Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Xóa bỏ dần định kiến giới trong gia đình, tại cơ quan và trong xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.07 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................................2
1. Khái niệm cơ bản về định kiến giới...............................................................................2
1.1. Khái niệm định kiến giới............................................................................................2
1.2. Đặc điểm của định kiến giới.......................................................................................4
2. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình, tại
cơ quan và trong xã hội.....................................................................................................6
2.1. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.6
2.1.1. Trong phân cơng lao động trong gia đình......................................................7
2.1.2. Trong việc tiếp cận và kiểm sốt các nguồn lực trong gia đình....................8
2.1.3. Trong việc quyết định các vấn đề trong gia đình..........................................8
2.1.4. Trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và ni dạy con cái..................8
2.2. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với thực hiện bình đẳng giới tại cơ quan...........11
2.3. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong xã hội..12
3. Đề xuất một số giải pháp nhằm xóa bỏ dần định kiến giới tại Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập quốc tế...............................................................................................................13
KẾT LUẬN.....................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................17


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả đáng trân trọng về thúc đẩy bình
đẳng giới, được đánh giá là một trong những quốc gia có khung pháp lý về bình
đẳng giới khá tiến bộ, đồng thời, việc thực hiện bình tẳng giới trong thực tiễn
cũng đạt được những kết quả tích cực. Trong các nhân tố thúc đẩy sự phát triển
của xã hội mang tính bền vững, nhân tố con người có vai trị quan trọng, quyết
định nhất. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Quá trình phát triển sẽ bị hạn chế nếu như một nửa nhân loại là phụ nữ vẫn bị
phân biệt, đối xử và kìm hãm sự phát triển. Trên thực tế, phụ nữ vẫn còn kém
hơn nam giới nhiều ở bậc học vấn cao, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tham


gia quản lý và ra quyết định. Cơ hội có việc làm so với nam giới còn hạn chế,
phụ nữ gặp nhiều khó khăn khi tìm kiếm việc làm. Bạo lực gia đình, tệ nạn mại
dâm, bn bán phụ nữ và trẻ em gái vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức. Tỷ lệ cán
bộ nữ trong lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hóa, khoa học –
cơng nghệ còn quá thấp.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới khơng có sự khác
biệt về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy nhiên, cho đến
bây giờ các định kiến giới vẫn cịn tồn tại và có thể gặp ở nhiều nhóm xã hội: cả
phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ lãnh đạo - những người có vai trò quyết
định đối với việc hoạch định và thực hiện chính sách đối với phụ nữ và người
dân.
Có khá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng bất bình đẳng giới, song một
vấn đề bức xúc nhưng khơng dễ gì thay đổi ngày một ngày hai, đó là định kiến
giới. Định kiến giới - “ rào cản” đối với sự phát triển của bình đẳng giới. Vì
những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm xóa bỏ dần định
kiến giới trong gia đình, tại cơ quan và trong xã hội trong thời kỳ hội nhập
quốc tế” làm bài thu hoạch cho môn học Giới trong Lãnh đạo, Quản lý. Do kiến
thức và tầm hiểu biết cịn hạn chế nên bài viết của tơi khơng tránh khỏi sai sót rất
1


mong được thầy, cơ giáo xem xét và góp ý kiến cho bài tiểu luận được hoàn
thiện.
Hà Nội, ngày 23 tháng 10 năm 2019.

2


NỘI DUNG
1. Khái niệm cơ bản về định kiến giới

1.1. Khái niệm định kiến giới
Có thể nói, định kiến xã hội tạo nên một sự phân biệt xã hội. Đó là sự thay đổi
hình ảnh của chính mình hoặc làm méo mó, biến dạng về bản thân khiến chủ thể
mang định kiến có sự đánh giá lạc hướng về mình, tạo nên một sự phân biệt ứng xử
với người khác; hoặc đánh giá những phẩm chất hay ứng xử của người khác tùy theo
những mong đợi của chúng ta và tạo ra sự biện minh xã hội. Định kiến giới cũng vậy,
nó có thể làm phụ nữ hay nam giới đánh giá khơng đúng hình ảnh bản thân mình
cũng như đánh giá sai người khác. Định kiến giới làm đơn giản hóa q trình nhận
thức của con người về giới khác, ngăn cản hiểu biết chính xác những người khơng
cùng giới tính với mình.
Trong lịch sử, mỗi xã hội đã có sự phân biệt về vai trị xã hội của nam giới và
nữ giới. Những khác biệt trong quan niệm về vai trò giới này phản ánh những thành
kiến, còn được gọi là những định kiến xã hội, do các thành viên trong xã hội tạo ra.
Định kiến giới còn được gọi là chủ nghĩa giới tính và dựa trên khuôn mẫu giới về nữ
giới và nam giới. Các khuôn mẫu về nam giới có xu hướng mang lại lợi thể cho nam
giới nhiều hơn so với khuôn mẫu về phụ nữ. Ví dụ: quan niệm cho rằng “nam giới
làm lãnh đạo tốt hơn phụ nữ” tạo thuận lợi cho nam giới trong q trình bầu cử. Các
khn mẫu có tác động tiêu cực đối vói phụ nữ ừong xã hội thường được thừa nhận
bời cả nam giới và nữ giới, vừa do cộng đồng xã hội thiếu sự tôn trọng và tin tưởng
đối với phụ nữ, vừa do phụ nữ thiếu sự tự tơn và tự tin đói với bản thân mình. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, các khn mẫu giới cũng có tác động tiêu cực đói với nam
giới. Quan niệm “nam giới là trụ cột trong gia đình” hay khn mẫu nam tính (mạnh
mẽ người bảo vệ, che chở) tạo ra những áp lực cho nam giới trong vai trị kiếm tiền,
ni sống gia đình... Như vậy, có thể nói các định kiến giới, khn mẫu giới có tác
động tiêu cực đến sự phát triển của cả nữ, nam và xã hội nói chung.
3


Hiện nay có rất nhiều quan niệm về định kiến giới. Sau đây là một số khái
niệm về định kiến giới được đưa ra trong các tài liệu về giới.

