Mơn Pháp luật và đạo đức báo chí
Mục lục
Câu 1: Hãy phân tích các nguyên tắc trong quy định về đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam hiện nay? Lấy ví dụ cho từng nguyên tắc? (Lưu ý: sử
dụng quy định hiện hành từ 1/1/2017 và phân tích từng nguyên tắc, mỗi nguyên tắc
cho ví dụ minh họa)
Câu 2: Hãy chọn và phân tích 1 điều trong luật Báo chí 2016 mà bạn tâm đắc nhất?
Lấy ví dụ chứng minh?
1.
Mở đầu
Thực hiện quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 8 Luật Báo chí: “Ban hành và tổ
chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”, tháng 122016, Hội Nhà báo Việt Nam đã ban hành “10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo Việt Nam”. Đây là các chuẩn mực rất cụ thể và thiết thực nhằm
xác định trách nhiệm đạo đức người làm báo trong hoạt động nghề nghiệp. Ngày 11-2017, Luật Báo chí năm 2016 chính thức có hiệu lực
Nội dung 10 quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo:
Điều 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất nước, vì hạnh
phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Điều 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật bản quyền và các
quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; nội quy, quy chế của cơ
quan báo chí nơi công tác.
1
Điều 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo vệ công lý
và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia rẽ, kích động
xã hội, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc và tình đồn kết, hữu nghị giữa các
quốc gia, dân tộc.
Điều 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không xâm phạm
đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Điều 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện
truyền thơng khác.
Điều 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của pháp luật.
Điều 7: Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ, phấn
đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại.
Điều 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ và phát huy các giá trị văn
hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Điều 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy định trên,
đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm của
người làm báo.
2. Câu 1: Phân tích nguyên tắc và ví dụ minh họa
2.1.
Điều 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế.
- Hiến pháp khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng". Bản chất cách mạng và khoa học đó của Đảng là cơ sở quy định vai trò
lãnh đạo của Đảng. Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai
cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý
tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của
2
Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ
bản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy tự
phê bình và phê bình làm quy luật phát triển...
- Báo
chí là lực lượng quan trọng phản ánh đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, hoạt động của các Bộ, ngành, các địa phương, nêu
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân cả nước, làm rõ được sáng kiến mơ hình
của nhân dân đối với sự phát triển của đất nước. Báo chí kết nối tiếng nói giữa
nhân dân với Đảng, với chính quyền các cấp. Nhà nước ta tạo mọi điều kiện thuận
lợi để đảm bải quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo để báo chí và
nhà báo phát huy đúng vai trị của mình. Tuy nhiên, luật pháp cũng không cho
phép ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí để
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
- Với tư cách là thành viên của một đất nước, được nuôi dưỡng bằng văn hoá vật
chất và tinh thần của đất nước, nhà báo phải có thái độ trân trọng, yêu quý quê
hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó cịn là thái độ và trách nhiệm của
nhà báo trước đất nước và vì lợi ích của đất nước. .
- Nhà báo phải phục vụ vô điều kiện quyền thông tin của nhân dân, là diễn đàn tin
cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào quá trình thông tin cho nhân
dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội trong và ngoài nước, làm cho
nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua đó, nhà báo tham gia vào
việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học, thái độ
sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, tạo ra sự đồng
thuận cao trong xã hội. Từ khi ra đời đến nay, những người làm báo cách mạng
ln ln gắn bó và là người hướng dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân
dân đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn. Đa số nhà báo Việt
Nam không chỉ phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, tích cực trong việc truyền bá mà
họ cịn góp phần làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ln giữ
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
- Trong thời kì hội nhập quốc tế, báo chí góp một phần cơng sức khơng nhỏ nâng
tầm đất nước ta trên trường quốc tế. Báo chí góp phần quảng bá hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để kiều bào ta ngày càng hướng
3
về Tổ quốc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập
về chính trị, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước, quan hệ kinh
tế-thương mại-đầu tư với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ với các nước
láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế-chính trị hàng đầu, các
nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát triển, đi vào chiều
sâu, ổn định, bền vững hơn. Việt Nam ln là thành viên chủ động, tích cực và có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
- Ví dụ minh họa: Sự kiện Apec diễn ra tại Thành phố Đà Nẵng từ ngày 6-11- 2017
đã cho thấy vai trị của báo chí trong việc nâng tầm vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế ( vì lợi ích riêng là phát triển kinh tế và vì lợi ích chung là cuộc sống của
nhân dân). APEC 2017 đã diễn ra thành cơng tốt đẹp, góp phần khơng nhỏ cho sự
phát triển kinh tế của đất nước. Báo chí Việt Nam đã kết hợp rất hiệu quả với các
kênh truyền thông của nước ngồi để đưa tin chính xác và cụ thể về tuần lễ quốc tế
APEC. Nhờ đó đã đưa những hình ảnh tốt đẹp nhất về đất nước con người Việt
Nam tới bạn bè quốc tế.
2.2
Điều 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật bản quyền
và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; nội quy, quy
chế của cơ quan báo chí nơi cơng tác.
- Mỗi nhà báo trước hết là một công dân, phải sống và làm việc theo pháp luật. Tất
cả những vấn đề nhà báo phản ánh phải xuất phát từ ý thức trách nhiệm của một
công dân của đất nước. Vì thế, khơng bao giờ được vì lợi ích chính mình mà làm
sai lệch, bóp méo sự thật. Đó là trách nhiệm xã hội, là yêu cầu khách quan của
người làm báo cách mạng. Người làm báo phải tự giác tuân thủ mọi quy định của
pháp luật, phải phản ánh cho cơng chúng trung thực, chính xác, khách quan những
gì đang diễn ra trong nước và trên thế giới. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi luận điệu sai trái, tiêu cực, bảo vệ cái đúng, cái tích cực, bảo vệ quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trách nhiệm xã hội của nhà
báo cách mạng là phải tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần định hướng đúng dư luận xã hội. Có như
vậy, báo chí mới phát huy được sức mạnh của mình, mỗi cơ quan báo chí mới trở
thành cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân.
- Luật báo chí quy định nhằm đảm bảo các quyền của nhà báo khi tác nghiệp.
