Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận chính sách đối ngoại việt nam sau hơn 30 năm đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.31 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................2
1. Điểm lại những nét chính của CSĐN Việt Nam sau khi Đổi mới....................2
1.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986-1991............................2
1.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1991-2000............................4
1.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay........................5
2. Kết quả đạt được của đường lối chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt
Nam sau hơn 30 năm đổi mới:.............................................................................8
2.1. Thành tựu của sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới:.....................8
2.1.1. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam:.................................................................................................8
2.1.2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:..................................9
2.1.3. Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội:..................10
2.1.4. Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế:................................................................................................12
2.1.5. Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân:.......................13
2.2. Đóng góp của đường lối chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt Nam
vào thành tựu chung...........................................................................................15
3. Phương hướng của đường lối chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế...................................................................16
KẾT LUẬN........................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................21


LỜI MỞ ĐẦU
Hơn ba mươi năm trước đây Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới trong
bối cảnh quốc tế có nhiều biến động hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ
XHCN bị xố bỏ ở Đơng Âu, Liên Xô tan rã và phong trào cách mạng thế giới


tạm thời rơi vào thoái trào. Trong những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta
đứng trước những khó khăn rất hiểm nghèo. Ở trong nước, Việt Nam phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài. Về đối ngoại,
Việt Nam phải đương đầu với tình trạng bị cơ lập về chính trị, bị bao vây cấm
vận về kinh tế. Trong khi đó, trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ diễn ra như vũ bão, xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa nổi lên, đặt ra
những cơ hội và thách thức cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Dưới tác
động của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ và xu thế tồn cầu hóa, các quốc
gia đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, quá trình giao lưu và thâm nhập qua lại
giữa các quốc gia ngày càng trở nên sôi động và chặt chẽ. Sự đơn lẻ của mỗi
quốc gia trở nên hết sức mong manh trước những rủi ro, biến động của nền kinh
tế thế giới, cũng như năng lực quá nhỏ bé khơng thể giải quyết được những vấn
đề mang tính tồn cầu. Trong bối cảnh quốc tế như vậy cũng như nhiều nước
khác Việt Nam phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích nghi
với điều kiện mới, đây là đòi hỏi khách quan, cấp bách đặt ra cho cách mạng
nước ta.
Để nhìn lại những kết quả đã đạt được của nền đối ngoại Việt Nam trong
hơn 30 năm qua và phương hướng công tác đối ngoại thời gian tới, tơi đã chọn
đề tài “Đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới
và phương hướng trong thời kỳ hội nhập quốc tế” làm bài thu hoạch cho môn
học Quan hệ Quốc tế. Do kiến thức và tầm hiểu biết còn hạn chế nên bài viết của
tơi khơng tránh khỏi sai sót rất mong được thầy, cơ giáo xem xét và góp ý kiến
cho bài tiểu luận được hoàn thiện.
1


Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2019.
NỘI DUNG
1. Điểm lại những nét chính của Chính sách đối ngoại Việt Nam sau khi
thực hiện Chính sách Đổi mới:

Đối với nước nào cũng vậy, chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách
đối nội, và phục vụ chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại là một bộ phận của
đường lối chính trị, đường lối cách mạng của Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng.
Chính sách đối ngoại là tổng hồ của những quan điểm, biện pháp, hình thức đối
ngoại nhằm làm cho mục tiêu cách mạng trong nước phù hợp với xu hướng, quy luật
vận động của thế giới.
1.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986-1991:
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) trên cơ sở phân tích đúng tình hình và xu
thế quốc tế, đánh giá sát tình hình trong nước, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đã
đi đến những quyết định có ý nghĩa lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách
toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế.
Về đối ngoại, Đại hội VI nêu nhiệm vụ hàng đầu là “tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Triển khai
đường lối đối ngoại đã được Đại hội thông qua, ngày 20-5-1988, Nghị quyết Trung
ương 13 với chủ đề “giữ vững hồ bình, phát triển kinh tế” khẳng định rằng, trong bối
cảnh thế giới và khu vực hiện nay, nước ta có cơ hội lớn để thực hiện nhiệm vụ chiến
lược bao trùm đó. Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm về chiến tranh và hồ bình, an
ninh và phát triển, kinh tế với quốc phòng và quan hệ quốc tế, dân tộc và quốc tế, mở
rộng hợp tác quốc tế với đoàn kết quốc tế, quan hệ đồng minh, làm nghĩa vụ quốc
tế…, Nghị quyết đề ra một loạt chính sách nhằm chuyển toàn bộ quan hệ đối ngoại
của Việt Nam từ đối đầu sang đối thoại, nhằm phá thế bị bao vây, cấm vận, giữ vững
hồ bình, ổn định và phát triển kinh tế.

