MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
Trang
3
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY
LUẬT ẢNH HƯỞNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN ĐẠO
ĐỨC CỦA HỌC VIÊN Ở HỌC VIỆN PHỊNG
1.1.
KHƠNG - KHƠNG QN
Thực chất ảnh hưởng của kinh tế thị trường định
13
hướng xã hội chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở
1.2.
Học viện Phịng khơng - Khơng qn
Những vấn đề có tính quy luật ảnh hưởng của kinh tế
13
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến đạo đức
Chương 2
của học viên ở Học viện Phòng không - Không quân
THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG VÀ MỘT SỐ GIẢI
42
PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC,
HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC VIÊN Ở HỌC VIỆN
2.1.
PHỊNG KHƠNG - KHƠNG QN HIỆN NAY
Thực trạng ảnh hưởng của kinh tế thị trường định
49
hướng xã hội chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở
2.2.
Học viện Phòng không - Không quân hiện nay
Một số giải pháp cơ bản phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế
49
ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
65
77
80
84
Đạo đức xã hội nói chung, đạo đức cách mạng nói riêng có vai trị hết
sức quan trọng, là “động lực bên trong” thúc đẩy, định hướng hành động,
hướng con người vươn tới “chân, thiện, mỹ” trong đời sống xã hội. Thực tiễn
lịch sử xã hội loài người, đặc biệt trong chế độ XHCN đã chứng minh rõ điều
đó. Trong xã hội nếu mỗi người luôn trau dồi đạo đức, biết ứng xử đúng với
“thuần phong, mỹ tục” của dân tộc, phù hợp với kỷ cương, pháp luật sẽ góp
phần xây dựng cuộc sống, xã hội tốt đẹp, có văn hóa, đẩy lùi “các ác”, cái
phản văn hóa, xây dựng một xã hội tốt đẹp, lành mạnh.
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong
ba mươi năm qua đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Trong sự
nghiệp đó, Đảng ta lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xóa bỏ cơ chế tập trung
bao cấp sang xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là điểm nổi bật. Sự
chuyển đổi này đã tác động to lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có đạo đức. Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XI Đảng ta khẳng định:
“Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tuỳ tiện, vơ ngun tắc...” [44, tr.22].
Hiện nay, tình hình khu vực và trên thế giới diễn biến phức tạp, nhất là
vấn đề tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo,… đòi hỏi xây dựng qn đội
thật sự vững mạnh tồn diện, khơng ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, đủ
sức chiến đấu và chiến thắng kẻ thù trong mọi tình huống. Trong đó, việc đào
tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ cho Quân đội nhân dân Việt Nam
luôn là nhiệm vụ trung tâm.
Học viện PK- KQ là cái nôi đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan chỉ
huy tham mưu PK- KQ, những người sau khi ra trường trực tiếp giữ trọng
2
trách hết sức quan trọng ở các đơn vị cơ sở trong huấn luyện sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu bảo vệ vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc. Đặc điểm chiến
đấu của bộ đội PK- KQ là rất phức tạp, căng thẳng và quyết liệt, đồng thời
mỗi cá nhân, đơn vị phải có trách nhiệm rất lớn trong khai thác, sử dụng, bảo
quản hệ thống trang bị, vũ khí, khí tài hiện đại được Nhà nước, quân đội
trang bị. Vì vậy, địi hỏi mỗi học viên trong q trình đào tạo ở Học viện
cũng như khi ra trường đảm nhiệm các cương vị công tác được phân công
phải thực sự là những cán bộ vừa có đức, vừa có tài đáp ứng mục tiêu yêu
cầu đào tạo, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng Quân chủng PK- KQ
vững mạnh toàn diện và xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Phần lớn học viên sau khi tốt nghiệp ra trường đã trở
thành sĩ quan có năng lực tổ chức, chỉ huy, quản lý, đồng thời là cán bộ có
lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng,
sẵn sàng nhận và hồn thành nhiệm vụ, có đạo đức trong sáng, lối sống lành
mạnh được bộ đội yêu mến.
Tuy nhiên, trước sự vận động nhanh chóng của thực tiễn, nhất là sự
tác động, ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, những năm gần đây, một bộ phận học viên đã xuất hiện tư tưởng
tính tốn thiệt hơn, ngại khó khăn gian khổ, thiếu tự giác tu dưỡng rèn luyện,
sống tự do, chạy theo đồng tiền, coi nhẹ giá trị văn hóa, đạo đức truyền
thống,... Những biểu hiện lệch lạc ấy, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện, sức
mạnh chiến đấu của qn đội.
Chính vì lý do đó, tác giả chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở Học viện
Phịng khơng - Khơng quân hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
3
Khi khảo sát tình hình nghiên cứu của đề tài “Ảnh hưởng của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở Học viện PK KQ hiện nay” chúng tôi thấy rằng các vấn đề về tác động, ảnh hưởng của KTTT
đến đạo đức và đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý… cũng
như biện pháp phòng chống sự tác động, ảnh hưởng ấy đã được nghiên cứu, đề
cập ở những phương diện, khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam trong giai đoạn
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định
hướng XHCN, sự biến đổi các giá trị, sự suy thoái đạo đức, nhất là đạo đức
của thế hệ trẻ ngày càng nghiêm trọng, nhiều cơng trình khoa học đã nghiên
cứu giải quyết vấn đề này. Có thể phân thành một số nhóm vấn đề sau:
* Nhóm các cơng trình, đề tài đi sâu luận giải nguyên nhân suy thoái
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, qua đó đề cập đến vấn đề xây
dựng đạo đức trong nền kinh tế thị trường.
Tiêu biểu là đề tài nghiên cứu KHXH-04.03: “Xây dựng lối sống, đạo
đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” do
Huỳnh Khái Vinh làm chủ nhiệm (thuộc chương trình khoa học cơng nghệ
cấp Nhà nước KHXH-04, Hà Nội, 2000) là đề tài nghiên cứu khá tồn diện có
tính hệ thống những vấn đề lý luận về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã
hội, phân tích sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu
hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội; từ đó nêu phương
hướng, quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn
mực giá trị xã hội mới trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển KTTT theo định hướng XHCN.