Khoản 2, Điều 25 Luật Báo chí 2016 quy định nhà báo có các quyền: Hoạt động
4
báo chí trên lãnh thổ nước Cộng hịa XHCN Việt Nam, hoạt động báo chí ở nước
ngồi theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo hộ trong hoạt động nghề
nghiệp; được khai thác, cung cấp và sử dụng thơng tin trong hoạt động báo chí theo
quy định của pháp luật; được đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo
chí.Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo. Các cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu khơng thuộc bí mật nhà
nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp phóng viên chưa được cấp thẻ nhà báo, tuy trong Luật không quy định
cụ thể, nhưng thực tế thì cơ quan báo chí có thể cấp giấy giới thiệu để phóng viên
đi tác nghiệp. Việc không chấp nhận giấy giới thiệu hợp pháp, với mục đích tác
nghiệp hợp pháp, là hành vi cản trở báo chí hoạt động. Vấn đề này đã được điều
chỉnh bởi quy định tại khoản 12, Điều 9 Luật Báo chí, nghiêm cấm cản trở nhà
báo, phóng viên hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật. Nhà báo được hoạt động
nghiệp vụ báo chí tại các phiên tịa xét xử cơng khai; được bố trí khu vực riêng để
tác nghiệp; được liên lạc trực tiếp với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật. Mặt khác, cũng cần lưu ý
những hạn chế về quyền của nhà báo tại phiên tòa như: khoản 8, khoản 9, Điều 9:
Nghiêm cấm báo chí đưa tin quy kết tội danh khi chưa có bản án của Tịa án; thơng
tin ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em
(Những vụ án có người chưa thành niên phạm tội). Đối với vụ án đang trong quá
trình điều tra, truy tố mà chưa được xét xử, các vụ việc tiêu cực hoặc có dấu hiệu
vi phạm pháp luật nhưng chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
báo chí có quyền thơng tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung thông tin. Như vậy mỗi nhà báo cần quan tâm tới luật
báo chí để tự bảo vệ mình đồng thời biết nên và khơng nên làm gì.
- Cùng với sự phát triển của internet nhiều báo điện tử và trang thông tin điện tử
tổng hợp của rất nhiều đơn vị khác nhau. Tuy nhiên , tình trạng vi phạm pháp
luật về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực báo chí cũng diễn ra phổ biến và ngày càng
tăng. Hình thức phổ biến của việc vi phạm bản quyền báo chí đó là các báo điện tử
và trang thông tin điện tử tự ý lấy hình ảnh của báo khác mà khơng xin phép,
khơng trả thù lao cho tác giả và chủ sở hữu tác phẩm .Nhiều báo điện tử và các
trang thông tin điện tử thậm chí cịn khơng dẫn nguồn hoặc chỉ ghi nguồn rất nhỏ
dưới bài viết. Hậu quả của tình trạng vi phạm bản quyền trong lĩnh vực báo điện tử
đó là tác giả, chủ sở hữu thật sự của tác phẩm bị thiệt hại về vật chất và tinh thần.
5
Để có có thể sản sinh ra được những “đứa con tinh thần”, tờ báo làm chủ thông tin
phải đầu tư rất nhiều chi phí từ tiền cơng tác phí, tiền nhuận bút phóng viên, biên
tập, cộng tác viên và bản thân người viết cũng phải bỏ ra nhiều công sức mới có
được. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu quảng cáo và lượt truy cập
của các trang báo gốc. Chính vì vậy mà nhà báo cần phải hiểu được luật bản quyền
nhằm mục đích sau. Thứ nhất, biết đòi lại quyền lợi khi “ đứa con tinh thần” của
mình bị sao chép một cách trắng trợn. Thứ hai, học được đạo đức của người làm
báo. Nhà báo cần biết rằng mỗi tác phẩm báo chí là mồ hơi, nước mắt, là thành quả
lao động, vì vậy về mặt đạo đức báo chí nói chung và đạo đức con người nói riêng,
nhà báo khơng được sao chép, không cắt xén thông tin của tác phẩm khác, phải
tuân thủ chặt chẽ luật bản quyền báo chí. Chính điều này mới giúp nền báo chí
nước nhà phát triển.
- Xét về bản chất, các cơ quan báo chí, các tờ báo địa là phương tiện thơng tin, là
vũ khí tư tưởng, là cơ quan ngôn luận của các đảng phái, giai cấp, tầng lớp, đoàn
thể… trong xã hội. “ Báo chí của giai cấp, nhóm xã hội nào thì phản ánh tư tưởng,
tình cảm, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp ấy, nhóm xã hội ấy. Bản thân các nhà
báo cũng hoạt đông chuyên nghiệp hoặc thường xuyên cộng tác với một cơ quan
báo chí và phải tn thủ tơn chỉ, mục đích, kế hoạch… của tờ báo đó. Chỗ đứng
của nhà báo sẽ ảnh hưởng, chi phối quan điểm, lập trường của họ trong chọn lựa và
xử lý thông tin. Cũng có những nhà báo, phóng viên tự do, họ không thuộc biên
chế hoặc ký hợp đồng với một cơ quan báo chí nhất định nào. Nhưng tự do ở đây
khơng có nghĩa là muốn viết gì, nói gì đều được. Tác phẩm của họ chỉ được sử
dụng nếu nội dung của nó phù hợp với mục đích, tơn chỉ của tờ báo. Trái với điều
đó, bài viết của họ không thể đến được với đông đảo công chúng, cũng khơng phải
là tác phẩm báo chí chính thức vì chúng khơng được đăng tải trên một sản phẩm
báo chí hồn chỉnh
2.3
Điều 3: Hành nghề trung thực, khách quan, cơng tâm, không vụ lợi. Bảo
vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia
rẽ, kích động xã hội, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc và tình đồn kết,
hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc.
- “ Sự thật”: Là cái có thật, có xảy ra”. Chân thật: “ Phản ánh đúng bản chất của
hiện thực khách quan”. Khách quan: “ Trung thức, khơng thiên lệch”. Bản chất của
báo chí là dựa trên sự thật để thông tin. Tuy nhiên phản ánh cái đúng, các thất cũng
khơng có nghĩa là nhà báo vơ tư “có gì nói ấy”. Có những sự việc, hiện tượng xảy
6
ra là có thật. Nhưng nếu nhà báo bê nguyên xi nó lên mặt báo thì chưa chắc đã
đúng. Mặt khác, nhiệm vụ chủ yếu của nhà báo là tìm hiểu nhiều chiều để đưa tin
chứ không phải đứng về một bên nào đó và bình luận. Vì vậy, sự thật mà các nhà
báo phản ánh trong các tác phẩm báo chí khơng chỉ cẩn đúng bản chất, khách quan
mà cịn phải cơng bằng. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng: trong tác phẩm báo
chí khó có thể có những sự kiện nguyên thủy, mà là sự kiện nhận thức. Phóng viên
chỉ có thể thuật lại, kể lại sự kiện qua khả năng biết của mình. Sự thật khách quan
được coi là những gì gần nhất với sự thật.
- Nhà báo cũng như nhà văn là thư ký trung thành phản ánh hiện thực một cách
chân thực nhưng đặc trưng và phương pháp phản ánh của văn học và báo chí là
khác nhau. Nhà báo phản ánh cuộc sống xã hội bằng sự thật, còn nhà văn dựa trên
cơ sở sự thật để phản ánh. Nhà văn nhận thức và tái hiện cuộc sống bằng hình
tượng. Trong văn học, con người, sự việc, hồn cảnh là hình tượng nghệ thuật có
tính chất điển hình. Thời gian, khơng gian trong tác phẩm văn học cũng có thể là
sự cảm nhận, phiếm chỉ, không xác định. Trong lao động sang tạo tác phẩm, các
nhà văn phát huy tối đa sức mạnh trí tưởng tượng, hư cấu. Nhà báo ghi lại cuộc
sống xã hội thông qua các sự kiện thời sự. Con người, sự việc trong tác phẩm báo
chí là những con người thật, việc thật với tên tuổi, địa chỉ, hành động có thật, cụ
thể, rõ ràng. Các địa danh, địa điểm được xác định và thời gian chính xác có khi tới
từng phút, từng giây. Khác với nhà văn, trong tác phẩm của mình nhà báo hạn chế
tối đa sự hiện diện của cái tơi tác giả. Khi thơng tin, phóng viên phải “ ngả ra phía
sau” để nhường chỗ cho các nhân chứng.