2


Nghị quyết đặt nhiệm vụ giải quyết vấn đề Cam-pu-chia lên hàng đầu, đồng
thời thúc đẩy đối thoại với các nước ASEAN, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Với các giải
pháp được đưa ra cho vấn đề Cam-pu-chia đều nhận được sự chấp thuận của các bên,
ngày 23-10-1991, Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết. Đồng thời với quá

trình chuẩn bị Hiệp định quốc tế về Cam-pu-chia, Việt Nam và các nước ASEAN đã
xúc tiến đối thoại trên tinh thần hữu nghị.
Với Trung Quốc, để thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt - Trung,
thực hiện chủ trương “... kiên trì và chủ động để bình thường hố quan hệ Việt Trung và khôi phục quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước”, Việt Nam đã thực
hiện một số bước mạnh mẽ theo hướng hoà dịu, nối lại đàm phán từ tháng 1-1989.
Sau khi hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết, đoàn cấp cao của Việt Nam sang
thăm Trung Quốc (tháng 11-1991), quan hệ Việt Nam – Trung Quốc được bình
thường hố, quan hệ giữa hai Đảng cũng được khôi phục.
Cùng với những tiến triển trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước, Mỹ cũng
rút bỏ sự ủng hộ đối với “Chính phủ ba phái có Khơme đỏ”, bắt đầu đối thoại với
Việt Nam về vấn đề Cam-pu-chia và các vấn đề hai bên cùng quan tâm. Cuộc gặp gỡ
Bộ trưởng ngoại giao hai nước ngày 29-9-1990 đánh dấu một bước hoà dịu trong
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
Các nước phát triển phương Tây đã lần lượt nối lại quan hệ với Việt Nam, đầu
tiên là các nước Tây Bắc Âu rồi Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân… Việt Nam đã bình thường
hố quan hệ với các nước này trước khi bình thường hố quan hệ với Hoa Kỳ và
Trung Quốc.
Nhìn lại chặng đường đầu tiên trong cơng cuộc đổi mới, chủ trương “Hồ bình
để phát triển” đã tạo nên một bước đột phá lớn về mặt ngoại giao, chấm dứt thời kỳ
nặng nề, đặt nền móng cho việc lập lại quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước
tư bản phát triển, mở đường cho việc sớm thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, mở ra
cục diện mới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng lại đất nước sau 30
3


năm chiến tranh và 10 năm khủng hoảng, góp sức đưa đến những thành cơng to lớn,
có ý nghĩa quan trọng trong cơng cuộc đổi mới đất nước.
1.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1991-2000:
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra biến động to lớn
với sự tan rã của Liên Xô, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu, kéo

theo sự thối trào của phong trào cách mạng, phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế. Đây là một tổn thất nặng nề của cách mạng thế giới và cũng là một thiệt thòi lớn
đối với Việt Nam. Việt Nam khơng cịn đồng minh chiến lược, khơng cịn chỗ dựa
quan trọng về chính trị, mất đi một nguồn viện trợ to lớn về kinh tế…Trong khi đó,
đất nước lại chưa thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Hơn lúc nào hết,
tình hình quốc tế địi hỏi ngoại giao Việt Nam phải thật tỉnh táo, tiếp tục đổi mới tư
duy đối ngoại, nắm vững hơn nữa xu thế quốc tế, tìm cách tiếp cận và tranh thủ các
đối tượng khác nhau trong quan hệ quốc tế.
Trên tinh thần đó, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) thông qua “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó, về đối
ngoại đã xác định “Với chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam tuyên bố rằng: Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ
bình, độc lập và phát triển”(1). Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội đề ra chính sách
đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, hợp tác và cùng có lợi với
tất cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, trên cơ sở các
ngun tắc cùng tồn tại hồ bình…”
Nếu như trước đây Việt Nam có phương châm “thêm bạn bớt thù”, thì nay Việt
Nam làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới; trước Việt Nam ưu tiên
hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, nay Việt Nam mạnh mẽ đề ra đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ quốc tế…Đó là những nét sáng tạo, đổi mới tư duy đối ngoại
theo hướng rộng mở, uyển chuyển, phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế chung
trên thế giới. Theo phương châm đó, ngoại giao tiếp tục thắng lợi, đẩy mạnh các hoạt
4


