Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Charlie Munger, The Art of Stock Picking

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.98 KB, 30 trang )

Nghệ thuật lựa chọn cổ phiếu
(Trích dịch từ bài nói chuyện “The Art of Stock Picking” của Charlie Munger)
Translator by: The Navigator
Hôm nay tôi sẽ chơi một mẹo nhỏ với các bạn bởi vì chủ đề cuộc nói chuyện của tôi là
nghệ thuật lựa chọn cổ phiếu, một phân nhánh nghệ thuật của trí tuệ phổ quát (worldly
wisdom). Việc này cho phép tơi bắt đầu nói về trí tuệ phổ quát, một chủ đề rộng hơn nhiều
mà tôi quan tâm bởi vì tơi nghĩ rằng trong tất cả những thứ ấy, có q ít thứ được truyền
đạt bởi hệ thống giáo dục hiện đại, ít nhất là theo một cách thức hiệu quả.
Và do vậy, cuộc nói chuyện sẽ diễn ra theo cách mà một số nhà tâm lý học hành vi gọi là
quy tắc Grandma (Grandma’s rule), được dựa theo sự thơng thái của Grandma khi bà đã
nói rằng “Nên ăn cà rốt trước khi ăn món tráng miệng”. Phần Cà rốt trong bài nói chuyện
này là về chủ đề chung của trí tuệ phổ quát, đây là một cách khá hay để bắt đầu. Rốt cuộc,
lý thuyết của giáo dục hiện đại là bạn cần một nền tảng giáo dục căn bản (general education)
trước khi đi vào việc chun mơn hóa (specialize). Và tơi nghĩ ở một mức độ rộng nào đấy,
trước khi bạn trở thành một người chọn lựa cổ phiếu xuất chúng (a great stock picker) thì
bạn cũng cần phải có một nền tảng giáo dục căn bản. Vì thế, để nhấn mạnh điều mà đơi khi
tơi gọi một cách hơi gượng gạo là trí tuệ phổ quát dành cho người chậm tiêu (remedial
worldy wisdom), tôi sẽ bắt đầu bằng cách khởi động các bạn thông qua một vài khái niệm
cơ bản (basic notions).
Trí tuệ phổ quát là gì (what is elementary, worldly wisdom)? Chà, quy tắc đầu tiên đó là
bạn khơng thể thực sự hiểu biết được bất cứ thứ gì nếu chỉ dựa vào việc ghi nhớ các sự việc
độc lập (isolated facts) và sau đó là cố gắng hồi tưởng mạnh mẽ chúng (bang ‘em back).
Nếu các sự việc không liên kết với nhau trên một mạng liên kết tư duy (lattice of theory)
thì bạn sẽ khơng có được chúng ở dạng thức có thể sử dụng được.
Bạn phải có các mẫu hình (models) trong đầu. Và bạn phải sắp xếp các trải nghiệm của
mình cả gián tiếp lẫn trực tiếp dựa trên mạng lưới các mơ hình trí tuệ này (latticework of
models). Bạn có thể nhận thấy những sinh viên chỉ cố ghi nhớ và gợi lại những gì đã nhớ.
Và, họ đã thất bại ở trường học và cả trong trường đời. Bạn phải gắn kinh nghiệm của bản
thân vào một mạng lưới các mơ hình trí tuệ ngay trong đầu bạn.
Các mơ hình này là gì? Vâng, quy tắc đầu tiên là bạn phải có nhiều mơ hình (multiple
models) bởi vì nếu bạn chỉ có một hay hai để sử dụng thơi thì bản chất tâm lý lồi người


trong bạn sẽ gượng ép thực tế để nó phù hợp với mơ hình của chính bạn hoặc ít nhất là
giống như bạn đang nghĩ vậy. Lúc này, bạn giống như một nhà chữa trị vận động bằng tay
(chiropractic), đương nhiên, là một kẻ tồi nhất trong y thuật (great boob in medicine). Việc
này khá giống một câu nói củ, “Đối với người đàn ông đang cầm búa trong tay, mọi vấn
đề sẽ trông giống như một cái đinh” Và đương nhiên, đó là cách mà các chiropractic xúc