- Chân thật, khác quan là một nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong lao động sang
tạo tác phẩm báo chí. Nhiều người cho rằng, đối với những người làm báo, xuyên
tạc, bịa đặt là lỗi nặng nề nhất, đánh phê phán nhất. Sự chân thật, khách quan có
thể được cân đo, đong đếm tớ từng chi tiết nhỏ trong bài báo: Một bài báo hay nhất
thiết phải có nhiều chi tiết hay, “nhưng là chi tiết của báo chí nên trước hết phải
đúng”
- Phần lớn cơng chúng là những người không được chứng kiến sự việc khi nó diễn
ra mà chỉ được biết về nó thơng qua sự tường thuật, miêu tả của phóng viên. Cơng
chúng tiếp nhận sự kiện ra sao, phụ thuộc rất nhiều vào việc phóng viên đã thu
nhập thơng tin và phản ánh sự kiện đó như thế nào. Do vậy, họ yêu cầu phóng viên
phải trung thực khách quan. Đó là sức mạnh và là tài sản giá trị nhất mà nhà báo và
tớ báo phải ln giữ gìn.
- Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tích cực, nhiều mặt trái trong ngành báo chí
vẫn diễn ra trong suốt những năm qua. Nhiều thông tin sai sự thật, nhiều cá nhân
7
nhà báo vi phạm tơn chỉ, mục đích và đạo đức nghề nghiệp. Nhiều thông tin thiếu
định hướng, nặng về mặt trái, xâm phạm đời tư, ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín cá
nhân, tổ chức vẫn được báo chí đăng tải. Nguy hiểm hơn là việc hiện tượng lây lan
thông tin sai từ các báo, trang thông tin điện tử tổng hợp đăng lại gây hậu quả xấu
cho xã hội.
- Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, những vi phạm đạo đức nghề
nghiệp của người làm Báo chủ yếu là vi phạm thông tin sai sự thật. Những vi phạm
này thường được xử lý bằng biện pháp: phạt cảnh cáo, thu hồi thẻ nhà báo, đình
bản, thu hồi báo.
- Một ví dụ gần đây cho việc thông tin thiếu trung thực, khách quan và tôn trọng sự
thật là việc xảy ra hiện tượng thông tin về chất lượng nước mắm. Những thông tin
này được đăng tải một cách thiếu kiểm chứng khách quan gây hậu quả vô cùng
nặng nề đến người tiêu dùng và các nhà sản xuất. Đặc biệt, những thông tin này lại
được đăng ở nhiều báo lớn nên độ lan tỏa thông tin rất nhanh gây thiệt hại cả về vật
chất lẫn tinh thần cho xã hội. 50 cơ quan báo chí trong thời gian ngắn đã cho đăng
gần 560 tin, bài. Hậu quả của việc thông tin đã làm dư luận xã hội hết sức hoang
mang, các sản phẩm nước mắm truyền thống bị người dùng tẩy chay,; các vùng,
miền sản xuất nước mắm truyền thống càng khó khăn hơn, ảnh hưởng rất nghiêm
trọng đến người tiêu dùng và việc sản xuất nước mắm truyền thống cũng như
thương hiệu hàng hóa của Việt Nam nói chung trên thị trường quốc tế.
2.4
Điều 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không
xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức
và cá nhân.
- Báo chí có sức mạnh to lớn trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội.
Số phận những nhân vật trong tác phẩm báo chí có thể thay đổi theo chiều hướng
tốt lên hoặc xấu đi sau khi tác phẩm đó được cơng bố trước đơng đảo công chúng.
Di vậy nhà váo nên biết khai thác như thế nào và biết dừng lại ở đâu. Có trường
hợp sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm, sự nhận xét vội vàng, những định kiến, những suy
diễn chủ quan… của phóng viên lại làm hại chính các nhân, tập thể nào đó trong
bài báo của mình. Phóng viên khơng nên nhầm vai trị của mình với vai trị của
cơng an, cảnh sát hay tịa án. Nhiều khi phón viên tiếp cận với “ nhân vật phản
diện” ở góc độ đồng loại cũng có thể cho ra đời những bài báo hay, có tính giáo
dục cao. Ví dụ khi viết về tử tù, phóng viên đã tập trung khai khía cạnh tình cảm,
sự sám hối muộn màng, nỗi khao khát quyền được sống của họ. Hoặc khi miêu tả
8
một buổi hành quyết song tác giả lại khai thác những chi tiết rất giàu tính nhân văn.
Kẻ trọng tội nhưng khi đã chết cũng được đối xử như một lương dân… Thơng tin
báo chí là để tuyết phục, định hướng. Ngay cả khi viết về cái ác thì nhiệm vụ chủ
yếu của nhà báo cũng nhằm thức tỉnh lương tri con người.
- Đạo đức không bao giờ tách rời nhân văn, chỉ có nhân văn mới có đạo đức cho
nên nhà báo phải thực sự vì con người. Đối tượng phản ánh của báo chí rất đa
dạng cho nên khi nhà báo phản ánh cần đưa tin cho đúng mực, nói ở mức độ nào
thì đó là tơn trọng quyền con người. Nếu không sẽ trở thành xúc phạm, chà đạp
nhân phẩm. Đơi khi chỉ vì một chữ thơi cũng liên quan đến sinh mệnh của một con
người. Thậm chí, khơng chỉ liên quan đến nhân vật bài viết mà còn liên quan đến
vợ con, dòng họ, quê hương của họ.
- Điều 21 Hiến pháp năm 2013 có quy định:
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và
bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo
đảm an tồn
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thơng tin riêng tư khác. Khơng ai được bóc mở, kiểm sốt, thu giữ trái luật thư tín,
điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thơng tin riêng tư của người khác”
- Tại Điều 38 BLDS hiện hành, có quyền bí mật đời tư, như sau:
“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người
đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa
đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người
đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu
theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân
được bảo đảm an tồn và bí mật.
Việc kiểm sốt thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thơng tin điện tử khác của
cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
- Khoản 2 Điều 46 Luật GDĐT quy định:“Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được
sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thơng tin của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch
9
điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.”
- Ví dụ cụ thể: Tháng 5 năm 2016, ca sĩ Thái Thùy Linh khiếu nại một tạp chí vì đã
đưa đời tư của cô lên báo mà không xin phép. Thông tin ca sĩ này sinh con nhưng
chưa làm đám cưới và hình ảnh của hai mẹ con được đưa lên báo minh họa cho bài
viết về việc có nhiều ca sĩ đã tạo scandal như để nhanh nổi tiếng.
2.5
Điều 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các
phương tiện truyền thông khác.
- Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà báo chí điện tử và mạng xã hội phát triển
ngày càng mạnh mẽ, nhanh chóng; cơng nghệ truyền thông đang tạo ra những cơ
hội lớn cùng với những thách thức rất gay gắt đối với nghề báo. Tất cả những điều
đó địi hỏi cần phải có sự điều chỉnh và bổ sung quy định đạo đức báo chí để phù
hợp với pháp luật hiện hành, phù hợp với sự biến đổi xã hội, tạo ra định ước nghề
nghiệp cao hơn, hiệu lực hơn. Người làm báo phải có ý thức khi tham gia mạng xã
hội là yêu cầu đặt ra từ thực tiễn đó.
- Sự ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông càng ngày càng lớn, khả năng
phân biệt của công chúng đối với đọ chính xác của thơng tin lại khơng cao nên vai
trị “ gác cổng” của báo chí khơng được phát huy tốt, không khu biệt được một
cách hiệu quả đối với thơng tin, thậm chí xuất hiện các luồng tin lá cải, sai sự thật,
câu khách rẻ tiền.Trên mạng Internet, hiện tượng này càng nghiêm trọng hơn, phá
hoại “ môi trường sinh thái” vốn có của mạng Internet, xâm phạm đến quyền được
nắm bắt thơng tin của cơng chúng
- Có thể nói rằng, chưa bao giờ vấn đề đạo đức người làm báo được đặt ra nóng
bỏng và gay gắt như hiện nay. Điều này đòi hỏi nhà báo càng phải coi trọng tu
dưỡng về đạo đức nghề nghiệp. Cốt lõi của đạo đức báo chí là sự chính trực, trung
thực, khách quan...Do vậy, khi nhà báo viết trên các ấn phẩm chính thức hay khi
tham gia mạng xã hội, thì vẫn là con người đó, trái tim, khối óc đó, phải ln ln
bảo vệ các giá trị tốt đẹp, vì lợi ích thiết thân của người dân, lợi ích tối cao của đất
nước và dân tộc.Nói cách khác, dù nhà báo sử dụng mạng xã hội như một “cư dân
mạng” thì cộng đồng xã hội dễ hiểu đấy là quan điểm của nhà báo, và ít nhiều
mang quan điểm của cơ quan báo chí nơi nhà báo đó đang làm việc.Chính vì vậy,
việc nhà báo đưa thơng tin, bày tỏ quan điểm riêng trên mạng xã hội cũng cần cẩn
trọng, nghiêm túc, chuẩn mực giống như khi tác nghiệp báo chí.
10
- Chuẩn mực trước hết là trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật. Đưa tin sai,
bình luận lệch lạc là khơng chuẩn mực, theo đuổi mục đích cá nhân, thiếu trách
nhiệm với xã hội là không chuẩn mực.Thấy cái sai mà khơng phê phán lại cịn a
dua là khơng chuẩn mực. Thấy cái đúng, cái tốt bị tấn công mà khơng bảo vệ lại
cịn châm chọc, dè bỉu là không chuẩn mực. Khách quan, trung thực, tôn trọng sự
thật là cốt lõi của đạo đức nghề nghiệp báo chí. Đối với nhà báo, phải ý thức được
trách nhiệm của mình là tham gia xây dựng đời sống tư tưởng, tinh thần lành mạnh
bằng những thông tin lành mạnh. Dù ở bất cứ đâu, sứ mệnh, bổn phận của họ vẫn
là người làm báo, người cung cấp thơng tin, chính xác, đúng đắn cho xã hội.
- Điều 5 hoàn toàn không hạn chế quyền tự do ngôn luận của nhà báo mà cịn
khuyến khích các nhà báo tích cực tham gia mạng xã hội với tinh thần nghiêm túc,
đấu tranh với cái ác, xấu, bất công, thiếu chuẩn mực trong xã hội. Bởi lẽ, trong bối
cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, trên mạng intrenet nói chung, mạng xã hội
nói riêng cũng đang rất cần những tiếng nói chính trực, đúng đắn của các nhà
báo.Thực tế cho thấy, thông tin trên mạng xã hội hiện nay đang rơi vào tình trạng
“thực, giả lẫn lộn”, cái tốt cũng lan truyền nhanh và cái xấu cũng lây lan một cách
chóng mặt. Trong đó, có những thời điểm thơng tin đưa ra không đúng, không
chuẩn xác nhưng chỉ một vài giây sau đó, các comment đã ào ào như thác theo
khuynh hướng một chiều, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Những lúc như thế, rất
cần sự tham gia tích cực của những người làm báo với tư cách cá nhân trên mạng
xã hội tạo thành một luồng dư luận đúng để chống lại luồng dư luận khơng đúng.
Với ý nghĩa đó, vai trị, vị trí của các nhà báo trên mạng xã hội cũng rất gần với
nhà báo hoạt động trong thực tế.
- Không thể phủ nhận là hiện nay, mạng xã hội đang trở thành một trong những
mảnh đất màu mỡ cung cấp đề tài cho báo chí. Tuy vậy, mặt trái của vấn đề này là
đã xuất hiện một bộ phận người làm báo quá lệ thuộc vào mạng xã hội, tức là lấy
đề tài, lấy thông tin, lấy luôn cả cảm xúc, quan điểm, ý kiến trên mạng xã hội mà
gần như không điều tra, thẩm định lại theo tác nghiệp báo chí. Hoặc nếu có điều tra
thì cũng chỉ mang tính hình thức để hợp thức hóa thông tin ban đầu. Cách làm việc
dễ dãi, cẩu thả này dễ gây nguy hại đối với xã hội, vì những nhận định sai lệch,
bằng những lối nói khác nhau, có thể lại được “chính thức hóa” trên các trang báo
chính thống. Khi chạy theo mạng xã hội, báo chí có xu hướng khai thác những vấn
đề nóng, có những chuyện hệ trọng, nhưng cũng có cả những chuyện rất tầm
thường. Khi chạy theo những chuyện như vậy, báo chí đã tự đánh mất vai trị của
mình, góp phần lái sự chú ý của dư luận sang những vấn đề không thiết yếu, không
quan trọng với đời sống của một quốc gia.
11
- Dẫu thế nào công chúng vẫn luôn cần tới những tác phẩm báo chí có chất lượng,
chứ khơng phải những bài báo chỉ để thỏa mãn sự tò mò, thói hiếu kỳ kiểu giật
gân, câu khách. Dù báo chí truyền thống khó có thể cạnh tranh về tốc độ đưa tin
trên internet và mạng xã hội, nhưng báo chí vẫn ln là nơi để độc giả xác minh
tính chính xác của thơng tin. Vì thế, sự kết hợp giữa độ nhanh nhạy của thông tin
trên mạng xã hội cùng khả năng phân tích, kiểm chứng của nhà báo sẽ mang đến
bài báo hoàn thiện, sâu sắc hơn và quan trọng hơn là đúng sự thật. Báo chí cần
mang đến cho cơng chúng thơng tin chính xác, khách quan, giúp họ nắm bắt, có
thêm hiểu biết về các vấn đề xã hội. Vì thế, mỗi nhà báo cần tự trang bị cho mình
kiến thức sâu rộng, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, để từ đó góp phần mang đến cho
độc giả cái nhìn đúng đắn, lành mạnh về những vấn đề mà họ quan tâm...