- Định kiến giới là suy nghĩ mà mọi người có về những gì phụ nữ và nam giới
có khả năng và hoạt động mà họ có thể làm.
- Định kiến giới là tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, cộng đồng cụ
thể coi là thuộc tính của phụ nữ hoặc nam giới (ví dụ: nội trợ khơng phải việc của đàn
ông). Các định kiến giới thường không phản ánh đúng khả năng thực tế của từng giới
mà thường giới hạn những gì mà xã hội cho phép hoặc mong đợi các cá nhân thực
hiện.
- Định kiến giới là các giả định hay lòng tin được thể hiện mà khơng có ngun
nhân hay cơng lý hay nói chung là khơng có lợi và có thể dẫn đến gây hại có thể chất
lẫn tâm lý cho phụ nữ và nam giới.
- Định kiến giới là việc nhìn nhận khơng đúng về khả năng của nam giới hoặc
nữ giới; về tính cách mà nam hoặc nữ nên có; về loại hình hoạt động, nghề nghiệp mà
nam hoặc nữ có thể làm hoặc khơng thể làm.
Tại Điều 5 Luật Bình đẳng giới được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
29/11/2006 nêu rõ: “Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu
cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ”. Mặc dù trong thời đại
hiện nay, định kiến giới đã có phần tiến bộ hơn, song vẫn chưa thoát khỏi xu hướng
đã tồn tại từ thời phong kiến, đó là mang lại đặc quyền đặc lợi cho nam giới và làm
cho người phụ nữ bị yếu thế. Đây chính là lý do gây áp lực cho cả hai giới trong việc
thực hiện vai trị, trách nhiệm và quyền lợi của mình trong cuộc sống, đồng thời là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới. Nói cách khác, đây là
những suy nghĩ phổ biến của cộng đồng xã hội về khả năng và công việc của nữ giới
và nam giới, tức là những gì nữ giới và nam giới có thể làm, cần làm và nên làm. Ví
dụ: Với chuẩn mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là “tứ đức” (Cơng,
dung, ngơn, hạnh) thì hình ảnh một người phụ nữ theo đúng nghĩa thường phải là một
người: Khéo léo, đảm đang trong việc nhà, đẹp theo hướng nhẹ nhàng, đoan trang, lời
4


nói nhỏ nhẹ, từ tốn, và ln giữ tiết hạnh, phục tùng người đàn ơng. Theo đó, nếu một

người phụ nữ không khéo léo trong công việc nội trợ nhưng năng động hoạt bát, làm
kinh tế giỏi, có vẻ bề ngồi cá tính và ăn nói sắc sảo, và có thể thảo luận, “tranh cãi”
cùng ngừơi khác giới thì khơng được đánh giá cao vì so sánh với mẫu hình người phụ
nữ đã được định khn thì rõ ràng một cơ gái như vậy là khơng “nữ tính”. Cách nhìn
nhận đó cho thấy rõ sự định kiến với người phụ nữ. Bởi khơng phải cứ là phụ nữ thì
phải lo toan hết cơng việc nhà, cịn người đàn ơng phải thụ động và phục tùng nam
giới. Thực tế có nhiều phụ nữ rất năng động hoạt bát, quyết đoán, đảm nhiệm được
những vị trí vai trị quan trọng trong xã hội. Tuy nhiên, do định kiến về giới nên
không phải bao giờ họ cũng được gia đình và xã hội tạo điều kiện để phát huy hết tài
năng của mình.
Những thay đổi trong định kiến giới theo thời gian đã được chứng minh ở một
số khu vực trên thế giới. Đến đầu thế kỷ XXI sự khác biệt về vai trò xã hội của nam
giới và nữ giới ở một số xã hội như Hoa Kỳ và châu Âu đã thu hẹp lại. Các cơ hội
giáo dục và việc làm gia tăng cùng với sự gia tăng việc tham gia các hoạt động chính
trị xã hội của phụ nữ đã làm cho tình trạng bình đăng giới được cải thiện ờ nhiều xã
hội. Tuy nhiên, trong các xã hội khác - ví dụ như ở một số nước Trung Đơng - định
kiến giới vẫn tồn tại dai dẳng. Định kiến giới ở những xã hội này thường đặt vai trò
phụ nữ vào những bất lợi đáng kể về quyền con người và quyền cơng dân, ví dụ như
quyền bầu cử, ứng cử chính trị, quyền giao thiệp xã hội, quyền được bảo vệ về mặt
pháp lý...
1.2. Đặc điểm của định kiến giới
Thứ nhất, định kiến giới được xây dựng dựa trên một sự khái quát hóa về
người khác và dùng nó để đánh giá về nam giới hoặc phụ nữ mà khơng tính đến
những trường hợp cụ thể. Hành vi của con người là vô cùng phức tạp và khác nhau
trong từng trường hợp nên sự khái quát hóa của ta về con người dựa trên cơ sở giới
tính của người đó thường có khả năng làm ta bỏ qua những điểm quan trọng. Vì thế,
5