tiến việc thực hành y học. Nhưng đó là một cách suy nghĩ hoàn toàn thảm hại và là một
cách thảm hại hoàn toàn để vận hành thế giới này. Vì vậy, bạn cần phải có nhiều mơ hình.
Và các mơ hình này phải xuất phát từ nhiều nhánh học thuật (multiple disciplines) bởi vì
tất cả sự khơn ngoan của thế gian này thì khơng thể được tìm thấy trong một số ít khoa hàn
lâm (academic department). Đấy là lý do tại sao các nhà thơ (poetry professors), nói chung,
rất không khôn ngoan theo nghĩa thực/trần tục (worldly sense). Họ đã khơng có đủ các mẫu
hình trong tâm trí mình. Vì vậy bạn phải có các mơ hình được sắp xếp hợp lý trên một loạt
các nhánh học thuật.
Bạn có thể nói, “Má ơi
) (my god), khó vãi ra”, Nhưng may thay, điều đó khơng khó
lắm bởi vì 80 hoặc 90 mẫu hình quan trọng sẽ chiếm đến khoảng 90% lực đẩy (freight)
trong việc biến bạn thành một người thông thái, trong khi trong số đó chỉ có một lượng nhỏ
giới hạn mới thực sự rất khó nhằn mà thơi. Vì thế, hãy xem xét một cách ngắn gọn những
loại mơ hình và kỹ thuật nào đóng vai trị hình thành nên thứ kiến thức cơ bản mà mọi
người phải có trước khi họ trở nên thực sự giỏi trong một lĩnh vực nghệ thuật đặc thù nào
đấy giống như việc lựa chọn cổ phiếu.
Đầu tiên là toán học. Rõ ràng, bạn phải có khả năng xử lý số liệu (handle numbers) và số
lượng theo toán học cơ bản. Và mơ hình hữu hiệu nhất đó là tốn học hốn vị và tổ hợp sơ
cấp (elementary math of permutations and combinations). Chúng đã được dạy vào những
ngày tơi cịn học năm hai ở trường trung học (sophomore year). Tôi cho rằng hiện nay ở
các trường tư thục tuyệt vời (great private schools), có lẽ nó đã được dạy từ lớp 8 hoặc thấp
hơn thế. Chúng là đại số rất đơn giản. Tất cả đã được giải quyết trong thời gian có khóa
học về Pascal và Fermat. Chúng được trình bày một cách tình cờ theo một loạt các chữ cái.

Nó khơng khó để học. Điều khó để có được chúng là bạn phải sử dụng chúng thường xuyên
gần như là hàng ngày trong đời mình. Hệ thống Fermat/Pascal phù hợp đáng kể
(dramatically consonant) với cách mà thế giới đang vận hành. Và đó là sự thật rất cơ bản.
Vì vậy bạn đơn giản là phải có kỹ thuật này.
Có nhiều tổ chức giáo dục (tuy không đầy đủ) đã nhận ra được điều này. Tại trường kinh
doanh Harvard, điều tuyệt vời nhất về số lượng đã gắn kết lớp học năm nhất với nhau đó
là lý thuyết cây quyết định (dicision trees). Tất cả những gì họ làm là sử dụng đại số trung
học (high school algebra) và áp dụng nó vào các vấn đề thực tế trong cuộc sống. Và các
sinh viên đã u thích nó. Họ đã ngạc nhiên khi thấy rằng đại số trung học thực sự ứng
dụng trong cuộc sống. Nhìn chung, khi nó hoạt động, mọi người không thể thực hiện điều
này một cách tự nhiên và tự động. Nếu bạn hiểu tâm lý học cơ bản, lý do họ khơng thể thì
thực sự khá đơn giản: Mạng lưới nơ ron thần kinh cơ bản của bộ não thông qua sự di truyền
tự do (broad genetic) và tiến hóa văn hóa (cultural evolution) đã sử dụng một kiểu ước tính
giản đơn (rude) và ngắn gọn (shortcut). Và nó khơng phải là Fermat/Pascal, nó chỉ chứa
các yếu tố của Fermat/Pascal trong đó. Tuy nhiên, nó khơng thực sự tốt cho lắm. Vì vậy
bạn phải học những kiến thức tốn học căn bản này theo cách có thể sử dụng và phải sử


dụng chúng thường xuyên trong cuộc sống-giống kiểu như nếu bạn muốn trở thành một
golfer chuyên nghiệp, bạn không thể sử dụng cú Swing một cách bản năng theo sự tiến hóa
tự do (broad evolution) mang lại. Bạn phải học cách cầm gậy chắc chắn và xoay theo nhiều
cách khác nhau để cảm nhận được khả năng đầy đủ của cú quả như một golfer vậy. Nếu
bạn khơng có được những điều cơ bản này thì tốn học cơ bản cũng có khả năng
(probability) đi vào trong cảm thụ (repertoire) của bạn (nhưng hơi không được tự nhiên)
để rồi sau đó bạn trải qua một cuộc đời dài giống như một người đàn ơng chỉ có một cái
chân nhưng lại đang tham gia trị chơi đá đít vậy (ass-kicking contest). Bạn đang mang lại
lại thế rất lớn cho những người khác.
Một trong những lợi thế rất lớn của một người như Buffett, người mà tôi đã làm việc trong
suốt những năm qua, đó là anh ta ln tự động suy nghĩ theo mơ hình cây quyết định
(decision trees) và tốn học hoán vị và tổ hợp…