động, mở rộng quan hệ với các nước, trước hết là các nước lớn, mở rộng quan hệ với
các khu vực, các tổ chức quốc tế, tạo thuận lợi cho việc hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và sau đó nhanh chóng tham
gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN. Trở thành thành viên của ASEAN, Việt
Nam hội nhập vào khu vực, gắn kết với các nước trong khu vực có nguyện vọng xây

dựng một khu vực hồ bình, an ninh, phát triển, khơng có vũ khí hạt nhân, có quan hệ
hữu nghị với tất cả các nước. Nguyện vọng đó hồn tồn phù hợp với quan điểm và
lợi ích của Việt Nam.
Ngày 3-2-1994, Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn (Bill Clinton) tuyên bố bãi bỏ
lệnh cấm vận với Việt Nam và ngày 11-7-1995, tun bố chính thức bình thường hố
quan hệ với Việt Nam. Với việc bình thường hố quan hệ với Hoa Kỳ, lần đầu tiên,
Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. Cũng từ đây, nước ta khai
thông được quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), để đến ngày 20-10-1990, hai bên
chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Tiếp đến, tháng 7-1995, Việt Nam và EU ký
hiệp định khung về hợp tác giữa hai bên. Hiệp định này có ý nghĩa to lớn, đánh dấu
một giai đoạn mới trong quan hệ giữa Việt Nam và EU. Từ Hiệp định khung với cả
EU, quan hệ song phương giữa Việt Nam với từng nước thành viên của EU cũng
được mở rộng thêm.
Tiếp tục lộ trình hội nhập khu vực và thế giới, Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC)
vào tháng 11-1998, ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng là một nỗ lực và thành
công lớn của Việt Nam trên đường hội nhập, tham gia Diễn đàn hợp tác Á – Âu
(ASEM) với tư cách là một trong 25 thành viên sáng lập.
Trước đây ngoại giao đã “làm kinh tế”, nay với đà hội nhập kinh tế quốc tế, vai
trò của ngoại giao càng lớn hơn, nặng nề hơn. Những sự kiện ngoại giao lớn trong
năm 1995 nói riêng và trong những năm cuối của thập niên 90 đã góp phần tạo nên
một vị thế, một hình ảnh mới của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
5


1.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay:
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới có thêm những chuyển động lớn với những
phức tạp, bất ổn khó lường. Cách mạng khoa học và cơng nghệ tiếp tục phát triển với
tốc độ cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế thế giới và quốc tế hoá nền kinh tế
và đời sống xã hội. Q trình tồn cầu hoá kinh tế gia tăng cả về chiều rộng và bề

sâu, trở thành một xu thế khách quan cuốn hút mọi quốc gia tham gia. Tồn cầu hố
kinh tế với cốt lõi là tự do hoá thương mại và đầu tư đã giúp các nước mở rộng thị
trường, tranh thủ vốn và công nghệ để phát triển, nhưng cũng đặt ra những thách thức
mới. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia và vị
thế quốc gia đó trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh chung đó, Đảng ta nhận định mặc dù cạnh tranh quốc tế diễn ra gay
gắt, chiến tranh và xung đột vẫn diễn ra ở một số nơi trên thế giới, nhưng xu thế hồ
bình, hợp tác, đặc biệt là hợp tác về kinh tế, vẫn là chủ đạo. Để hội nhập kinh tế quốc
tế, thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010),
ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế: “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc quốc gia bảo vệ môi
trường”… Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định “thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Mục tiêu cụ thể được đặt ra lúc này là gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến tháng 11-2006, sau hơn 10 năm đàm
phán, Việt Nam được chính thức kết nạp, trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Đây
là một dấu mốc quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra nhiều
thuận lợi cho đất nước, phát triển thương mại, tranh thủ đầu tư nước ngoài phát triển