khi dùng định kiến giới để đánh giá về tính cách và khả năng của con người chỉ dựa

trên có sở giới tính của họ thì có nhiều khả năng những đánh giá đó là sai lầm.
Thứ hai, trong giao tiếp định kiến thường xuyên xuất hiện một cách tự động,
ngẫu nhiên mà nhiều khi ta khơng kiểm sốt được. Ngay cả khi ý thức của chúng ta
cũng có xu hướng biện minh cho định kiến của mình, đặc biệt khi định kiến đó lại
nhằm vào phụ nữ. Định kiến cho phép ta đánh giá người khác mà không cần nhớ
chính xác những gì là căn cứ để chúng ta đưa ra những đánh giá đó. Với sự “trợ giúp”
của định kiến giới, chúng ta có thể đánh giá về một cá nhân dựa vào việc nhận biết
giới tính của họ mà không cần tập trung quan tâm lắm đến người đó. Về lâu dài
chúng ta dễ chấp nhận những quan điểm đó là có cơ sở chắc chắn trên thực tế vì
chúng ta khơng nhận thức rằng định kiến đã góp phần tạo ra các cơ sở đó.
Thứ ba, chúng ta thường phản ứng với người đối thoại một cách không chủ ý
theo cách chúng ta chỉ lọc ra những hành vi khẳng định các định kiến của ta về họ.
Hãy tưởng tượng một phụ nữ được phỏng vấn vào vị trí giám đốc điều hành của cơng
ty tin học. Nếu người phỏng vấn tin rằng phụ nữ không có khả năng quản lý cơng ty,
nhất là một cơng ty mà dường như là “độc quyền” của nam giới thì sẽ đưa ra những
câu hỏi khó hơn cho các ứng cử viên nữ và sẽ chỉ trích câu trả lời của họ nhiều hơn.
Do đó, ứng cử viên nữ sẽ có thể lúng túng hơn khi trả lời và làm cho các câu trả lời
của họ kém thành công hơn so với các ứng cử viên nam dù trong trường hợp này họ
không hè kém khả năng so với ứng viên nam. Kết quả là người phỏng vấn đã khiến
ứng viên nữ hành động theo cách phù hợp với những định kiến của người phỏng vấn
rằng phụ nữ có trình độ kém hơn nam trong quản lý một cơng ty tin học.
Thứ tư, vì định kiến giới là một kiểu thái độ nên không phải định kiến lúc nào
cũng được phản ánh công khai trong hành động. Trong rất nhiều trường hợp cá nhân
mang định kiến nhận ra rằng mình khơng thể biểu lộ nó một cách trực tiếp, do có rất
nhiều lý do ngăn cản họ thực hiện điều này một cách rộng rãi. Ví dụ như các luật lệ,
áp lực xã hội, nỗi sợ hãi bị trả thù hoặc sợ bị người khác đánh giá về nhân cách.
Những “rào cản” này làm cho khơng ít cá nhân mang định kiến chỉ dám bày tỏ thái
6



độ của mình mà khơng thể hiện hành vi định kiến đối với đối tượng họ muốn chống
đối – dù là có ý thức hay vơ thức. Nhưng khi khơng cịn những rào cản và sự kiềm
tỏa như vậy thì những niềm tin, cảm giác tiêu cực thắng thế và nó được thể hiện một
cách cơng khai và trở thành sự phân biệt đối xử.
Có thể thấy, về nội dung, định kiến giới được xem là một trong những biểu
hiện của bất bình đẳng giới. Mặt khác, về chức năng, định kiến giới có chức năng xác
lập và duy trì những bất bình đẳng giới trong thực tế. Định kiến giới ban đầu có thể
xuất phát từ một nhận xét hoặc quan niệm về một sự việc, hiện tượng thực tế nào đó.
Định kiến giới trở thành sâu sắc hơn khi hiện tượng thực tế đã biến đổi nhưng những
niềm tin, những khuôn mẫu về giới vẫn giữ nguyên – trở thành những quan niệm hay
chuẩn mực cứng nhắc, không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra.
2. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình, tại cơ quan và trong xã hội
Trong đời sống xã hội, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn cịn tồn tại và nó được
điều khiển bởi hạt nhân cơ bản nhất là định kiến giới. Ở Việt Nam, trong tương quan
với nam giới, phụ nữ thuộc nhóm những người có thu nhập thấp. Tình trạng bất bình
đẳng giới trong việc tiếp cận và hưởng lợi ích từ các quyền, nguồn lực hoặc tiếng nói
thường gây bất lợi cho phụ nữ nhiều hơn, mặc dù chúng cũng có tác động xấu tới
những đối tượng khác trong xã hội. Cái giá mà chúng ta phải trả cho tình trạng bất
bình đẳng giới bao gồm hang loạt chi phí trực tiếp về phúc lợi xã hội, tăng trưởng
kinh tế, xóa đói giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống. Những hậu quả bất lợi
của bình đẳng giới khơng loại trừ một ai, thậm chí những thế hệ tương lai cũng tiếp
tục chịu thiệt thòi. Chúng ta thấy nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng giới là làm
chậm lại quá trình đạt tới những mục tiêu bình đẳng giới mà Chính Phủ đề ra; cản trở
nỗ lực xây dựng xã hội mà ở đó cả nam giới và phụ nữ đều được hưởng lợi ích từ
những thành tựu của sự phát triển. Đó là những hậu quả của định kiến giới gây ra.
Như vậy, định kiến giới có ảnh hưởng to lớn tới việc thực hiện bình đẳng giới
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội.
7