Đương nhiên, bạn phải biết về kế tốn. Nó chính là ngơn ngữ của thực tế kinh doanh. Nó
là thứ rất hữu ích để truyền tải nền văn minh. Tơi đã từng nghe nói rằng nó đến với nền
văn minh thơng qua Venice, một nơi được xem là cường quốc thương mại lớn nhất ở Địa
Trung Hải (Mediterranean). Tuy nhiên, sổ sách kế toán kép lại là một thứ phát minh tồi tệ
(hell of an invention). Kế tốn cũng khơng khó để đọc hiểu. Nhưng bạn phải thông hiểu đủ
để nhận ra được những hạn chế của nó – bởi vì mặc dù kế tốn là điểm khởi đầu nhưng nó
chỉ là một phép ước chừng thơ sơ (crude approximation). Và khơng khó để nhận biết được
các hạn chế của nó. Ví dụ, mọi người đều có thể nhận thấy rằng bạn đã ít nhiều dự đoán
thời gian sử dụng hiệu quả của một chiếc máy bay hay bất cứ cái gì tương tự thế chỉ bởi vì
bạn thể hiện tỉ lệ khấu hao theo những con số khéo léo mà bản thân chúng không tạo nên
bất cứ thứ gì bạn thực sự biết được.
Xét về những hạn chế của kế toán, một trong những câu chuyện u thích của tơi liên quan
tới một doanh nhân vĩ đại tên là Carl Braun, người đã sáng lập công ty CF Braun
Engineering. Công ty chuyên thiết kế và xây dụng nhà máy lọc dầu, một việc rất khó để
thực hiện. Và Braun sẽ hồn thành đúng hạn, an toàn và đạt hiểu quả…Đấy là một nghệ
thuật lớn. Braun thông qua kỹ thuật Teutonic đã nhận ra những con số khơng minh bạch.
Và một trong số đó là khi ơng ấy nhìn vào các tiêu chuẩn kế tốn và cách thức áp dụng
chúng vào việc xây dựng các nhà máy lọc dầu và ơng ấy nói, “Thật lố bịch (this is asinine)”.
Vì thế ơng ấy đã tống cổ (throw out) hết các kế toán rồi mang các kỹ sư của mình tới và
nói “bây giờ, chúng ta sẽ nghĩ ra hệ thống kế tốn riêng của mình để xử lý quá trình này”.
Trong thời gian sau đấy thì kế toán đã áp dụng rất nhiều quan điểm của Carl Braun. Vì thế
ơng ấy đã trở thành một người đáng gờm (formidably willful) và đầy tài năng, người đã
chứng minh được tầm quan trọng của cả việc kế toán và việc biết được những hạn chế của
nó.
Ơng ấy cũng có một quy tắc khác (theo tâm lý học), mà nếu bạn quan tâm tới trí tuệ thì nó
phải là một phần cảm thụ của bạn-giống như toán học hoán vị và tổ hợp cơ bản vậy. Quy


tắc của ông ấy áp dụng cho việc giao tiếp của tồn cơng ty và được gọi là quy tác 5 W –
bạn phải nói được Ai (Who) đang làm Gì (What), ở đâu (Where), Khi nào (When) và Tại