- Ví dụ cụ thể: Bài Giáo sư Ngô Bảo Châu đi dép tổ ong lên "dạy học" ở bản Lũng
Luông cùng các bức ảnh với chú thích đại loại như "Một câu hỏi của GS Châu đố
học sinh vùng cao, mời các em lên bảng thực hiện" được báo điện tử nọ công bố,
lập tức thông tin và các bức ảnh được khai thác, xào xáo đưa lại trên một số báo
( Vnexpress) , trang tin điện tử để ra đời các bài, như: GS Ngơ Bảo Châu đi dép tổ
ong, dạy học trị nghèo, Hình ảnh GS Ngơ Bảo Châu đi dép lê dạy trẻ em miền núi
gây xúc động, GS Ngô Bảo Châu "đứng lớp" ở bản vùng cao,... Rồi tất cả trở thành
câu chuyện bi hài khi GS Ngô Bảo Châu đăng một status trên facebook của ông và
cho biết đại ý: ông cùng đoàn thiện nguyện đến Trường tiểu học Lũng Lng (Võ
Nhai, Thái Ngun), vì đường lên bản phải vượt qua hai con suối, 7 km dốc đá hộc
và bùn, giày bị ướt nên phải mượn dép, người ta đưa cho dép nào thì ơng đi dép ấy.
Và ơng chỉ nhân thể nói chuyện với mấy học sinh cịn lại trong lớp, kiểm tra xem
các em có biết đánh vần, biết viết tên mình hay có biết làm tính cộng, chứ khơng
dạy gì cả. Ðặc biệt, ơng viết rất rõ: "Chuyến đi khơng hề có các nhà báo đi cùng
nên nhóm từ thiện khơng chịu trách nhiệm về các bài viết dựa trên trí tưởng tượng
của một số nhà báo"!. Thật ra, bài và ảnh đó được một số phóng viên khai thác từ
facebook của một người nổi tiếng đi cùng GS Ngơ Bảo Châu đến Lũng Lng, sau
đó họ chế tác thành... bài báo.
2.6
Điều 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của pháp luật.
-. Nhà báo khơng thể tự mình tạo ra thơng tin. Và báo chí tồn tại được là nhờ vào
nhiều nguồn tin của mình. Nói như thế để thấy vai trị của nguồn cung cấp thơng
tin và vì thế trong mọi trường hợp cần trao trách nhiệm bảo vệ nguồn tin cho các
nhà báo nhất là những thông tin liên quan đến tham nhũng, đến những tệ nạn khác
trong xã hội.
12
- Việc đảm bảo bí mật nguồn tin có ý nghĩa sinh tồn đối với hoạt động báo chí. Bởi
lẽ nếu người làm báo không bảo vệ nguồn tin của người cung cấp nhất là trong
hoạt động đấu tranh phòng chống tham nhũng thì ai dám đứng ra cung cấp thơng
tin cho báo chí, ai sẽ giúp nhà báo có những tư liệu viết những loạt bài phóng sự,
điều tra, phản ánh tiêu cực.
- Để đảm bảo việc đưa thông tin ra công luận một cách khách quan trung thực, tôn
trọng sự thật là một việc không dễ dàng đối với các nhà báo. Bởi thực tế, công việc
vất vả nhọc nhằn nhất của nhà báo chính là việc tìm kiếm và xử lý thông tin. Để
xác định sự thật của thông tin, nhà báo phải tham gia vào quá trình tự điều tra, tự
học tập để nâng tầm hiểu biết về lĩnh vực mình theo dõi nhằm gỡ bỏ các tín hiệu
nhiễu lẫn trong thơng tin. Bởi khơng phải nguồn cấp thơng tin nào cũng chính xác,
nhất là những thơng tin mang tính tố cáo có khi sai sự thật hoặc bị trộn lẫn thông
tin đúng, sai nhằm phục vụ cho một mục đích cá nhân nào đó.
- Trên thế giới, để quản lý lĩnh vực truyền thông người ta thường quan tâm tới hai
bộ Luật đó là Luật Thơng tin hay cịn gọi là Luật Tiếp cận thơng tin và Luật báo
chí. Hơn 100 nước trên thế giới đã có Luật Tiếp cận thơng tin. Luật Tiếp cận thơng
tin chủ yếu nêu rõ các chủ thể có trách nhiệm công bố thông tin và cung cấp thông
tin theo yêu cầu của người dân; quy định danh mục những thông tin phải công bố
và cung cấp; quy định quy trình, thủ tục cơng bố và cung cấp thơng tin; quy định
thời hạn, tiến độ công bố và cung cấp thông tin; quy định chế tài đối với người
không thực hiện đúng theo luật định. Người vi phạm có thể bị kiện ra tòa và bị xử
lý theo pháp luật...
- Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội ban
hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Luật này quy định về bí mật nhà nước, bảo vệ bí mật nhà nước; trách nhiệm,
nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với bảo vệ bí mật nhà nước.
2. Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân
nước ngoài liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước trừ trường hợp điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Bí mật nhà nước là thơng tin có nội dung quan trọng được quy định bằng danh
mục bí mật nhà nước, do cơ quan có thẩm quyền ban hành theo quy định của luật
13
này, thuộc các lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an ninh, kinh tế, đối ngoại, văn hóa,
giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác mà Nhà nước chưa công
bố, nếu bị lộ, mất sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và lợi ích của quốc gia, dân
tộc.
2. Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu, lời nói,
địa điểm tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng,
đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan, tổ chức, cá nhân soạn
thảo, ban hành, tạo ra.
3. Bảo vệ bí mật nhà nước là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng
tổng hợp các lực lượng, phương tiện, biện pháp nhằm đảm bảo an ninh, an tồn,
phịng, chống các hành vi xâm phạm bí mật nhà nước.
4. Độ mật là mức độ quan trọng của bí mật nhà nước, được xác định căn cứ vào
thiệt hại trên thực tế nếu bí mật nhà nước bị lộ, mất.
5. Danh mục bí mật nhà nước được thể hiện bằng hình thức văn bản quy phạm
pháp luật do cấp có thẩm quyền ban hành, quy định độ mật của thơng tin để bảo vệ
theo quy định.
6. Bí mật nhà nước độ Tuyệt mật là thơng tin có nội dung đặc biệt quan trọng, nếu
bị lộ, mất sẽ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho an ninh quốc gia và lợi ích của
quốc gia, dân tộc.
7. Bí mật nhà nước độ Tối mật là thơng tin có nội dung rất quan trọng, nếu bị lộ,
mất sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng cho an ninh quốc gia và lợi ích của quốc gia,
dân tộc.
8. Bí mật nhà nước độ Mật là thơng tin có nội dung quan trọng, nếu bị lộ, mất sẽ
gây hậu quả nghiêm trọng cho an ninh quốc gia và lợi ích của quốc gia, dân tộc.
9. Khu vực cấm, địa điểm cấm là những khu vực, địa điểm được thiết lập nhằm bảo
vệ, quản lý, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của con người, phương tiện nhằm
duy trì an ninh, trật tự, phòng, chống các hành vi xâm nhập, phá hoại, thu thập bí
mật nhà nước trong và xung quanh khu vực, địa điểm đó.