2.1. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình
Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình được thể hiện chủ yếu trên các khía cạnh: trong phân cơng lao động trong gia
đình, trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong gia đình, trong việc quyết
định các vấn đề trong gia đình, trong việc chăm sóc ni dạy con cái, trong việc thực
hiện kế hoạch hóa gia đình.
2.1.1. Trong phân cơng lao động trong gia đình
Xuất phát từ nền tảng định kiến giới là phụ nữ có thiên hướng về gia đình, nam
giới có thiên hướng về cơng việc và sự nghiệp, vì vậy có sự chênh lệch lớn về thời
gian làm việc và nghỉ ngơi của nam giới và phụ nữ trong gia đình. Chúng ta dễ dàng
nhận thấy, phụ nữ và nam giới cùng dành thời gian lao động sản xuất như nhau trong
cả cơng việc ngồi thị trường hoặc phi thị trường. Tuy nhiên, phụ nữ lại sử dụng phần
lớn thời gian mà nam giới dùng để nghỉ ngơi, giải trí để làm việc gia đình. Các cơng
việc gia đình cũng xé lẻ thời gian của người phụ nữ, tiêu tốn nhiều thời gian của họ
trong khi nam giới làm việc được tập trung hơn và có nhiều thời gian để nghỉ ngơi.
Gánh nặng này ảnh hưởng tới sức khỏe, thể chất của phụ nữ. Đây là một chỉ báo quan
trọng có nguồn gốc từ định kiến giới. Ở một khía cạnh khác, việc người phụ nư phải
đảm nhận hầu hết các cơng việc trong gia đình sẽ hạn chế trong thời gian họ tham gia
các công việc xã hội. Do đó, phụ nữ bị hạn chế về mặt nhận thức xã hội, khía cạnh
này phản ảnh chỉ bảo phát triển tinh thần ở phụ nữ bị hạn chế so với nam giới.
Để lý giải hiện tượng trên, có thể chỉ ra tối thiểu ba lí do cản trở việc nam giới
tham gia làm các công việc trong gia đình.
Thứ nhất, áp lực từ định kiến xã hội cho rằng “không phải việc của đàn ông”
hoặc quan niệm một người đàn ông làm các công việc nội trợ sẽ bị “mất đi khí chất
nam nhi”.

8



Thứ hai, bản thân nhiều người phụ nữ cũng coi đó là “việc của nữ giới” và
khơng u cầu, thậm chí khơng đánh giá cao sự tham gia của nam giới.
Thứ ba, nhiều trường hợp vượt qua được áp lực từ phía xã hội hoặc phía người
vợ thì nam giới khơng cịn kĩ năng làm các cơng việc trong gia đình do họ khơng
được dạy và tập luyện từ nhỏ.
Trước những lí do này, bản thân người nam giới thường bị đẩy xa khỏi cơng
việc gia đình, khiến họ dần dần đi đến chỗ thực sự tin rằng công việc nội trợ đúng là
việc của phụ nữ.
2.1.2. Trong việc tiếp cận và kiểm sốt các nguồn lực trong gia đình
Xuất phát từ nhận thức gia trưởng, người vợ khơng có tiếng nói trong gia đình.
Vì vậy, người chồng nắm giữ tất cả các quyền tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực
trong gia đình.
Trong cơ hội tiếp cận nguồn lực giáo dục: Xuất phát từ định kiến giới là con
trai có năng lực tư duy và trí tuệ vượt trội so với con gái. Mặt khác, nhiều bậc cha mẹ
tin rằng con trai sẽ có triển vọng, có được việc làm tốt hơn so với con gái có cùng
trình độ học vấn, do đó, đầu tư đi học được dành cho con trai nhiều hơn. Vì vậy,
trong các gia đình có sự thiên vị nhiều hơn đối với con trai trong cơ hội tiếp cận giáo
dục của trẻ trai và trẻ gái. Điều đó sẽ làm hạn chế trình độ học vấn của nữ giới.
Trong việc tiếp cận và sở hữu tài sản: Trong gia đình, người chủ hộ thường là
nam giới và là người có quyền tiếp cận và sở hữu tài sản. Ví dụ, trong nhiều năm qua
pháp luật Việt Nam quy định người chủ hộ là người đứng tên sở hữu đất đai. Chính
quy định đó của pháp luật đã gây ra cho phụ nữ những khó khăn nhất định khi họ cần
vay vốn để phát triển sản xuất, khi yêu cầu phân chia đất và nhà ở trong trường hợp
góa bụa hoặc ly hơn.
2.1.3. Trong việc quyết định các vấn đề trong gia đình
Xuất phát từ định kiến giới rằng phụ nữ thường nông nổi, do dự và do đó
khơng có khả năng quyết định và liên quan đến việc xác định quyền quyết định
9