6


kinh tế. Một năm sau khi gia nhập WTO (năm 2007), GDP của Việt Nam tăng 8,48%,
xuất khẩu đạt 21,5%, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 20,3 tỉ USD.
Bên cạnh những thuận lợi, kết quả đạt được, Việt Nam vẫn cịn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức, chẳng hạn, phải chấp nhận sau 12 năm mới được
cơng nhận có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Ngoại giao đã phối hợp với các ngành

liên quan vận động một số nước bạn bè công nhận sớm công nhận Việt Nam có nền
kinh tế thị trường đầy đủ gồm ASEAN, Nga, U-crai-na, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Niu Dilân và một số nước Nam Mỹ. Vượt qua khó khăn, tranh thủ lợi thế mới, ngoại giao đã
góp sức tham mưu, mở đường, làm cầu nối để các cơ quan kinh tế thương mại tiếp
xúc, lập quan hệ hợp tác với các cơ quan kinh tế, xí nghiệp nước ngồi. Đến nay Việt
Nam đã có quan hệ thương mại đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ, trong đó các
đối tác buôn bán lớn nhất là Trung Quốc với 25 tỉ USD thương mại hai chiều (năm
2010) và Mỹ 16 tỉ USD (2010).
Thắng lợi ngoại giao trong 10 năm cuối thế kỷ trước và 17 năm đầu thế kỷ này
đã đưa tới và hội tụ nổi bật trong năm 2010 với những hoạt động tồn diện, sơi nổi,
đặc biệt là hồn thành xuất sắc vai trị Chủ tịch ASEAN 2010. Với cương vị Chủ tịch,
Việt Nam đã tổ chức tốt tất cả các hội nghị diễn ra trong năm. Chỉ tính riêng tại Hội
nghị cấp cao ASEAN 17 và các hội nghị liên quan, Việt Nam đã đón 17 vị Tổng
thống, Thủ tướng các nước ASEAN, các nước đối thoại ASEAN và gần 2600 đại
biểu, 900 phóng viên quốc tế. Với một lịch hoạt động cấp cao dày đặc (14 hội nghị),
Việt Nam đã điều hành thông suốt, êm đẹp, bảo đảm chương trình, thời gian, cơng tác
lễ tân, hậu cần, thông tin, an ninh, nhưng quan trọng hơn là đã hoàn thành một khối
lượng rất lớn nội dung với nhiều vấn đề có tầm chiến lược, phức tạp và nhạy cảm,
đưa ra được các định hướng ưu tiên, các giải pháp thoả đáng, các cách ứng xử, các
quyết sách hợp lý, nhận được sự ủng hộ và đồng thuận của nhiều bên.
Bên cạnh công tác điều hành với cương vị Chủ tịch ASEAN, ngoại giao đa
phương còn được triển khai ở các cấp độ khu vực, liên khu vực và tồn cầu thơng qua
7


các hoạt động tại các diễn đàn ASEM, APEC, G20…Về ngoại giao song phương,
trong năm 2018, Việt Nam cũng đạt được những thành công lớn với tất cả các đối tác
trọng điểm, mở rộng diện các nước có quan hệ đối tác chiến lược.
2. Kết quả đạt được của đường lối chính sách và hoạt động đối ngoại của
Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới:
2.1. Thành tựu của sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới:

Sau hơn 30 năm đổi mới là một chặng đường lịch sử quan trọng trong sự
nghiệp phát triển của đất nước và dân tộc Việt Nam. Đổi mới mang tầm vóc và ý
nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, là sự nghiệp cách mạng to
lớn của nhân dân Việt Nam vì “một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh” (Hồ Chí Minh), góp phần vào mục tiêu hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của thời đại.
2.1.1. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam:
Trong quá trình đổi mới, nhờ nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình thực tiễn thế giới và
trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn khái quát lý luận, khắc phục những quan
điểm ấu trĩ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí và bảo thủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nâng cao nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Qua hơn 30 năm đổi mới với 6 nhiệm kỳ đại hội Đảng, mỗi kỳ đại
hội đánh dấu một bước tiến rõ rệt trong nhận thức lý luận của Đảng về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại… trên con đường đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã xác định tám đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;
8


có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; cón nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế

giới”. Cương lĩnh cũng xác định tám phương hướng cơ bản và tám mối quan hệ lớn
cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Có thể coi đó là đường lối
chung để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1.2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Bước vào cơng cuộc đổi mới, Đảng xác định phải đổi mới tư duy, trước hết là
tư duy kinh tế.
Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình tập trung bao cấp, chuyển sang phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mơ hình kinh tế tổng
qt của thời kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình
thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Từng bước hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh
tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng,
ổn định kinh tế vĩ mơ, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm;
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có
hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, coi trọng
phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các
ngành cơng nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình
độ cơng nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông
9


