nghị quyết số 25/NQ-TW của Bộ Chính trị về cơng tác tơn giáo;
10.Nghị quyết 22/NQ-TW, ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc
tế;
11. Chỉ thị số 44/2005/CT-TW, ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về cơng tác nhân quyền trong tình hình mới
21