thường thuộc về chủ hộ gia đình, người trụ cột trong gia đình. Vì vậy, trên thực tế phụ
nữ hầu như có rất ít quyền quyết định trong gia đình. Quyền quyết định cuối cùng
những vấn đề quan trọng thường vẫn thuộc về nam giới.
2.1.4. Trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và ni dạy con cái
Định kiến giới là một hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến, chúng gây nên những
hậu quả tiêu cực cho cả nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên, trong nhiều nền văn hoá khác
nhau, định kiến giới và phân biệt đối xử vẫn đang tồn tại. Sự hiện diện của chúng
không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau: giáo
dục, văn hoá - xã hội, luật pháp, truyền thông, đối xử trong gia đình, cộng đồng.v.v.
Trong số những yếu tố trên thì yếu tố giáo dục gia đình có sự ảnh hưởng sớm nhất,
trực tiếp, liên tục nhất và tác động một cách có ý thức. Bởi gia đình ln đóng vai trị
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của một con người. ở đó,
những quan niệm, niềm tin, giá trị văn hố, định kiến giới, khn mẫu hành vi... được
chuyển tải từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giáo dục của ông bà, cha mẹ, anh chị xuất phát từ mong muốn con cháu mình
biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, từ tốn, lễ phép, vâng lời người lớn, thưa gửi, cảm
ơn, xin lỗi, khơng nói tục, chửi bậy, khơng nói dối, biết trung thực, tự giác học tập.
Đây là những điều dạy bảo chung của ông bà, cha mẹ đối với tất cả con cháu, mong
muốn con cháu trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Tuy nhiên trong việc giáo dục
trẻ, giáo dục gia đình ln tn theo những khn mẫu quy định đối với từng giới.
Chẳng hạn với trẻ trai, bố mẹ thường dạy trẻ sống phải có bản lĩnh, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, can đảm, độc lập và có chính kiến trong cơng việc, ln chứng tỏ
mình là người đàn ông trong mọi nơi, mọi lúc. Đối với trẻ gái phải dịu dàng, kín đáo,
nhẹ dàng, trong giao tiếp, ăn nói, xưng hơ lễ phép, người lớn bảo phải biết nghe lời
và làm đúng những gì người lớn bảo.
Rõ ràng, ảnh hưởng của nếp nghĩ truyền thống về người đàn ông phải mạnh mẽ
(liên quan đến việc chỉ huy, ra lệnh), người đàn bà phải dịu dàng, đảm đang (liên
10



quan đến việc vâng lời) có sức sống dai dẳng, bền bỉ, bám chặt vào tư tưởng của các
bậc cha mẹ. Sự quy gán cho con trai và con gái những phẩm chất nhân cách mang
đặc trưng của mỗi giới có ý nghĩa củng cố sự ổn định, nhưng hạn chế sự phát triển
toàn diện nhân cách của trẻ, hạn chế vai trị của nam giới trong việc chăm sóc gia
đình, vai trị của nữ giới trong hoạt động xã hội.
Thực tiễn cho thấy, trẻ phải chịu áp lực rất lớn từ những quan niệm trên. Các em
phải tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những khuôn mẫu cụ thể của mỗi
giới. Quan sát trẻ chơi đồ chơi, chúng ta thấy nếu bé trai ôm búp bê sẽ bị chế giễu là
"con gái", là "uỷ mị", bé gái chơi súng ống sẽ bị cha mẹ cấm. Nếu chúng đi "lộn sân"
sẽ bị chê cười.
- Định kiến giới trong việc giáo dục con cái của cha mẹ thể hiện rất sớm. Chẳng
hạn trong việc việc mua đồ chơi cho trẻ. Thông thường các bậc cha mẹ mua đồ chơi
gì cho trẻ? Từ quan sát thực tế, chúng tơi nhận thấy cha mẹ mua búp bê, đồ hàng cho
con gái, mua đồ lắp ráp cơ khí như máy bay, tàu hoả, ơ tơ cho con trai. Đồ chơi có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ. Những hoạt
động của trẻ với đồ chơi khơng chỉ góp phần kích thích tính sáng tạo, giúp trẻ phát
triển trí tuệ, khả năng tư duy linh hoạt, nhậy bén, giúp trẻ tiếp cận và làm quen với
thế giới xung quanh, trẻ dễ dàng hoà nhập vào cuộc sống. ẩn chứa đằng sau những đồ
chơi mà cha mẹ mua cho trẻ là những mong muốn hình thành ở con mình những tính
cách, những năng lực đặc trưng cho mỗi giới.
Đối với trẻ gái những đồ chơi như búp bê, đồ hàng, sẽ giúp trẻ hình thành tính
dịu dàng. Các đồ chơi này cũng tạo điều kiện cho trẻ làm quen với công việc nội trợ,
chăm sóc và ni dạy con cái sau này. Bằng việc mua cho trẻ gái những đồ chơi này
bố mẹ đã vơ hình chung quy định ngầm cho trẻ gái những phẩm chất, năng lực mà
một người phụ nữ phải có, những công việc mà phụ nữ phải làm trong tương lai.
Những đồ chơi mua cho trẻ trai như ô tô, tàu hoả, đồ lắp ráp cơ khí... hình thành ở trẻ
trai tính mạnh mẽ, can đảm. Nhờ trải nghiệm trong khi chơi với đồ chơi, tạo cho cho
11