Quan điểm về đạo đức trong điều kiện KTTT của các nhà lý luận Việt
Nam được trình bày trong quyển sách “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn
Văn Phúc (đồng chủ biên) (Nxb Chính trị quốc gia, 2003). Các tác giả đã
phân tích những vấn đề xung quanh một số vấn đề lý luận, thực trạng và
4
những phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay khá sâu sắc nhưng chưa hệ thống vì đây là tập
hợp những bài viết riêng lẻ của nhiều tác giả với những quan niệm khác nhau.
Sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” do Nguyễn
Duy Quý chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, 2006) tìm hiểu vấn đề đạo đức xã
hội dưới tác động, ảnh hưởng của kinh tế, chính trị của nước ta hiện nay và
phân tích đạo đức của từng nhóm đối tượng, hồn cảnh cụ thể đạo đức của
cán bộ, đảng viên và công chức, đạo đức của thanh niên, đạo đức trong lao
động, giao tiếp, đạo đức trong gia đình. Vấn đề đạo đức của thanh niên được
đề cập trong bài viết “Đạo đức của thanh niên” của Đặng Cảnh Khanh. Tác
giả phân tích thực trạng đạo đức của thanh niên thơng qua phân tích số liệu
khảo sát năm 2001 của Ủy ban quốc gia về tình hình tư tưởng thanh niên Việt
Nam và nêu khái quát nguyên nhân thực trạng đó, bao gồm nguyên nhân do
tâm lý, lứa tuổi, do gia đình, do ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh kích dâm,
bạo lực, do nhận thức pháp luật cịn yếu, do mơi trường xã hội, do điều kiện
kinh tế. Sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” của Trịnh Duy Huy (Nxb Chính trị quốc gia, 2009),
có nội dung khá đầy đủ và hệ thống về lý luận, về thực trạng và một số
phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng xây dựng và phát triển đạo đức
mới phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam và chỉ ra những chuẩn mực cơ bản của đạo đức mới đang được
xây dựng ở nước ta bao gồm: chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế trong
sáng; tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng; tinh thần lao động tự giác, sáng tạo;
tinh thần nhân đạo và một số giá trị khác như: bình đẳng, cơng lý, nhân
quyền, u thiên nhiên, sự lương thiện, thận trọng, tự giác, tự trọng. Sách “Ý
thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Lê
Thị Tuyết Ba (Nxb Khoa học xã hội, 2010), đã đi sâu phân tích về yếu tố ý
5
thức đạo đức, tuy nhiên cơng trình này chưa làm rõ mối quan hệ giữa các yếu
tố cấu thành ý thức đạo đức và các yếu tố trong cấu trúc của đạo đức.
Đề tài, tạp chí: “Tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
tới sự biến động hệ chuẩn mực đạo đức ở nước ta” của Hồng Chí Bảo, Tạp
chí Lý luận & Thực tiễn, số 20 (154), 2015. “Lợi ích và đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 4
(263), 2013. “Về mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường” của Cam
Thiệu Bình, Tạp chí Triết học, số 4 (263), 2013.
Các cơng trình nêu trên đã đưa ra các vấn đề có ý nghĩa phương pháp
luận nhằm luận giải sự biến động hệ chuẩn mực đạo đức ở nước ta hiện nay
dưới tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa
đạo đức và kinh tế thị trường. Qua đó đưa ra những đề xuất quan trọng nhằm
chấn hưng đạo đức để thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo
đức mới, xây dựng và thực hành văn hóa đạo đức trong xã hội.
* Nhóm các cơng trình, đề tài nghiên cứu về đạo đức và đạo đức
cách mạng, bao gồm:
- Các cơng trình khoa học ở ngoài nước
Sách “Nếp sống và đạo đức dưới chế độ xã hội chủ nghĩa”, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1974. Trình bày cơ sở lý luận của nếp sống và đạo đức con
người dưới chế độ XHCN, chỉ ra quá trình hoạt động và kinh nghiệm của
Đảng xã hội thống nhất Đức trong xây dựng nếp sống và đạo đức mới ở Cộng
hoà dân chủ Đức. Sách “Thế nào là qn nhân có đạo đức” của Đ.A.Vơn-cơgơ-nốp (1977), Nxb QĐND, Hà Nội, 1982. Tác giả đã đưa ra những khái
niệm cơ bản của đạo đức học Mác - Lênin, chỉ rõ nội dung và những khía
cạnh biểu hiện của đạo đức quân nhân, luận giải những phẩm chất đạo đức
cần thiết của người chiến sĩ Xô Viết. Đồng thời xác định phương pháp, cách
thức tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người quân nhân cách
mạng. Sách “Đạo đức học” của G.Bandzeladze, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
6
1985. Tác giả đã tập trung luận giải 2 vấn đề tổng quát là đặc trưng của đạo
đức và quy luật phát triển của đạo đức, từ đó xác định những nguyên lý,
nguyên tắc của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Sách “Tu dưỡng đạo đức, tư
tưởng” của Giáo sư La Quốc Kiệt, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003. Cuốn sách
trình bày một cách hệ thống những yêu cầu, chuẩn mực đạo đức và phương
pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tư tưởng của sinh viên trong thời đại mới.
- Các cơng trình khoa học ở trong nước
Sách “Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam” của
Vũ Khiêu và Thành Duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000. “Một số vấn
đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” của Huỳnh Khánh Vinh, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2001… Các cơng trình trên tập trung nghiên cứu quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, đạo đức cách
mạng, những tác động của điều kiện lịch sử mới đến sự phát triển đạo đức, giá
trị đạo đức, hệ thống các giá trị, chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam,
của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xác định phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới,
đạo đức cách mạng.