10. Thay đổi độ mật là giải mật, giảm mật và tăng mật bí mật nhà nước.
11. Giải mật là xóa bỏ độ mật đã được xác định của bí mật nhà nước.
12. Giảm mật là hạ độ mật đã được xác định của bí mật nhà nước.
13. Tăng mật là tăng độ mật đã được xác định của bí mật nhà nước.
14. Cơng bố bí mật nhà nước là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
thơng báo cơng khai việc giải mật bí mật nhà nước cho mọi người biết để tiếp cận.
14
15. Tự động giải mật là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải mật
bằng hình thức công bố mà không cần tiến hành các thủ tục giải mật theo quy định.
16. Tiêu hủy bí mật nhà nước là việc tác động vào vật chứa đựng bí mật nhà nước
nhằm thay đổi hình dạng, tác dụng, tính năng vật lý, đảm bảo khơng thể phục hồi
và khơng sử dụng được bí mật nhà nước chứa đựng bên trong.
Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Làm lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua bán bí mật nhà nước hoặc thu thập, lưu giữ,
chuyển giao, tiêu hủy bí mật nhà nước trái pháp luật .
2. Lạm dụng bảo vệ bí mật nhà nước để che giấu hành vi vi phạm pháp luật; xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan
nhà nước, tổ chức và cá nhân.
3. Soạn thảo, lưu giữ, trao đổi bí mật nhà nước trên máy tính, mạng nội bộ, mạng
diện rộng có kết nối với mạng Internet; sử dụng phương tiện, thiết bị có tính năng
sao, chụp, lưu giữ bí mật nhà nước kết nối với máy tính, mạng nội bộ và mạng diện
rộng có kết nối mạng Internet.
4. Sử dụng micro vô tuyến, điện thoại di động, thiết bị thu phát tín hiệu, thiết bị có
tính năng ghi âm, ghi hình để ghi âm, ghi hình trong các cuộc họp, hội nghị, hội
thảo có nội dung bí mật nhà nước khi chưa được người chủ trì cuộc họp, hội nghị,
hội thảo cho phép.
5. Đăng tải bí mật nhà nước trên báo chí, ấn phẩm xuất bản công khai; trên các
website, mạng xã hội và các hình thức tương tự trên Internet.
-> Bí mật nhà nước nếu như bị lộ sẽ để lại hậu quả rất nặng nề.
- Ví dụ cụ thể: Năm 2013, Edward Snowden, một thanh niên trẻ người Mỹ đã trở
thành tâm điểm chú ý của cả thế giới bằng việc công bố về chương trình giám sát
tồn cầu của Mỹ. Chính vụ việc này tạo nên dư luận xã hội rất mạnh trong nước
Mỹ. Có người cho rằng Edward Snowden là “tên gián điệp”, là “kẻ phản bội”,
nhưng có người cho rằng Snowden là người hung và chê bai thậm tệ chính quyền
của Tổng Thống Obama. Họ cho rằng quyền con người, quyền giữ bí mật thơng tin
của họ bị ảnh hưởng nặng nề.
2.7
Điều 7: Đồn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
- Tính tập thể là một yêu cầu khách quan của nhà báo. Một sản phẩm báo chí hồn
chỉnh (tờ báo, chương trình, phát thành, truyền hình) bao gồm nhiều tác phẩm
riêng lẻ. Ở đó, tac phẩm của mỗi cá nhân được kết hợp với nhau một cách logic,
hài hòa, hấp dẫn theo từng chủ đề, góc độ để hình thành nên một tờ báo có sức hút
với đọc giả cả về nội dung và hình thức. Do vậy sẽ khó có một tờ báo vừa đảm bảo
15
được nội dung vừa đúng thời gian phát hành nếu không co hoạt động tổ chức và
triển khai kế hoạch thông tin để liên kết hoạt động tổ chức và triển khai kế hoạch
thông tin để liên kết hoạt động của từng thành viên trong tòa soạn. Các cuộc hop,
các cuộc hội ý chớp nhoáng…. diễn ra thương xuyên liên tục có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong hoạt động của các tịa soạn báo chí.
- Mỗi tác phẩm riêng lẻ của nhà báo muốn đến với công chúng phải được đăng tải
trên một sản phẩm báo chí hồn chỉnh, trọn vẹn đó là tờ báo. Theo dõi đường đi
của một tin, bài trong một tòa soạn báo ta thấy, hồn thành một tác phẩm “ bao giờ
cũng có sự tham gia sáng tạo ở mức độ khác nhau của đồng nghiệp. Với các loại
hình báo chí khác, đặc biệt là truyền hình thì tính tập thể càng biểu hiện rõ hơn.
Nhiều tác phẩm truyền hình là sản phẩm của một tập thể tác giả. Có thể kể đến các
lực lượng đồng tham gia sáng tạo tác phẩm truyền hình như: phóng viên, quay
phim, đạo diễn, biên tập, phụ trách tư liệu, âm thanh, kĩ thanh, ánh sáng…
- Tính tập thể trong lao động nhà báo còn thể hiện ở mỗi liên hệ và sự cộng tác qua
lại giữa các nhà báo, phóng viên với nhau. Trong q trình hoạt động có những đề
tài, sự kiện lớn vượt quá tầm phản ánh của cá nhân, vì vậy mỗi phóng viên có thể
thực hiện một phần hoặc một nhóm phóng viên cùng thực hiện. Mặt khác, khi tìm
hiểu một sự kiện, vấn đề trên cùng một địa bàn hoạt động, các phóng viên cũng cần
có mỗi liên kết với tập thể. Đó là sự quen biết chia sẻ, trao đổi, bàn bạc và cộng tác
với nhau trong tác phẩm. Sự hợp tác trong quá trình hoạt động tạo ra điều kiện nhìn
nhận đối tượng theo các chỗ đứng. và sự phân tích khác nhau làm vấn đề được
đánh giá tồn diện, sâu sắc thêm. Hơn thế nữa, giữa họ có thể nảy sinh một cách
nhìn chung nào đó về sự kiện, vấn đề. Trong nhiều trường hợp, sự xác định, có tính
chất tập thể có vai trị tang cường sức mạnh và sự tin cậy, chin chắn hơn cho tác
phẩm báo chí.
- Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm, lao động tập thể đôi lúc cũng chứa đựng những
phức tạp. Dù muốn hay khơng thì hoạt động của mỗi cá nhân ít nhiều cũng chịu
ảnh hưởng bởi họa động chung của tòa soạn nhưng hoạt động chung đó khơng phải
lúc nào cũng hịa hợp, thống nhất. Mối quan hệ giữa phóng viên với biên tập viên,
ban biên tập, thư ký tòa soạn… cũng có khi xảy ra mâu thuẫn.
- Lao động tập thể chỉ thực hiện tố nếu mỗi cá nhân có sự hiểu biết thấu đáo, có
phương pháp làm việc khoa học, có tinh thần trách nhiệm và biết tơn trọng đồng
nghiệp.