thơn mới . Bảo đảm phát triển hài hịa giữa các vùng miền; thúc đẩy phát triển nhanh
các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời, tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều
khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng nền kinh tế độ lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp, trong hơn
30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn

tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau
10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25
năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển,
bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế
tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so với năm 2000,
năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1168 USD,
năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác
động của khủng hoảng tài chính thê giới, suy thối kinh tế tồn cầu nên nền kinh tế
Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng
GDP bình quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch
đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu
đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được
chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công
nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ
cấu GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu
vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện đại,
đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là 49%), đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện.

10


2.1.3. Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội:
Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng chính sách và
từng bước phát triển. Phát triển tồn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với
phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn
hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản

sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống văn hóa, con người Việt
Nam.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi
phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ các giải
pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và ngành
học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở. Phát triể mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao chất
lượng giáo dục đại học.
Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFT)
vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: Nâng cao năng lực khoa
học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng. Trên cơ
sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri
thức theo một số lộ trình hợp lý.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính sác
xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của chế
độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường.
Chính sách xã hội bảo đảm và không ngững nâng cao đời sống vật chất của mọi
11


thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng
cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất
nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; nghiên cứu xây dựng chương trình
việc làm cơng.
Trong hơn 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán cuả Đảng và Nhà nước là
giảm nghèo bền vững đi đơi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng; chú

trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là
đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉam bình quân 1,5-2%/ năm.
Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn 9,5%, năm
2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%. Thành tựu về giảm nghèo của
Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế
được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn
dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Chính
sách ưu đãi người có cơng với cách mạng được đặc biệt quan tâm, đảm bảo mức
sống người có cơng bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn
cư trú. Đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở
rộng và hiệu quả; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như: Bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các
loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội; bảo đảm cung ứng một số
dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, nhất là cho người nghèo, người có hồn cảnh
khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
2.1.4. Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và
phát triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
12


tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa binh, độc lập,
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp
nên Việt Nam dã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành
tựu về khoa học- cơng nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn minh của

nhân loại… để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất, xây dựng đất nước. Trong
những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính
sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song
phương và tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh
mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI,ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các
nguồn lực về vốn, khoa học-cơng nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 nước ( trong đó xác lập
quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước), quan hệ thương mại với 230 nước và vùng
lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, vị thế
và uy tín quốc tế của Việt nam ngày càng được nâng lên.
2.1.5. Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây dựng
Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và phong
cách cơng tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
13


tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới; phòng và chống những nguy cơ lớn
đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và
sự thối hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Đảng khẳng định phải kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ,
kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực
đoan.

Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số
vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; tăng cường công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, khắc phực suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên; đấu tranh chống âm mưu và hoạt động “diễn biến
hịa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân dân.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm từng tổ
chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối, thực hiện
cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
Chú trọng kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng
cường công tác quản lý, phát triển đảng viên.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các khâu của công tác cán bộ (đánh giá,
quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và chính sách
cán bộ). Đổi mới và tăng cường công tác dân vận; nâng cao hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị- xã hội.
Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng; phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
14


trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp
năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 và một loạt các bộ luật, luật và pháp lệnh theo
hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao vai trò tối cao của
Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó tiến hành đổi mới tổ chức
và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa

phương các cấp.
Ở Việt Nam việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân
chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, là động lực của sự
ngiệp đổi mới. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng
pháp luật,. được pháp luật bảo đảm.
2.2. Đóng góp của đường lối chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt
Nam vào thành tựu chung
Sau hơn 30 năm qua, Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Từ một nước có thu nhập thấp, kém phát triển đã trở thành một nước có
thu nhập trung bình, đứng vào số các nước chuẩn bị cất cánh để bước sang giai đoạn
phát triển mới.
Trong sự phát triển chung của đất nước, công tác đối ngoại đã có những đóng
góp lớn thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Thứ nhất là tham mưu cho Đảng, Nhà nước
chuyển từ thế bị bao vây, cấm vận sang bình thường hóa quan hệ với các nước. Sau
30 năm đổi mới, quan hệ quốc tế của Việt Nam có những thay đổi sâu sắc. Việt Nam
đã thiết lập quan hệ với 185 nước trong tổng số 193 nước của Liên Hợp Quốc.
Thứ hai, Việt Nam cũng tham gia vào 70 tổ chức quốc tế, khu vực và đóng vai
trị tích cực chủ động và có trách nhiệm. Thứ ba, tiếng nói của Việt Nam trên trường
quốc tế cũng đã được các nước trong khu vực và quốc tế tôn trọng, nhiều sáng kiến
của Việt Nam được cộng đồng quốc tế hoan nghênh.
15