Luận án: “Nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong
giai đoạn hiện nay”. luận án Tiến sĩ lịch sử của Phùng Xuân Thành, Học viện
CTQG, Hà Nội, 1991. “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách
người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay”, Lê Thị Thuỷ, luận án Tiến
sĩ, Hà Nội, 2001. Các cơng trình trên đi đến khẳng định sự biến đổi thang giá
trị đạo đức hiện nay là tất yếu, vì vậy cần có định hướng đúng đắn cho sự phát
triển đạo đức để xây dựng nền đạo đức mới hiện nay.
- Các cơng trình khoa học trong quân đội
Nhằm phát huy vai trò to lớn của nhân tố con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau về đạo đức trong lĩnh vực hoạt động
đặc thù này. Một số cơng trình tiêu biểu như:
7
Sách: “Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh”, của Tiến
sĩ Nguyễn Thế Thắng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002. “Đạo đức học quân sự”
Tổng cục Chính trị, Nxb QĐND, Hà Nội, 2001. “Phẩm chất đạo đức của
chính ủy, chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt Nam” của Phạm Văn
Nhuận, Nxb QĐND, Hà Nội, 2011. “Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam
hiện nay” của Nguyễn Ngọc Phú, Nxb QĐND, Hà Nội, 2006. “Vận dụng tư
tưởng C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về đạo đức trong xây dựng đạo đức
quân nhân hiện nay” của Đặng Đức Thắng, Nxb QĐND, Hà, Nội 2010. “Bồi
dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sĩ quan trẻ hiện nay” của Phạm Xuân
Hảo, Nxb QĐND, Hà Nội, 2010. Những cuốn sách trên đã trình bày những
nội dung cơ bản các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phẩm chất, chuẩn mực của đạo đức cách mạng
và lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán bộ, sĩ quan và sĩ quan trẻ trong
quân đội, đưa ra những yêu cầu, giải pháp để giáo dục, bồi dưỡng lối sống xã
hội chủ ngĩa và đạo đức cách mạng cho đội ngũ này.
Luận án: “Tự giác hố q trình hình thành và phát triển đạo đức cộng
sản trong Quân đội nhân dân hiện nay”, luận án Tiến sĩ triết học của Nguyễn
Tiến Bình, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 1990. “Phát triển đạo đức
cách mạng ở thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện
nay”, luận án Tiến sĩ triết học của Nguyễn Hùng Oanh, Học viện Chính trị
quân sự, Hà Nội, 2002. “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới”, luận án Tiến sĩ lịch sử của
Đặng Nam Điền, Học viện CTQG, Hà Nội, 2004. Những luận án trên đã nêu
khái quát về các phẩm chất đạo đức cách mạng, làm rõ thực trạng về các phẩm
chất của đội ngũ cán bộ, thanh niên quân đội, đưa ra những phương hướng, giải
pháp để phát triển và nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ này.
Đề tài, tạp chí: “Nâng cao phẩm chất chính trị - đạo đức của người
cán bộ quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Phạm Văn Nhuận, Tạp chí
8
khoa học quân sự, Số 2 (2), 1999. “Giáo dục đạo đức cách mạng cho quân
nhân ở đơn vị cơ sở hiện nay - Thực trạng và giải pháp”. Đề tài cấp Viện
Khoa học xã hội nhân văn quân sự - Bộ Quốc phịng, Mã số: KH.B5.01, 2000.
Đồn Mơ - chủ biên. Các cơng trình của các tác giả trên đã đưa ra các vấn đề
có ý nghĩa phương pháp luận nhằm xây dựng đạo đức của người cán bộ quân
đội hiện nay, phân tích làm rõ bản chất quá trình phát triển đạo đức cách
mạng, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp có tính phương pháp luận
để phát triển đạo đức cách mạng.
Mỗi cơng trình khoa học được tiếp cận theo một hư ớng nhất định
với một đối tượng và khách thể nghiên cứu cụ thể. Các cơng trình nêu
trên là những tài liệu rất có giá trị về mặt khoa học, tác giả có sự kế thừa
để thực hiện đề tài luận văn này. Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu một cách tồn diện, hệ thống dưới góc độ
chun ngành triết học về vấn đề “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn hiện nay”. Do vậy, cơng trình khoa học mà
tác giả nghiên cứu không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã
được cơng bố từ trước cho đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn; Từ
đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, phát
huy những ảnh hưởng tích cực của KTTT định hướng XHCN đến đạo đức của
học viên ở Học viện PK- KQ hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận giải những vấn đề về bản chất, quy luật của ảnh hưởng KTTT
định hướng XHCN đến đạo đức của học viên ở Học viện PK- KQ.
9
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ bản để hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh hưởng tích cực của KTTT định hướng
XHCN đến đạo đức của học viên ở Học viện PK- KQ hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề bản chất, tính quy luật
của ảnh hưởng KTTT định hướng XHCN đến đạo đức của học viên ở Học
viện PK- KQ.