- Ví dụ cụ thể: Mỗi phóng viên có thể chủ động sáng tạo tác phẩm theo năng lực
của bản thân nhưng vẫn phải có tổ chức, có sự phân công của tập thể. Một số báo
16
rất chặt chẽ trong tổ chức hoạt động. Tạp chí Nghề báo, số 25 ( tháng 11-2004)
trang 14 cho đăng tải câu chuyện tại Saigon Time Daily. Thư ký tòa soạn (do
khơng có trưởng ban) sẽ dựa vào đầu tin nào đó để lệnh cho phóng viên viết
tin,bài. Lệnh cả số chữ của bài và có thể cả giờ nộp bài. Phóng viên hiếm khi tự
động viết bài vì sợ khơng được đăng.
2.8
Điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại
ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại.
- Tri thức của người phóng viên bao gồm: tri thức nền (tri thức chung) và tri thức
chuyên sâu. Nói cách khác, phóng viên là người “ biết một cái gì đó về tất cả và
biết tất cả về một cái gì đó.
- Tri thức nền là kiến thức tổng hợp về cá mặt, các lĩnh vực nói chung như: chính
trị, xã hội, pháp luật, kinh tế, văn hóa – văn nghệ, khoa học, lịch sử, địa lý…
- Tri thức chuyên sâu là những kiến thức, hiểu biết sâu về một mặt, một lĩnh vực
nào đó
- Nghề báo là sự đan xen của nhiều nghề. Nhà báo phải tích lũy kiến thức của
nhiều nghề, nhiều chuyên môn, nhiều lĩnh vực của cuộc sống, lý luận khoa học và
chế độ chính trị, Ngay một tác phẩm, tuy đề cập đến tới một sự kiện nhưng nó lại
động chạm, liên qua tới nhiều mặt, nhiều vấn đề trong cuộc sống. Vì vậy nhà báo
nên tích lũy cho mình tri thức rộng và tri thức chuyên sâu. Yêu cầu và trình độ
ngày càng cao của công chúng đặt ra nhiều thách thức đối với người người làm
báo. Công chúng muốn nhà báo đêm lại cho họ những thơng tin mới mẻ, nóng hổi.
Nhưng hơn thế nữa, họ còn muốn xem nhà báo cắt nghiã, phân tích chúng như thế
nào từ góc độ của những nhà quan sát, từ vị trí của những người luôn sống ở đầu
nguồn tin tức.
- Tri thức và vốn sống là yếu tố nền móng tạo nên sức mạnh của phóng viên. Đó là
chỗ dựa vững chắc để phóng viên phát huynh năng lực sáng tạo nghề nghiệp một
cách có chất lượng và hiệu quả. Một sự việc diễn ra trước mắt mọi người thì có thể
ai cũng thể nhìn thấy, nhưng muốn tìm hiểu bản chất và xem xét, đánh giá sự việc
đó thì cần phải có kinh nghiêm, tri thức. Tri thức càng sâu rông bao nhiêu thì khả
năng nhìn nhận, đánh giá chính xác bấy nhiêu.
- Nói tới vốn sống là nói tới những hiểu biết, những kinh nghiệm rút ra được từ
thực tế. Đó là một thứ “ Kiến thức đặc biệt mà kiến thức sách vở khó có thể thay
thế được. Vốn sống hình thành chủ yếu trong thực tế xã hội, trong quá trình hoạt
17
động nghề nghiệp với những khó khăn, thử thách mà nhà báo đã trải qua hoặc tìm
hiểu được.
- Tri thức, vốn sống là tố chất cần thiết đối với mỗi phóng viên. Tri thức, vốn sống
là bạn đồng hành đáng tin cậy, là cuốn cẩm nang đắc lực cho phóng viên trong hoạt
động sáng tạo.
- Ví dụ cụ thể: Trên báo Thanh Niên số 40 ra ngày 09-2-2014 có bài phản ánh về
lễ cầu an tại chùa Phúc Khánh (Hà Nội) với cái tít rất kêu: Chùa lớn đơng nghịt
người giải hạn, cầu an. Mặc dù tác giả chỉ có mục đích phản ánh tình trạng người
dân đi chùa xin thánh thần phù hộ cho một năm làm ăn thuận lợi, gia đình bình an,
nhưng cách phản ánh của tác giả vơ tình tạo nên tâm lý tác động đến cơng chúng
là, hàng ngàn người ở Hà Nội cịn phải đến chùa lớn cầu bình an, vậy tại sao những
nơi khác lại không đi cầu an. Từ đây dẫn đến những hiện tượng mặt trái của văn
hóa tâm linh như: nhà nhà mở lễ cầu an tại nhà, người người ra chùa đóng góp tiền,
dâng vàng mã với niềm tin càng dâng cúng nhiều thì thánh thần càng phù hộ cho
mình làm việc mình mong ước. Bản thân tác giả khi viết bài này cũng có nhận định
rằng, đây là một hiện tượng khơng nên tuy nhiên cách phân tích, bình luận thiếu
sắc sảo, vốn kiến thức xã hội cịn hạn chế.
2.9
Điều 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ và phát huy các giá
trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Khoản 3 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Ngơn ngữ quốc gia là tiếng Việt.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”
- Tiếng Việt đã là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng, như nhà văn Đặng Thai
Mai đã viết: “Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Tiếng Việt
có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay …” hay như nhận xét
của nhà thơ Xuân Diệu: “Sự trong sáng của ngôn ngữ là kết quả của một cuộc phấn
đấu. Trong và sáng dính liền nhau…”. Ngồi ra không thể không nhắc tới khẳng
định của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng :”Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng
Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời
và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái
giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu
sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngơn ngữ
của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà
18
văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về
nghệ thuật.”
- Sức mạnh của Tiếng Việt là chìa khóa giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nơ lệ
– một sự thật khơng thể nào chối cãi. Có thể trích dẫn ra đây một đoạn trong tác
phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” của nhà văn, nhà
báo Nguyễn An Ninh: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các
dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người
An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong
phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học
của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ
người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm
hy vọng giải phóng giống nịi. […] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ
tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình …”
- Lịch sử đã chứng minh rằng, Tiếng Việt đã trở thành vũ khí của dân tộc Việt
Nam, thốt khỏi mọi vịng xiềng xích nơ lệ để trở thành một quốc gia độc lập như
ngày hơm nay. Khơng những thế, nó cịn làm nên bản sắc Việt Nam, mà chúng ta
hay nói đến một cách tự hào với cụm từ “niềm kiêu hãnh dân tộc”.
- Nhiệm vụ của nhà báo hiện nay là giữ gìn được sự vẻ đẹp “ thuần khiết “ của
Tiếng Việt. Mỗi bài viết khơng được viết sai chính tả, không được sử dụng từ ngữ
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của ta và đặc biệt không được tự ý cải biên
Tiếng Việt
- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong xu thế
tồn cầu hố hiện nay là một yêu cầu tất yếu, một nhiệm vụ nặng nề, cấp bách và
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta. Kinh nghiệm của nhiều nước, cũng
như của chính chúng ta đã chỉ ra rằng, không thể đánh đổi bằng mọi giá để có được
sự tăng trưởng về kinh tế, cũng khơng thể để cho bản sắc văn hóa dân tộc bị mai
một. Để tiếp tục phát triển và khẳng định mình trong q trình tồn cầu hố, ngồi
nỗ lực tăng trưởng kinh tế, một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của
chúng ta là phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đúng như Đảng ta đã khẳng định, "Bản sắc dân tộc bao gồm những
giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun
đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Báo chí
đóng góp một phần khơng cho trong bảo vệ giá trị văn hóa đó.