trẻ sự say mê, hứng thú, vun đắp cho trẻ những ước mơ trở thành phi cơng, kỹ sư cơ
khí, xây dựng, những cầu thủ bóng đá. Mang ý nghĩa hướng nghiệp rất lớn với trẻ
trai, trong khí đó, đồ chơi của trẻ gái ít có những định hướng nghề nghiệp như vậy.
Xem xét cơ hội tiếp cận với nguồn lực giáo dục, chúng ta thấy có sự đầu tư khác
nhau giữa trẻ trai và trẻ gái của các bậc cha mẹ. Các gia đình có sự thiên vị nhiều hơn
đối với trẻ trai trong việc đầu tư giáo dục con cái. Điều này xuất phát từ định kiến
giới là con trai có năng lực lao động và cơ hội thành đạt cao hơn so với con gái. ở
nông thôn cịn có quan niệm cho rằng con gái phải sớm lập gia đình, tránh nhỡ thì,
con gái là con người ta, từ đó mà các bậc cha mẹ ít đầu tư cho con gái học lên cao.
Mặt khác, con gái có ít thời gian rỗi học bài ở nhà hơn so với trẻ trai. Trẻ gái phải phụ
giúp cha mẹ việc gia đình, các em phải hồn tất cơng việc gia đình mới nghĩ đến việc
học tập.
Ngồi những phẩm chất tâm lý, nhân cách chung các cha mẹ mong muốn hình
thành ở con cái mình, họ cịn mong muốn con cái của mình trở thành những người có
phâm chất tâm lý, nhân cách đặc trưng của giới nam hoặc giới nữ. Những mong
muốn này chịu ảnh hưởng nhiều từ những định kiến, những khuôn mẫu về mỗi giới.
Những mong muốn này còn tạo ra sự khác nhau trong hành vi đối xử của họ đối với
trẻ trai hoặc trẻ gái.
Chính cách nhìn nhận này đã khiến khơng ít bậc cha mẹ dành nhiều ưu ái hơn
trong việc đầu tư cho con trai hoc hành, ưu tiên các cơ hội để giúp con trai phát triển.
Việc nuôi dạy những bé trai và bé gái khác biệt nhau sẽ gây ra những tác hại to lớn
đối với cá nhân và xã hội. Trẻ em lớn lên không thể đảm nhận được những vai trò xã
hội khác nhau và cơ hội lựa chọn nghề nghiệp của chúng bị giới hạn. Ở đó con trai
được học cách đòi hỏi và ra lệnh, con gái học được cách đề nghị và vâng lời. Vì vậy,
gia đình là thiết chế xã hội đầu tiên góp phần hình thành định kiến về giới.

12



2.2. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong cơ
quan
Tại khơng ít tổ chức, cơ quan, một số phụ nữ không được đề bạt làm lãnh đạo
(ngay cả khi người phụ nữ này có trình độ và kinh nghiệm phù hợp), bởi mọi người
vẫn cho rằng, chỉ có nam giới mới nên làm việc "đại sự", phụ nữ thì chỉ nên làm cơng
việc nhẹ nhàng để có thời gian dành cho gia đình. Tư tưởng này không chỉ ở người
dân, mà cả trong lãnh đạo, đặc biệt ngay cả trong một bộ phận phụ nữ cũng có định
kiến với chính giới mình. Ngồi hiện tượng "níu kéo áo nhau" thấy ở một số phụ nữ,
thì vấn đề ở đây vẫn là do định kiến giới, coi nam giới ở vị trí lãnh đạo tốt hơn là phụ
nữ. Vì vậy, trong các kỳ bầu cử, những người gạt phụ nữ khỏi danh sách bầu cử có
khi khơng phải là nam, mà lại là nữ. Không ủng hộ phụ nữ làm công tác xã hội là một
trong những nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp,
chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Phụ nữ
chiếm tỷ lệ không thua kém trong nhiều ngành nghề và học tập trong các trường, lớp
đào tạo (đại học: 36,24%; cao đẳng: 50,01%), nhưng số nữ tham gia lãnh đạo, quản
lý đạt tỷ lệ thấp. Nữ lãnh đạo, quản lý ở cấp Trung ương, cấp vụ trở lên và cán bộ nữ
chủ chốt cấp tỉnh hiện nay hầu hết ở độ tuổi trên 50; tỷ lệ cán bộ nữ cấp phòng ở
huyện, quận giảm; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XII thấp hơn tỷ lệ nữ đại biểu
Quốc hội khóa XI (khóa XI là 27,31%, khóa XII là 25,76%). Có thể kể đến các nhà
chính trị là nữ giới rất tiêu biểu như : Bà Nguyễn Thị Bình, Ngun Phó Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quỹ Hịa bình và phát triển Việt Nam thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị Việt Nam; bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội;
bà Tịng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch quốc hội ; bà Trương Thị
Mai, Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Dân vận Trung ương; Bà Nguyễn Phương
Nga, Bí thư Đảng đồn, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam…
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới khơng có sự khác biệt
về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy nhiên, trong thực tế, các
định kiến giới vẫn còn tồn tại và có thể gặp ở nhiều nhóm xã hội: cả phụ nữ và nam
13