* Phạm vi nghiên cứu: Là những vấn đề liên quan đến bản chất, quá
trình ảnh hưởng KTTT định hướng XHCN đến đạo đức của học viên đào tạo
sĩ quan chỉ huy tham mưu PK- KQ bậc đại học; các số liệu khảo sát từ năm
2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên hệ thống lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đạo đức ở nước ta nói chung và trong quân đội nói riêng; về KTTT định hướng XHCN;
các Chỉ thị, Nghị quyết của QUTƯ, Tổng cục Chính trị về xây dựng đạo đức,
lối sống cho quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam và một số cơng
trình nghiên cứu có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên cơ sở các văn bản báo cáo tổng
kết, đánh giá của các cơ quan chức năng có liên quan, của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh
Quân chủng và của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện PK- KQ; kết quả điều tra,
khảo sát thực trạng ảnh hưởng của KTTT định hướng XHCN đến đạo đức của
học viên ở Học viện PK- KQ.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn chủ yếu sử
10
dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp; kết hợp lôgic và lịch sử; phương
pháp hệ thống, cấu trúc; tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn về ảnh hưởng của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
đến đạo đức của học viên ở Học viện PK- KQ.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề có liên quan và là vũ khí lý luận phê phán
những quan điểm sai trái, sự lệch lạc trong ứng xử đạo đức hiện nay. Đồng
thời, là cơ sở cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở Học viện PK- KQ xác định
nội dung, biện pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và khắc phục ảnh hưởng
tiêu cực của KTTT định hướng XHCN đến đạo đức của học viên, góp phần
xây dựng đội ngũ sĩ quan PK- KQ tương lai có đủ phẩm chất và năng lực, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT ẢNH HƯỞNG
CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN ĐẠO
ĐỨC CỦA HỌC VIÊN Ở HỌC VIỆN PHỊNG KHƠNG - KHƠNG QN
1.1. Thực chất ảnh hưởng của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đến đạo đức của học viên ở Học viện Phòng không - Không quân
1.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đạo đức của
học viên ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn
Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó các q
trình kinh tế, quan hệ kinh tế được thực hiện thông qua thị trường, là nền kinh
tế vận động theo các quy luật của thị trường, trong đó quy luật giá trị giữ vai trò
chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung - cầu trên thị trường. Các quan
hệ hàng hóa, tiền tệ phát triển mở rộng bao quát trên nhiều lĩnh vực xã hội, chi
phối gắn kết người sản xuất và tiêu dùng. Các hoạt động sản xuất, dịch vụ, trao
đổi được quyết định từ thị trường về giá cả, số lượng và chất lượng hàng hóa,
với động cơ thúc đẩy là lợi nhuận tối đa. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát
triển cao của kinh tế hàng hóa dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lịch sử kinh tế thế giới đã biết đến những mô hình kinh tế: Kinh tế tự
nhiên, tự cung tự cấp; kinh tế hàng hóa nhỏ, KTTT và kinh tế kế hoạch hóa
(kinh tế chỉ huy).
Đối với nước ta, trong hơn nửa thế kỷ qua đã chứng kiến nhiều mơ hình
kinh tế khác nhau, mỗi mơ hình là sản phẩm của sự nhận thức, trình độ phát triển
tư duy lý luận sáng tạo của Đảng và nhân dân ta trong những điều kiện lịch sử - xã
hội nhất định. Trước thời kỳ đổi mới, trong điều kiện nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt trình độ phát triển kinh tế còn thấp, cơ
12
cấu kinh tế cịn đơn giản, việc duy trì mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung là
phù hợp, là điều kiện quan trọng cho việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Chính vì vậy, chúng ta đã tập trung, huy động được sức người, sức của cho
cuộc chiến tranh giải phóng và thống nhất Tổ quốc năm 1975.
Tuy nhiên, chúng ta đã duy trì q lâu mơ hình kinh tế này, với kinh tế
kế hoạch hóa tập trung mang tính đặc thù, đối lập với CNTB. Từ chỗ đồng
nhất KTTT với CNTB, chúng ta đố kỵ với KTTT, không nhận thấy KTTT là
một bước tiến so với kinh tế hiện vật. Ở thời điểm CNXH lâm vào khủng
hoảng, nền kinh tế của nước ta lâm vào khó khăn, đã nảy sinh tư tưởng băn
khoăn, dao động, hoài nghi vào sự thắng lợi của con đường XHCN ở nước ta.
Nhận thức được sự bất hợp lý của mô hình kinh tế tập trung quan liêu, Đảng
ta đã quyết tâm chuyển sang mơ hình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước.
Thực tiễn 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền
KTTT định hướng XHCN là hoàn toàn phù hợp và khoa học. Cơ chế thị
trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh tế thị trường khơng đối lập mà cịn là một nhân tố cần thiết của việc xây
dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định: “Để
đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN” [10,
tr.69]. Đại hội XI của Đảng năm 2011 xác định: Hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới
(2011 - 2020), Đại hội đã chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó,
cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có
13
hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế;
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, cần phải nhận thức đầy đủ về những điểm chung và những điểm khác
biệt giữa KTTT định hướng XHCN và KTTT vận hành trong điều kiện của CNTB.
Điểm chung giữa 2 nền kinh tế này là tính chất, quy tắc vận hành của nền kinh tế cơ bản
giống nhau, đó là:
- Đều được hình thành và phát triển từ sản xuất và trao đổi hàng hóa,
phải tơn trọng và thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế, các hoạt
động sản xuất kinh doanh phải theo thị trường. Điều đó có nghĩa là, thừa nhận
các cá nhân, xí nghiệp, các đơn vị kinh tế là những chủ thể thị trường độc lập,
có quyền tự chủ trong các hoạt động kinh tế, trong việc định ra các quyết định
kinh tế và tự mình gánh chịu những rủi ro kinh tế.
- Đều phát triển trong điều kiện các chủ thể kinh tế bao gồm nhiều
thành phần có sự điều tiết của nhà nước ở tầm kinh tế vĩ mô bằng pháp luật,
bằng hệ thống chính sách và địn bẩy kinh tế, kết hợp kế hoạch hóa và thị
trường, trong đó thị trường là cơ sở, cịn kế hoạch mang tính chất định hướng.
Điểm khác biệt giữa 2 nền kinh tế này chủ yếu là khác nhau về mục tiêu
và gắn liền với những điều kiện lịch sử và chế độ xã hội khác nhau:
- Kinh tế thị trường TBCN chịu sự tác động tất yếu của chính trị tư sản,
đem lại lợi nhuận tối đa cho giai cấp tư sản, làm cho các nhà tư bản ngày càng
giàu có, chiếm đoạt tuyệt đối của cải của xã hội. Kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa phát triển sẽ dẫn đến sự xuất hiện của các tập đoàn tư bản lớn chiếm vị trí
độc quyền về sản xuất và cạnh tranh, mâu thuẫn xã hội phát triển khơng thể điều
hịa được. Cùng với sự phát triển của KTTT, nạn thất nghiệp, đình cơng, bãi
cơng, phân cực giàu nghèo ngày càng gia tăng dưới CNTB.