- Ví dụ cụ thể: + Báo Việt Nam Nét (vietnamnet.vn), ngày 14/6/2015, trong bài
Thót tim kể chuyện dơng lốc khiến Hà Nội tan hoang, có câu “ Khiếp sợ nhất vẫn
là những người dân lưu hành trên đường lúc cơn dông xảy ra”. Để mô tả ai đó, vật
nào đó đang đi trên đường thì người ta dùng từ “lưu thông” chứ không dùng từ
“lưu hành” (đưa ra sử dụng rộng rãi).
19
+ Bài Nữ tiểu thư nổi tiếng nhà đại gia bậc nhất Việt Nam (báo Việt Nam Nét, ngày
20/2/2015) có câu “ Ái nữ Trần Thị Quỳnh Ngọc là con gái của doanh nhân quá cố
Trần Văn Cường và Chủ tịch đương nhiệm tập đoàn Nam Cường Lê Thị Thúy Ngà
”. Ái nữ đã có nghĩa người con gái yêu quý rồi, sao lại cùng dùng thêm một từ con
gái nữa cho rườm rà, tối nghĩa ?
Điều 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy
định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm
của người làm báo.
2.10
- Trong nghề báo, có những cái mà pháp luật và quy định nghề nghiệp cũng khơng
dễ điều chỉnh. Đó là lương tâm của nhà báo trong hoạt động tác nghiệp và hơn thế
nữa là lương tâm của họ dưới góc độ cái tâm của một con người với con người
trong xã hội. Lương tâm con người, lương tâm nghề nhiệp chính là xuất phát điểm,
là yếu tố cốt lõi giúp nhà báo thực hiện tốt luật pháp và đạo đức nghề nghiệp. Theo
nhà báo Phan Quang; Nếu trong bất kì lĩnh vực nào, chữ tâm cũng bằng chữ tài thì
trong hoạt động báo chí cái tâm khơng những là gốc mà còn phải đặt trước cái tài.
- Lương tâm của nhà báo trước hết biểu hiện ở thái độ khách quan, công tâm trong
thu nhập và xử lý thông tin. Nhà báo khơng vì lợi ích hoặc vì những mục đích cá
nhân nào đó mà chỉ chú ý đến việc khai thác những thông tin để tô hồng hay bôi
đen sự thật. Sự kiện trong báo chí ít nhiều đã được lựa chọn qua lăng kính chủ
quan của tác giả, Sự lựa chọn ấy vừa thể hiện quyền năng vừa thể hiện trách nhiệm
và nhân cách của nhà báo trong thông tin sự kiện. Do vậy, đưa chi tiết nào vào báo
báo (mặc dù là thật) khơng phải do ý thích của cá nhân, mà người viết phải suy xét
được ý nghĩa, tác động của nó đối với con người, xã hội. Có phóng viên đã gọi
những con người trong tác phẩm của mình là “những nhân vật của tơi”. Và khi khai
thác, thu nhập tư liệu từ họ, phóng viên ln có thái độ trân trọng mặc dù họ chỉ là
một ông lão quét rác, một bà mẹ nghèo, một thương binh khơng cịn minh mẫn.
- Có được nền tảng đạo đức báo chí ngày càng cao sâu, vững bền như những năm
qua là nhờ có biết bao nhà báo đã dũng cảm bước qua những cám dỗ đời thường,
luôn nêu cao tinh thần “vì nghĩa qn thân”, ln trau dồi nghề nghiệp để ngọn bút
ngày càng sắc bén, tấm lịng ln sáng trong, có tầm nhìn xa trơng rộng, giành trọn
tâm đức, tài năng, thậm chí cả tính mạng của mình, cho sự nghiệp báo chí.
3. Câu 2:
Điều 11. Quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân.
20
Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới.
Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ
chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các tổ
chức, cá nhân khác.
- Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam cùng Tuyên ngôn, Công ước đều khẳng
định quyền tự do ngôn luận của công dân, đồng thời thống nhất nguyên tắc coi
thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân phải do “pháp luật quy định”, “phải
tuân thủ những hạn chế do luật định”, “có thể bị giới hạn bởi pháp luật”. Vì thế tự
do ngôn luận là một quyền hiến định, do Hiến pháp đặt ra và không thể thay đổi.
Trong lĩnh vực báo chí, khẳng định quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận
trên báo chí là một mặt của vấn đề, mặt khác là phải xây dựng, ban hành các điều
luật bảo đảm những quyền này được thực hiện một cách dân chủ, phù hợp với yêu
cầu ổn định và phát triển xã hội, có tác động tích cực đến sự phát triển của con
người.
1.
2.
- Sự phát triển của báo chí Việt Nam ngày nay cho thấy những quyền nói trên đã
được bảo đảm khơng chỉ trong luật mà cịn trong thực tế. Đến nay, Việt Nam đã có
có 859 cơ quan báo chí in; 135 cơ quan báo điện tử; 258 trang thông tin điện tử
tổng hợp của các cơ quan báo chí; 67 đài phát thanh, truyền hình. Hiện nay, khơng
chỉ người dân Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam có
đầy đủ thơng tin từ những hãng thơng tấn báo chí lớn. Hiện ở Việt Nam có tới 75
kênh truyền hình nước ngồi “online”, trong đó có các kênh lớn như: CNN, BBC,
TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg... Có hơn 20 cơ quan báo
chí nước ngồi đã có phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in
bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua Internet, người dân
Việt Nam có thể tiếp cận tin tức, bài vở của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên
thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times...
Nhiều chuyên gia đánh giá Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển Internet hàng
đầu khu vực, đặc biệt là mạng Facebook. Theo cơ quan thống kê của Facebook,
hiện tại Việt Nam có 35 triệu người, bằng 1/3 dân số (92 triệu người) sở hữu tài
khoản Facebook. Trong đó, 21 triệu người truy cập hằng ngày thông qua thiết bị di
động. Được biết nhiều cơ quan, tổ chức và công chức Việt Nam đã sử dụng mạng
Facebook để trực tiếp liên hệ với người dân… Một cơ quan quốc tế về Internet
21
đánh giá Việt Nam hiện là quốc gia có lượng người dùng Internet lớn thứ 3 tại khu
vực Đông Nam Á.
- Khơng có bất cứ chế độ xã hội hiện đại nào ngày nay lại không bảo vệ quyền tự
do ngơn luận báo chí. Vì đây là một điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Đối với
Đảng và Nhà nước ta thì quyền tự do ngơn luận, báo chí khơng chỉ là quyền cần
phải bảo đảm hơn nữa còn được xem là một động lực cho sự phát triển của xã hội.
- Ví dụ chứng minh: Trong thời gian gần đây (2016-2017 ), cơ quan chức năng có
những hình thức xử lý đối với các cá nhân như Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Hữu
Quốc Duy, Mai Phan Lợi, Đỗ Hùng… về hành vi lợi dụng quyền tự do cá nhân
nhằm xâm hại đến lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân, cơ quan, nhà nước đã
cho thấy tính nghiêm minh của pháp luật.
22