giới, cả trong cán bộ lãnh đạo – những người có vai trị quyết định đối với việc hoạch
định và thực hiện chính sách đối với phụ nữ – và người dân.
2.3. Ảnh hưởng của định kiến giới đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong xã
hội
Định kiến xã hội về vai trị giới đã bó hẹp phạm vi hoạt động của phụ nữ trong
khn khổ gia đình và ngăn cản phụ nữ được tự do tham gia vào thị trường lao động,
được lựa chọn những cơng việc có trả lương. Mặt khác, định kiến giới nhìn nhận phụ
nữ như những lao động khơng có kĩ năng, thiếu quyết đoán và thiếu tham vọng, trong
khi nam giới là người có tham vọng, lại mạnh mẽ cả về thể chất và trình độ tay nghề.
Những định kiến này bắt nguồn từ việc dùng những phẩm chất ở nam giới để áp đặt
hoặc địi hỏi đối với nữ giới mà khơng tính đến thực tế hoặc xuất phát điểm của phụ
nữ. Vì vậy, các yếu tố như tuyển dụng lao động, tiền lương, uy tín nghề nghiệp và
triển vọng thăng tiến…. phụ nữ thường gặp nhiều bất lợi hơn nam giới.
Trong lĩnh vực tuyển dụng lao động, một số ngành nghề không tuyển dụng lao
động nữ mà chỉ tuyển lao động nam. Điều đó đã vơ tình gạt phụ nữ ra khỏi những
lĩnh vực, nghề nghiệp có khả năng tạo thu nhập, giảm thiểu cơ hội tìm việc làm của
phụ nữ và giới hạn phạm vi hoạt động của họ. Những hình thức tuyển dụng lao động
có sự phân biệt đơi xử trên cơ sở giới ngầm nhấn mạnh và đề cao lợi thế cạnh tranh
của nam giới trên thị trường lao động.
Những định kiến giới dần đẩy phụ nữ từ trình độ ngang bằng với nam giới ở
đầu và trở thành ngày càng tụt hậu hơn. So với nam giới, nữ giới ít có triển vọng
thăng tiến trong hầu hết các lĩnh vực nghề nghiệp. Sự phân biệt đối xử này xuất phát
từ định kiến giới rằng phụ nữ kém thơng minh và do dự hơn nam giới.
Ngồi ra định kiến giới còn ảnh hưởng to lớn đến việc thực hiện bình đẳng giới
trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: Khoa học, cơng nghệ; văn hóa,
thơng tin, thể dục, thể thao và trong lĩnh vực y tế.

14



3. Đề xuất một số giải pháp nhằm xóa bỏ dần định kiến giới tại Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế
Xuất phát từ những ảnh hưởng tiêu cực của định kiến giới như trên, việc xóa
bỏ dần định kiến giới tại Việt Nam là một việc cần làm với một số giải pháp như sau:
Một là, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho người dân, cộng đồng và xã
hội thông qua công tác tuyên truyền về giới góp phần thay đổi nhận thức về giới.
Những hình ảnh phụ nữ gắn với vai trò xã hội, nam giới làm cơng việc gia đình đang
dần làm thay đổi nhận thức trong công chúng rằng, nam hoặc nữ đều có thể làm bất
cứ cơng việc gì phù hợp với khả năng của họ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội mà
khơng có sự phân định rõ ràng cho một giới nào khác. Từ nhận thức giới được thay
đổi thơng qua hình tượng giới, hành vi giới sẽ thay đổi dần theo hướng tiến bộ bình
đẳng nam nữ. Một mặt chúng ta khẳng định khả năng trí tuệ của hai giới như nhau
nhưng mặt khác chúng ta cũng thừa nhận sự khác biệt về giới tính để đưa phụ nữ vào
đúng vị trí, làm tốt chức năng của mình. Phụ nữ ngày nay trong xu thế phát triển sẽ
ngày càng bộc lộ những phẩm chất mới. Tất cả những phẩm chất ấy cần được phát
huy, nếu không bị định kiến trói buộc thì sẽ trở thành sự tiến bộ, phát triển và họ sẽ
đóng góp được rất nhiều cho sự phát triển của đất nước.
Hai là, để có thể phát huy được vai trò và khả năng của phụ nữ, các dịch vụ xã
hội dành cho gia đình cần được phát triển một cách rộng rãi và phù hợp với thu nhập
để phụ nữ dễ dàng được tiếp cận. Tạo điều kiện cho phụ nữ đầu tư sản xuất, kinh
doanh, cải thiện thu nhập, có tiếng nói trong gia đình và từ đó ít lệ thuộc hơn vào
người chồng. Khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình đẳng trong một số lĩnh vực
như: quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, các phúc lợi xã hội, chế độ bảo hiểm …
Ba là, phụ nữ cần được giảm bớt gánh nặng gia đình. Muốn vậy, khơng chỉ
chia sẻ, nam giới cần phải tham gia vào cơng việc gia đình cùng với phụ nữ. Tuy
nhiên, trong khi bình đẳng giới đang là một quá trình thì việc nam giới chia sẻ cơng
việc gia đình với phụ nữ cũng có một ý nghĩa to lớn. Chính sự chia sẻ và cảm thông
15