Trong điều kiện KTTT tư bản chủ nghĩa, các nhà tư bản ra sức chạy
theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sự can thiệp ngày càng sâu vào các nước khác, mở
14
rộng và tranh giành thị trường, của cải, tài nguyên của các nước TBCN, gây mất
ổn định về tình hình kinh tế - xã hội thế giới dẫn đến nguy cơ chiến tranh. Trong
quá trình phát triển, KTTT tư bản chủ nghĩa làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn, như
mâu thuẫn giữa công nhân với tư bản, giữa các nước tư bản chủ nghĩa, giữa tăng
trưởng và phát triển, giữa sản xuất và bảo vệ môi trường...
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm mục tiêu phát triển xã
hội XHCN, mang lại lợi ích cho tồn thể nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao
động, làm cho mọi người đều giàu có, đời sống khơng ngừng được nâng
cao, hạn chế tối đa các tiêu cực, khuyết tật của KTTT như phân cực giàu
nghèo quá mức, thất nghiệp, bất bình đẳng, xung đột xã hội, khủng hoảng
kinh tế, ô nhiễm môi trường, phá hoại tài nguyên... Tuy nhiên, việc hạn chế
được nhiều hay ít, hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vào chính sách và quản lý vĩ mô của Nhà
nước XHCN trong từng giai đoạn phát triển.
Từ sự phân tích trên ta có thể quan niệm: Kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam là phương thức phát triển sức sản xuất để đi lên CNXH, một
kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT
vừa dựa trên sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Như vậy, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh
tế vừa tuân theo những quy luật của thị trường vừa có định hướng bởi các
nguyên tắc của CNXH. Đây là nền kinh tế luôn chịu sự tác động của các quy
luật khách quan của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh. Nhà nước một mặt tạo điều kiện cho các quy luật phát huy tác
dụng, mặt khác bằng các biện pháp thích hợp để hạn chế các mặt tiêu cực do cơ
chế thị trường sản sinh ra. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là một nền kinh tế mở, hội nhập.
15
Thứ hai, đó là nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là
vấn đề có tính ngun tắc và là sự khác biệt có tính bản chất so với nền KTTT
tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản
là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu
ấy hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, là nền kinh tế hàng hóa nhưng chưa hồn thiện, ở trình độ
đang phát triển. Thị trường chưa phát triển đồng bộ, chưa hoàn chỉnh, chưa
đáp ứng được yêu cầu sản xuất lưu thông, về cơ bản mới chỉ là thị trường tiêu
thụ, các thị trường như: tiền tệ, chứng khốn, lao động mới ở hình thức sơ
khai. Thu nhập quốc dân thấp và bình quân đầu người chưa cao dẫn đến sức
mua kém, còn ảnh hưởng lớn từ mơ hình kinh tế cũ.
Thứ tư, là nền kinh tế chưa hoàn thiện, do vậy hệ thống pháp luật chưa
đồng bộ, chưa đảm bảo cho nhà chức trách, người quản lý, người tổ chức sản
xuất, người kinh doanh và những người lao động có hành lang quản lý bảo vệ,
đồng thời chưa ngăn chặn hiệu quả các hoạt động kinh tế phi pháp. Nền kinh
tế tất yếu nảy sinh và còn tồn tại những bất hợp lý do cơ chế chính sách chậm
đổi mới, lợi dụng kẽ hở, lợi dụng chức quyền trục lợi, thói ích kỷ, tệ tham
nhũng, phân cực giàu nghèo trong xã hội...
Thứ năm, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế vừa
vận hành theo những quy luật nội tại của KTTT, vừa có sự quản lý, điều tiết
của Nhà nước XHCN thơng qua hệ thống pháp luật, chính sách.
Đạo đức và đạo đức cách mạng của học viên ở Học viện Phịng
khơng - Khơng qn
* Đạo đức và đạo đức cách mạng
Đạo đức là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, có thể coi là xuất
hiện sớm nhất trong sự phát triển của lịch sử. Trong xã hội cộng sản nguyên
16
thủy, các chuẩn mực và quy tắc này được củng cố trong các phong tục, truyền
thống khác nhau của mỗi cộng đồng. Với sự ra đời của xã hội chiếm hữu nơ
lệ, ý thức đạo đức được hình thành và phát triển với tính cách là một hình thái
riêng của ý thức xã hội. Cũng từ đây, trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện
nhiều học thuyết về đạo đức, với nhiều quan niệm khác nhau. Theo quan điểm
Macxit có thể thấy rằng: “Đạo đức là một hiện tượng xã hội thuộc lĩnh vực
đời sống tinh thần, bao gồm các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn
mực…được dùng để đánh giá điều chỉnh hành vi ứng xử của con người (giữa
người với người, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên…)
được thực hiện do sức mạnh của phong tục, tập quán, của dư luận xã hội và
lương tâm của mỗi con người cho phù hợp với lợi ích xã hội, hạnh phúc con
người và tiến bộ xã hội” [55, tr.8].
Như vậy, trước hết đạo đức được xem xét dưới góc độ ý thức đạo đứclà một trong các hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội mà trực tiếp
là phản ánh đời sống hiện thực đạo đức xã hội. Mỗi sự biến đổi của các điều
kiện sinh hoạt vật chất, các quan hệ kinh tế và nhất là những biến đổi về
phương thức sản xuất, chế độ xã hội, làm cho đạo đức khơng ngừng vận động
và biến đổi, tạo nên tính phong phú mn vẻ của nó. Trong mỗi thời kỳ lịch
sử, đạo đức bao hàm trong nó nhiều đặc tính khác nhau, nó vừa có tính phổ
qt, vừa có tính đặc thù. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức ln mang tính
giai cấp sâu sắc và có mối liên hệ mật thiết với chính trị. Đạo đức từ chỗ là
giá trị chung của toàn nhân loại đã trở thành đạo đức của mỗi giai cấp và sự
tiến bộ hay lỗi thời của giai cấp thống trị xã hội sẽ chi phối tính tiến bộ hay lỗi
thời của đạo đức nhân danh tồn xã hội đó.