Trong 5 năm trở lại đây, Việt Nam đã đưa quan hệ của Việt Nam với các đối tác
đi vào chiều sâu thể hiện ở chỗ Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện với 15 đối tác trên thế giới, 10 đối tác toàn diện, hợp tác nhiều mặt với bạn bè
khác tạo ra sự tin cậy gắn bó chặt chẽ tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất
nước, đồng thời cũng tranh thủ được sự ủng hộ hỗ trợ của bạn bè quốc tế trong cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Về đối ngoại đa phương, Việt Nam có nhiều thành tựu quan trọng, điểm sáng là
Việt Nam đã tham gia vào ASEAN. Việt Nam tham gia khơng chỉ vì lợi ích của mình,
mà Việt Nam xây dựng có trách nhiệm để ASEAN chính thức trở thành cộng đồng
vào ngày 31/12/2015 vừa qua.
Tại các diễn đàn khác như ASEM, APEC, LHQ Việt Nam đều có tiếng nói,
được các nước tôn trọng. Việt Nam đã được bầu vào nhiều vị trí quan trọng như Uỷ
viên khơng thường trực của HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2010… Năm 2015, Việt
Nam tiếp tục được bầu vào Uỷ ban Kinh tế xã hội của LHQ, Uỷ ban Di sản của
UNESCO với số phiếu rất cao.
Đặc biệt, công tác kiều bào của Việt Nam trong 30 năm qua đã có nhiều thành
tựu lớn. Sau khi Nghị quyết 36 ra đời đã gắn kết cộng đồng kiều bào với cộng đồng
trong nước, khẳng định quan điểm của Nhà nước ta coi cộng đồng kiều bào là một bộ
phận không thể tách rời, tranh thủ được sự ủng hộ của kiểu bào đóng góp vào cơng
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
3. Phương hướng của đường lối chính sách và hoạt động đối ngoại của
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Qua 30 năm đổi mới các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được
nhiều kết quả, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Kiên định
trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc. Quản

16


lý và xây dựng biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển với các nước láng
giềng. Làm tốt công tác bảo hộ công dân.
Tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác; nâng cấp quan
hệ song phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn
diện; đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn.
Đã chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực

và quốc tế, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc.
Kiên trì cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên
biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đơng (COC).
Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thúc
đẩy phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Vị thế của nước ta trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng lên.
Tuy nhiên, công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật chủ
động và hiệu quả chưa cao. Quan hệ đối ngoại có mặt cịn hạn chế. Chưa tạo được
nhiều sự đan xen lợi ích kinh tế với các đối tác. Ngoại giao đa phương chưa phát huy
hết các lợi thế. Khai thác những thuận lợi trong hội nhập hiệu quả chưa cao. Chưa
chuẩn bị tốt các điều kiện để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức trong hội nhập.
Cơ chế phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế cịn bất cập.
Thơng tin về hội nhập quốc tế chưa được phổ biến rộng rãi đến cộng đồng doanh
nghiệp và người dân. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, doanh nhân chưa
đáp ứng kịp yêu cầu. Sự gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phịng, an
ninh, văn hóa, xã hội, ngoại giao nhân dân có mặt cịn hạn chế.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ
vững mơi trường hịa bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.
Một là, mục tiêu và lợi ích cao nhất của ta vẫn là giữ vững mơi trường hịa bình
và ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, tạo mọi
17


điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế năng động, bền vững. Do vậy, cần
tiếp tục hoàn thiện và kiên trì theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế. Theo đó, cần tích
cực xây dựng và triển khai thực hiện các khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài hiện có
với các đối tác theo đúng phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước", đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích,

củng cố an ninh đất nước và tạo môi trường thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển
kinh tế.
Hai là, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, cả song phương và đa phương, nhất
là hướng tới gia nhập WTO. Xây dựng, hoàn thiện chiến lược tổng thể và lộ trình cho
từng giai đoạn về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, làm
cơ sở chủ động điều hành và thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập.
Ba là, tập trung nỗ lực tạo chuyển biến cơ bản trong công tác ngoại giao phục
vụ kinh tế. Trọng tâm là triển khai các nhiệm vụ đã được quy định trong Nghị định
08/CP, tập trung vào công tác thơng tin và dự báo vĩ mơ, góp phần tạo môi trường và
khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các mặt hoạt
động kinh tế đối ngoại, hỗ trợ có hiệu quả các yêu cầu của doanh nghiệp, địa phương
trong kinh tế đối ngoại.
Bốn là, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các tổ chức quốc
tế và khu vực, trước hết với ASEAN, APEC, ASEM, Liên hợp quốc, WB, IMF, ADB
và với các tổ chức phi chính phủ, kết hợp hiệu quả của quan hệ song phương với
quan hệ đa phương, đẩy mạnh hoạt động và từng bước nâng cao vai trò của Việt Nam
trong các tổ chức này. Tích cực tổ chức thành cơng Hội nghị cấp cao APEC 14 tại Hà
Nội năm 2006.
Năm là, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của ngoại giao nhân dân và các
hình thức ngoại giao phong phú khác cùng với ngoại giao của Đảng và Nhà nước tạo
thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại.
18


Sáu là, tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài, mà trọng tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị; sửa
đổi, bổ sung và xây dựng mới chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người
Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, tham gia xây dựng đất nước; chú trọng
hơn nữa công tác bảo hộ cơng dân; triển khai nhiều biện pháp tích cực thực hiện chủ
trương hòa hợp dân tộc, hướng tới tương lai.

KẾT LUẬN
Trong thời kỳ đổi mới, việc quán triệt và triển khai có hiệu quả đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế theo
phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển" đã đem lại cho Việt
Nam một tầm vóc mới và một vị thế mới. Chưa bao giờ sự giao lưu giữa Việt Nam
với các nước ở khắp các châu lục, ở tất cả các cấp và trên tất cả các lĩnh vực lại diễn
ra năng động như từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay. Sự tổng hòa các mối
quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng, khu vực, nước lớn, các trung tâm
kinh tế - chính trị, bạn gần, bạn xa, kết hợp giữa đa dạng hóa với xác lập và củng cố
quan hệ với các đối tác tin cậy, các thị trường chiến lược, đã tạo cho Việt Nam thế đối
ngoại cân bằng, ổn định và vững chắc, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ đất nước.
Bằng chứng là qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với những thành
tựu đạt được trong hoạt động đối ngoại, chúng ta đã giành những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử, quan hệ quốc tế có những thay đổi sâu sắc: Chúng ta đã thiết lập quan
hệ với 185 nước trong tổng số 193 nước của Liên hợp quốc; tham gia vào 70 tổ chức
quốc tế, khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 15 đối tác trên thế
giới, 10 đối tác toàn diện, hợp tác nhiều mặt với bạn bè khác tạo ra sự tin cậy gắn bó
chặt chẽ tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất nước, đồng thời cũng tranh thủ

19


được sự ủng hộ, hỗ trợ của bạn bè quốc tế trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước…
Những thành tích đối ngoại to lớn trên đây đã khẳng định tính đúng đắn của
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định bản lĩnh lãnh đạo của
Đảng ta và khả năng của đất nước ta vững vàng vượt qua mọi thử thách của thời gian
và thời cuộc để vươn tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh. Những thành tích đối ngoại ấy cùng với thành tựu phát triển chung của đất
nước đã tạo tiền đề thuận lợi và cần thiết để chúng ta phát huy hơn nữa vai trò của đối
ngoại trong bối cảnh tình hình mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
tăng thêm thế và lực cho đất nước để nắm bắt vận hội mới, đồng thời đối phó với
thách thức mới.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử,
2. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
3. Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006
4. "Báo cáo chính trị tại Đại hội VI", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại
hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 104
5. Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 324
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr
147
7. "Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 465
8. Những thành tựu đường lối đối ngoại của Việt Nam sau 30 năm đổi mới đất
nước Nguyễn Thị Thùy Giao- Khoa Xây dựng Đảng- 2016
9. VOV.vn, 30 năm đổi mới và những bài học ngoại giao lớn của Việt Nam, Châu
Anh/VOV - Trung tâm Tin

21




×