của người chồng đã làm cho nhiều người phụ nữ đạt được thành công trong sự
nghiệp.
Bốn là, lãnh đạo ở những cơ quan, đơn vị có nhiều phụ nữ cần được nâng cao
nhận thức giới để từ đó có được công bằng giới trong tuyển dụng, đào tạo, đề bạt.
Đặc biệt, trên phạm vi toàn xã hội, cần tạo điều kiện để người phụ nữ có thời gian
làm cơng việc gia đình, khơng nên coi phụ nữ cũng như nam giới trong việc phân
cơng, địi hỏi, u cầu mà khơng tính đến việc người phụ nữ phải thực hiện thiên
chức làm mẹ.
Năm là, đối với bản thân phụ nữ, cũng cần có sự kết hợp hài hịa chức năng xã
hội và gia đình. Bởi đây là nét đặc trưng của phụ nữ nước ta. Là phụ nữ thường phải
có gia đình, phải sinh con và ni dạy con. Đối với phụ nữ, dung hịa giữa gia đình và
cơng việc xã hội là điều không mấy dễ dàng. Tuy nhiên đã có nhiều phụ nữ biết cách
giải quyết tốt hai chức năng này và đã trở thành người mẹ hiền, vợ đảm, lại là nhà
quản lý giỏi, nhà khoa học thành đạt. Kinh nghiệm của họ mà nhiều phụ nữ cần học
tập là, cố gắng thu xếp một cách khoa học để vừa có thời gian cho gia đình, vừa hồn
thành tốt công việc xã hội.
Các giải pháp trên đây tưởng chừng khơng khó khi thực hiện, nhưng thực sự
đây là cả một vấn đề địi hỏi phải có sự thống nhất cao trong tư tưởng và hành động
của các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý, của người dân, đặc biệt của cả
nam và nữ. Bởi vì, như Bác Hồ đã từng nói, trọng trai, khinh gái là thói quen mấy
ngàn năm để lại, nó ăn sâu trong nếp nghĩ việc làm của người dân…, giải phóng phụ
nữ đó là cuộc cách mạng to và khó.

16


KẾT LUẬN
Suy nghĩ và hành động của mỗi chúng ta trong cuộc sống luôn bị chi phối bởi
những nếp nghĩ cũ, những thói quen cũ, đặc biệt là những định kiến của một cộng

đồng, một địa phương, một nhóm về một vấn đề nào đó, chẳng hạn như vấn đề dân
tộc có định kiến dân tộc, vấn đề nghề nghiệp có định kiến nghề nghiệp, vấn đề vị trí,
vai trị của phụ nữ và nam giới trong xã hội có định kiến giới.
Trong số này, định kiến giới được thể hiện dưới nhiều hình thức trong cuộc
sống. Ví dụ, trong ca dao: “Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai
cũng từng”; trong ngôn ngữ hàng ngày “Nam là vàng, nữ là vải”; trong phân công lao
động gia đình phụ nữ là nội trợ, nam giới là trụ cột gia đình, lo kiếm tiền; trong việc
đầu tư vào giáo dục con cái: con trai sẽ được động viên, khuyến khích học lên cao,
con gái học để biết đọc, biết viết sau đó ở nhà giúp việc gia đình một vài năm rồi đi
lấy chồng. Như vậy, định kiến giới là sự nhìn nhận khơng đúng về khả năng của nam
giới và nữ giới, về phẩm chất nhân cách mà nam hoặc nữ nên có, về loại hình hoạt
động và nghề nghiệp mà nam hoặc nữ có thể làm được hoặc không thể làm được. Các
17


định kiến giới thường không phản ánh đúng khả năng thực của mỗi giới và thường
giới hạn trong những gì mà xã hội cho phép hoặc mong đợi các cá nhân thực hiện.
Định kiến giới là một hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến, điều đáng nói là
những định kiến giới này có ở mọi thành phần xã hội, kể cả trí thức chúng gây nên
những hậu quả tiêu cực cho cả nam giới và phụ nữ. Do vậy, xóa bỏ định kiến giới là
một việc làm rất cần thiết và cấp bách, là để đạt được mục tiêu bình đẳng giới – một
mục tiêu quan trọng trong các văn kiện quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Cơng
ước Liên Hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW),
Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC), các mục tiên Thiên niên kỷ...Việt Nam đã
ký, tham gia các công ước quốc tế trên. Việc Việt Nam ban hành Luật Bình đẳng giới
thể hiện quyết tâm trong việc xóa bỏ hình thức phân biệt đối xử với nam, nữ, là câu
trả lời đầy đủ nhất về các khuyến nghị của Ủy ban CEDAW với Việt Nam trong việc
thực hiện Công ước CEDAW.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử,

2. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
3. "Báo cáo chính trị tại Đại hội VI", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại
hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 104
4. Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 324
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr
147
6. "Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 465
7. Nguyễn Vân Anh (Chủ biên) (2008), Phịng chống bn bán người, Trung tâm
Nghiên cứu và ứng dụng Khoa học về Giới - Gia đình -Phụ nữ và vị thành niên
(CSAGA), Hà Nội.
8. Hỏi và đáp về Luật Bình đẳng giới, Luật gia Nguyễn Văn Thung (Biên soạn),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
18


9. Trần Thị Minh Đức (Chủ biên), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới – Lý
thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
10.Tài liệu hội thảo khoa học, Luật Bình đẳng giới – Một số vấn đề nhận thức và
vận dụng, Hội thảo Khoa học cấp trường, Tháng 8/2007, Cơng đồn Trường Đại
học Luật Hà Nội.
11. Luật bình đẳng giới 2006, Quốc hội Việt Nam
12. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận chính
trị: Giới trong lãnh đạo, quản lý, Nxb.Lý luận chính trị, H.2018.
13. Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, Chính phủ
Australia và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: Hướng bình đẳng giới ở
Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ, Hà Nội, 2016.
14. Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội: Các yếu tố xã hội quyết định bất bình đẳng
giới ở Việt Nam, Hà Nội, 2015.


19



×