Thứ hai, đạo đức được xem xét với tính cách là phương thức điều chỉnh
hành vi con người. Để tồn tại và phát triển như một lẽ tự nhiên, con người
phải gia nhập vào những cộng đồng xã hội nhất định, khi đó con người vừa
nhận được những lợi ích từ cộng đồng vừa phải hoàn thành trách nhiệm và
17
nghĩa vụ đối với cộng đồng mà mình là thành viên. Đạo đức giúp con người
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,
nó xác định rõ giới hạn được phép và không được phép trong cả nhận thức và
hành vi của con người, khi đó mỗi tư tưởng và hành vi con người được thực
hiện dưới sức mạnh điều chỉnh của dư luận xã hội và hướng dẫn của lương
tâm mỗi người theo những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhất định.
Thứ ba, đạo đức được xem xét dưới góc độ là một hệ thống giá trị
thiện, giàu tính nhân văn. Đạo đức ln có đặc trưng giá trị. Thiện là giá trị
khẳng định lợi ích xã hội của đạo đức, đối lập với thiện là ác - cái phủ định lợi
ích xã hội. Quan hệ xã hội là phương thức cơ bản để đạo đức thể hiện sự tồn
tại của nó qua mỗi thái độ và hành vi con người. Đạo đức không tồn tại độc
lập mà thẩm thấu vào các quan hệ xã hội, giữa con người với con người. Do
vậy, hoàn thiện các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ, cách mạng là một
phương thức cơ bản để khơng ngừng hồn thiện ý thức và hành vi đạo đức
của con người. Mặt khác, đạo đức mà con người sáng tạo ra là để duy trì trật
tự, ổn định xã hội, làm tăng sức mạnh đoàn kết giữa các thành viên trong
cộng đồng để chinh phục thiên nhiên, từng bước làm chủ cuộc sống của mình,
giúp con người ý thức ngày càng sâu sắc về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của
từng mối quan hệ trong cuộc sống làm phong phú đời sống tinh thần xã hội và
thế giới nội tâm của mỗi con người. Những giá trị đạo đức phong phú của con
người được tích lũy qua thực tiễn đời sống, được lưu giữ và trao truyền cho
nhau giữa các thế hệ để biết cách sống và trở thành con người chân chính.
Tinh thần đạo đức cao cả được tỏa trong tâm hồn con người như vì sao sáng
giữa bầu trời đêm có sức hấp dẫn kỳ lạ bởi vẻ đẹp và sức mạnh tiềm ẩn của
nó. Với ý nghĩa như vậy ta thấy đạo đức là một hệ thống giá trị của con người
và vì con người, nó mang tính nhân văn sâu sắc.
Với tính cách là một sản phẩm của đời sống xã hội, đạo đức hình thành,
vận động và phát triển do sự tác động của tổng hòa các quan hệ xã hội trong
18
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, trong đó những quan hệ kinh tế, quan hệ giai
cấp là những quan hệ giữ vai trò quyết định nhất.
Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định lịch sử phát triển của xã hội loài
người tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội đó tất yếu xuất hiện hình thái
ý thức đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Một hình thái đạo đức tốt đẹp nhất trong
lịch sử phát triển đạo đức nhân loại.
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã xem xét toàn bộ những tư tưởng đạo đức của nhân loại từ xa xưa,
tổng kết và đưa ra những luận điểm khoa học về đạo đức. Hai ông đã chỉ ra sự tất
yếu xuất hiện một kiểu đạo đức mới trong lịch sử - đạo đức cách mạng của giai cấp
công nhân. Theo Ph.Ăngghen, đây là nền đạo đức “đáng tiêu biểu cho sự lật đổ hiện
tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vơ sản, là thứ đạo đức có một
số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự lâu dài” [31, tr.143].
Xét về mặt lịch sử, đạo đức cộng sản được hình thành từ cuộc đấu tranh
của giai cấp cơng nhân chống lại giai cấp tư sản, nhằm xác lập địa vị thống trị
chính trị của mình, lãnh đạo xã hội xây dựng nền kinh tế mới, một cơ cấu xã
hội - giai cấp mới, một đời sống văn hóa tinh thần mới có tính XHCN. Đạo
đức cộng sản hình thành và phát triển từ ĐĐCM của giai cấp công nhân trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống tốt đẹp và ngày càng trở
thành đạo đức chung của nhân loại. Nó chính là sự phủ định biện chứng nền
đạo đức trước đó, hình thành một vịng khâu phát triển mới làm nên bước tiến
bộ tồn diện của đạo đức. Xét về bản chất, đạo đức cộng sản - theo Lênin: “đó
là những gì góp phần phá hủy xã hội của giai cấp bóc lột và đoàn kết tất cả
những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới
của những người cộng sản” [27, tr.368-369].
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức
cộng sản, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng đạo đức tiến bộ của các
19
chế độ xã hội trước và đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xây dựng những quan điểm về một nền đạo đức mới - đạo đức cách
mạng. Đó là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức
được kết tinh từ những tinh hoa văn hóa nhân loại và truyền thống đạo đức tốt
đẹp của dân tộc; phản ánh thực tiễn sinh động sự nghiệp đấu tranh cách mạng
của giai cấp cơng nhân; hướng tới sự giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, xây dựng xã hội mới ấm no, tự do, hạnh phúc của con người.
Theo Hồ Chí Minh đạo đức chính là cốt lõi của nhân sinh quan cộng
sản, chỉ đạo mọi tư duy và hành động của con người. Bởi vậy người có
ĐĐCM ln sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, vì hạnh phúc nhân
dân, vì lẽ phải và công bằng; sống trong sạch, lành mạnh. Trái lại, sự suy
thoái về đạo đức tất yếu dẫn đến suy thoái về chính trị. Khi bàn về vai trị của
ĐĐCM, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
khơng lãnh đạo được nhân dân” [34, tr.253]. Đạo đức cách mạng là đạo đức
của giai cấp cơng nhân được hình thành và phát triển cùng với tiến trình của
cách mạng XHCN, do chính giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động tiến
hành để lật đổ chế độ TBCN xây dựng xã hội mới khơng cịn áp bức bóc lột,
bất cơng. Đạo đức cách mạng là đạo đức của những người làm chủ chế độ xã
hội mới, là đạo đức hoàn toàn khác về chất với các kiểu đạo đức của các giai
cấp thống trị trước đây. Đạo đức cách mạng được ra đời và phát triển trên
cơ sở những giá trị phẩm chất cao đẹp của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động và được biểu hiện qua những phẩm chất của người cách mạng:
trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu cho cách mạng; có lối
sống trong sạch, lành mạnh, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; có ý
thức và tinh thần tập thể cao, luôn đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân, thực dụng; tinh thần đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm; và là
người ln có tinh thần ham học hỏi để không ngừng tiến bộ…. Theo Hồ
20
Chí Minh con đường hình thành, phát triển ĐĐCM phải thông qua hoạt
động giáo dục, tự giáo dục và rèn luyện bền bỉ hàng ngày, thông qua hoạt
động thực tiễn của mỗi cá nhân, tổ chức và của toàn xã hội; như Hồ Chí
Minh đã nói: Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Theo Hồ Chí Minh, ĐĐCM là một nền đạo đức mang bản chất giai cấp
công nhân, kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn
hố nhân loại. Đạo đức đó khơng phải vì danh lợi cá nhân mà vì lợi ích chung
của Đảng, của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và sự tiến bộ xã hội.
Là Người sáng lập, tổ chức, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Hồ Chí Minh
không chỉ quan tâm xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, mà cịn
đề cập đến một phương diện khác, đó là xây dựng Đảng về đạo đức, lối sống.
Một Đảng có ĐĐCM mới có sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ của người
chiến sĩ tiên phong. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Đảng ta tiến hành sự nghiệp cách mạng giải phóng và thống nhất đất nước,
Người đã khái quát và cảnh báo: Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người u mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng cịn trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Người cũng thường xuyên nhấn
mạnh: “Đảng phải là đạo đức, là văn minh”, cán bộ, đảng viên phải vừa hồng
vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải trung với nước, hiếu với dân,
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vô tư, xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đạo đức cách mạng không chỉ là những quan điểm trong tư tưởng Hồ
Chí Minh mà Người còn là tấm gương ĐĐCM trong sáng. Cả cuộc đời của
mình, Hồ Chí Minh đã tự thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những tư
21
tưởng và khát vọng ĐĐCM; Người vừa là nhà lý luận ĐĐCM, vừa là một tấm
gương đạo đức trong sáng, mẫu mực.
Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội đã
khẳng định ĐĐCM chính là một sức mạnh nội sinh đã được tích hợp ở một
trình độ cao tạo nên sức mạnh chiến đấu của qn đội ta. Song, nó khơng
phải là cái “nhất thành bất biến”, “thủ cựu” mà “Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người” [34, tr.251-252]. Trong bối cảnh mở
cửa, hội nhập quốc tế của đất nước các thế lực thù địch đang ráo riết thực
hiện “diễn biến hịa bình”; trước đòi hỏi của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng
quân đội trong giai đoạn mới theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, củng cố quốc phòng, cũng như của sự nghiệp đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề
giữ gìn và phát huy phẩm chất đạo đức “Bộ đội Cụ Hồ” trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết. Hồ Chí Minh đã nói: Người cách mạng phải có đạo đức, mà tự
mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đả hủ hóa xấu xa thì cịn
làm nổi việc gì. Do đó, việc hồn thiện phát triển ĐĐCM cịn là sự quan tâm
của tồn đảng, tồn dân ta, đồng thời cịn là tâm nguyện, ý chí của tuổi trẻ
qn đội nói chung và của mỗi học viên ở Học viện PK- KQ nói riêng.
* Đạo đức cách mạng của học viên ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn.
Học viên ở Học viện PK- KQ tương đối đa dạng với nhiều đối tượng với
những cấp học, bậc học, ngành học khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài, tác giả tập trung chủ yếu vào đối tượng là học viên sỹ quan chỉ huy tham mưu
PK- KQ bậc đại học, bởi đây là đối tượng chính, đơng đảo nhất, tiêu biểu nhất.
Học viên Học viện PK- KQ là những thanh niên trong và ngoài quân đội
đã trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh quân sự vào Học viện PK- KQ đang học tập,
rèn luyện, phấn đấu theo quy trình đào tạo của Học viện, khi tốt nghiệp ra
22
trường trở thành những sĩ quan chỉ huy tham mưu các chuyên ngành PK- KQ
như pháo, tên lửa, ra đa phịng khơng, tác huấn và dẫn đường khơng qn.
Học viên Học viện PK- KQ ở đây được xác định là đối tượng có tuổi đời
cịn khá trẻ chủ yếu từ 18- 25 tuổi, là lứa tuổi có sự phát triển khá hoàn thiện về
thể chất nhưng phần lớn trong họ chưa ổn định về mặt nhân cách. Đây là đặc
trưng cơ bản của lứa tuổi thanh niên.
Cũng như học viên ở các nhà trường quân đội khác, học viên ở Học viện
PK- KQ hiện nay có vốn sống, kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn cịn
hạn chế, họ có sự nhạy cảm với cái mới, sơi nổi, nhiệt tình, có quyết tâm cao
trong thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, họ cịn thiếu chín chắn, khả năng chọn
lọc tiếp thu, lĩnh hội chưa nhiều, dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội, các thói
hư, tật xấu. Song nếu có biện pháp giáo dục kịp thời thì bản lĩnh chính trị,
ĐĐCM từng bước được củng cố, phát triển.
Học viên ở Học viện PK- KQ là những người đã tốt nghiệp phổ thơng
trung học, có trình độ hiểu biết khá rộng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để
trở thành học viên, họ đã trải qua sự tuyển chọn kỹ càng không chỉ về mặt phẩm
chất, nhân cách mà cịn về mặt trí tuệ. Để trở thành học viên họ phải có trình độ
vượt trội so với rất nhiều thanh niên khác, vì vậy họ có khả năng tiếp thu được hệ
thống tri thức ở trình độ ngày một cao và thích nghi được với cường độ huấn
luện, rèn luyện ngày càng lớn trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Học viên ở Học viện PK- KQ hiện nay được sinh ra và lớn lên trong môi
trường tốt, được thừa hưởng thành quả cách mạng của đất nước, được sự
chăm lo giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, là những thanh niên có
phẩm chất đạo đức, ý thức cơng dân tốt, khơng có tiền án, tiền sự, không mắc
những tệ nạn xã hội, không tham gia vào tơn giáo nào. Nhìn chung, trước khi
trở thành học viên họ đã có nhận thức bước đầu đúng đắn về lý tưởng cách
mạng, về vai trò, trách nhiệm của người thanh niên đối với dân tộc, với đất nước
và với sự nghiệp cách mạng của Đảng, là những thanh niên có ước mơ, khát
23
vọng, hoài bão trở thành sĩ quan được phục vụ trong quân đội lâu dài, được cống
hiến sức lực, trí tuê, tài năng của mình cho sự nghiệp bảo vệ bầu trời Tổ quốc.
Ngoài những phẩm chất, tố chất đặc thù thuộc về chuyên môn nghiệp
vụ, những phẩm chất về chính trị tư tưởng, người học viên ở Học viện PKKQ cần phải đặc biệt coi trọng việc hoàn thiện nhân cách người sỹ quan PKKQ tương lai trong quá trình giáo dục rèn luyện. Trong các phẩm chất nhân
cách đó, ĐĐCM là yêu cầu cơ bản, là gốc của người cán bộ tương lai, của
người học viên hôm nay.
Đạo đức cách mạng của học viên ở Học viện PK- KQ là hệ thống
những phẩm chất đạo đức của người cán bộ, người quân nhân trong quân
đội, thể hiện ở ý thức, tình cảm, thái độ và hành vi đạo đức của họ trong đời
sống, sinh hoạt và hoạt động qn sự; sự hình thành, phát triển và hồn thiện
nhân cách người sĩ quan cách mạng là cơ sở sức mạnh để mỗi học viên hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Dưới góc độ nhận thức luận, ĐĐCM của học viên ở Học viện PK- KQ
là đạo đức của giai cấp công nhân, mang bản chất cách mạng, khoa học.
Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đó chứa đựng những nội dung cách
mạng triệt để của hệ tư tưởng, thế giới quan và lập trường cách mạng, khoa
học của giai cấp công nhân và được các thế hệ học viên tiếp nhận một cách tự
giác, trở thành ý chí, tình cảm, niềm tin, tạo nên một động lực thơi thúc họ
thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm đạo đức bằng các hành động thực tiễn quân
sự. Đồng thời, đây cũng là cơ sở, điều kiện để mỗi học viên hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.
Để làm rõ những nét riêng, biểu hiện cụ thể về ĐĐCM của học viên ở
Học viện PK- KQ không thể lãng tránh được những vấn đề chung mà phải đi
từ những cái chung để tìm ra những biểu hiện riêng, những yêu cầu cụ thể về
đạo đức của người học viên ở Học viện PK- KQ. Từ quan điểm và phương
pháp tiếp cận trên, chúng tôi cho rằng trong sự nghiệp xây dựng và chiến đấu
24
của quân đội ta, ĐĐCM của học viên ở Học viện PK- KQ được biểu hiện tập
trung ở các nội dung cơ bản sau:
Một là, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, tận tụy với nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là phẩm chất đạo đức chính trị cơ bản, bao trùm và quan trọng nhất
trong hệ thống những phẩm chất ĐĐCM, giữ vai trò định hướng nhận thức và
hành động của học viên ở Học viện PK- KQ. Đồng thời là cơ sở bảo đảm
cho họ xác định đúng mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm, lịng
dũng cảm, tinh thần chiến đấu để hồn thành nhiệm vụ được giao.
Trung thành với Đảng, với Tổ quốc, tận tụy với nhân dân của học viên
ở Học viện PK- KQ có nội dung rộng lớn. Đó là tinh thần hết lòng, hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; vì Tổ quốc, vì nhân dân sẵn sàng hy sinh
quên mình; là tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc và xây dựng niềm tin tất thắng vào CNXH; hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó; tự giác chấp hành
pháp luật nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị, cống hiến tài năng,
trí tuệ, sức lực của mình cho đất nước, quân đội. Trung với Đảng, với Tổ
quốc, tận hiếu với nhân dân của người học viên không chỉ biểu hiện ở nhận
thức, tư tưởng, tình cảm mà cịn được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn
sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; trong giáo dục và trong hoạt động sản xuất
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; ở hiệu quả chỉ huy, quản lý
và duy trì đơn vị; quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, thực hiện
nhiệm vụ của quân đội. Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình
hình khu vực, thế giới, phẩm chất ĐĐCM của học viên ở Học viện PK- KQ
trước hết phải thể hiện ở bản lĩnh chính trị vững vàng, ở động cơ, thái độ và
hành vi đạo đức tốt đẹp trong các mối quan hệ, cũng như trong thực hiện
nhiệm vụ, đặt lợi ích của Đảng, của tập thể lên trên và trước lợi ích cá nhân.
25