sao (Why). Nếu bạn viết một bức thư hoặc trực tiếp chỉ đạo ai đó làm việc gì trong cơng ty
mà lại khơng nói cho họ biết tại sao thì bạn sẽ bị sa thải đầu tiên. Sự thật là bạn sẽ bị sa
thải nếu bạn làm việc này lần thứ hai. Bạn có thể hỏi tại sao nó lại quan trọng như vậy?
Chà, đấy là một quy tắc tâm lý, bạn sẽ suy nghĩ tốt hơn nếu như bạn sắp xếp được kiến
thức dựa trên các mơ hình với các câu trả lời đơn giản cho câu hỏi WHY, WHY, WHY.
Nếu bạn ln ln nói cho một ai đó rằng tại sao thì họ sẽ hiểu nó một cách tốt hơn, họ sẽ
xem nó quan trọng hơn, và họ sẽ hầu như dễ chấp nhận hơn. Ngay cả khi họ khơng hiểu
được lý do của bạn thì họ cũng sẽ dễ chấp nhận hơn.
Vì vậy, có một quy tắc cứng (iron rule) rằng khi bạn muốn bắt đầu có được trí tuệ phổ quát
bằng cách đặt câu hỏi tại sao, tại sao, tại sao trong việc giao tiếp với những người khác về
mọi thứ, thì bạn phải ln muốn thêm vào tại sao, tại sao, tại sao nữa. Ngay cả khi nó có
vẽ hiển nhiên, sẽ khơn ngoan khi thêm vào câu hỏi Why.
Những mơ hình nào là đáng tin cậy nhất? Chà, hiễn nhiên, những mơ hình đến từ khoa học
và kỹ thuật nghiêm túc thì đều là những mơ hình đáng tin cậy nhất trên trái đất này. Và
việc kiểm sốt chất lượng kỹ thuật (ít nhất theo những gì tinh túy trong đấy cho bạn và tơi,
những người khơng phải là chun gia kỹ thuật) thì dựa khá nhiều vào cơ sở của toán học
Fermat và Pascal. Nó tốn kém rất nhiều và bạn sẽ có ít khả năng bị phá vỡ nếu bạn chi tiêu
nhiều như vậy. Tất cả đều là toán học căn bản của phổ thông. Và một chút rắc rối
(elaboration) của chúng là những gì mà Deming đã mang tới Nhật Bản nhằm phục vụ cho
việc kiểm sốt chất lượng.
Tơi khơng cho rằng hầu hết mọi người cần phải thấy hết sức khó khăn (terribly facile) trong
việc hiểu các thống kê. Ví dụ, Tơi khơng chắc rằng tơi có thể đọc hiểu được hàm phân phối
Poisson (Poisson distribution). Nhưng tôi biết phân phối Gaussian và những hàm phân phối
bình thường sẽ như thế nào và tôi biết rằng các sự kiện cũng như các khía cạnh lớn của
thực tế cuối cùng cũng được phân phối theo cách đó. Vì vậy tơi có thể làm một phép tính
tốn sơ bộ (rough calculation). Nhưng nếu bạn u cầu tơi giải đáp một điều gì đấy liên
quan tới hàm phân phối Gaussian đến tận 10 chữ số thập phân thì chắc tơi khơng thể ngồi
xuống và giải tốn được. Tơi giống như một người chơi bài, người học để chơi tốt hơn mà
không thành thạo Pascal vậy. Và nhân tiện, việc này hoạt động đủ tốt. Nhưng bạn phải hiểu
rằng đường cong hình chng (bell-shaped curve) ít nhất cũng khá tương ứng với kết quả

tôi tính toán. Đương nhiên, cái ý tưởng kỹ thuật về một hệ thống dự phòng (backup system)
là một ý tưởng rất mạnh. Ý tưởng kỹ thuật về các điểm gãy (breakpoints) cũng là một mơ
hình rất mạnh mẽ. Khái niệm khối lượng xuất phát từ vật lý cũng là một mô hình tuyệt vời.
Tất cả những điều này đều có khả năng ứng dụng tuyệt vời vào trong việc nhìn nhận thực
tế thơng thường. Tất cả các phân tích chết tiệt về chi phí-lợi ích này cũng đều là đại số của
bậc trung học. Nó chỉ được làm màu (dolled up) một chút với những biệt ngữ lạ mà thôi.


Tơi cho rằng các mơ hình đáng tin cậy tiếp theo là từ sinh học/sinh lý học
(biology/physiology) bởi vì nói cho cùng thì tất cả chúng ta đều đang được lập trình bởi
chính sự phối hợp của các gen. Và đương nhiên, khi bạn đi vào tâm lý học thì sẽ thấy nó
rất phức tạp (much more complicated). Nhưng đó là một chủ điểm vô cùng quan trọng nếu
bạn muốn đi tới bất kỳ một mảng trí tuệ nào. Bạn có thể chứng minh luận điểm này khá
đơn giản: Khơng có ai trong căn phịng này xem rõ được việc làm của một nhà ảo thuật gia
rất bình thường, người không thấy nhiều thứ xãy ra mà không xãy ra và không thấy nhiều
thứ xãy ra đang xãy ra và cái lý do tại sao mà bộ máy nhận thức của con người lại có lối
tắt trong đó.
Não bộ khơng thể có được một mạng mạch khơng giới hạn (unlimited circuitry). Vì thế,
một người biết cách tận dụng những lối tắt này và khiến não bộ tính tốn sai theo những
cách nhất định có thể khiến bạn thấy những thứ khơng tồn tại lại hiện diện ngay đó. Bây
giờ bạn có được chức năng nhận thức (cognitive function) phân biệt với chức năng tri giác
(perceptual function). Và ở đó, bạn có khả năng bị đánh lừa cao hơn. Một lần nữa, não bộ
của bạn bị thiếu mạng mạch và cứ thế nó tiếp nhận đủ loại lối tắt tự động. Vì vậy, khi hồn
cảnh kết hợp theo những cách nhất định hoặc phổ biến hơn, thì con người của bạn bắt đầu
hành động giống như bị một nhà ảo thuật thao túng một cách có chủ đích bằng cách gây ra
rối loạn chức năng nhận thức của bạn, bạn trở nên như một con Lừa vậy (patsy). Và vì vậy,
giống như việc một người làm việc với một công cụ nào đấy cần phải biết được hạn chế
của nó thì một người làm việc với nhận thức của mình phải biết được hạn chế của nó. Nhân
tiện đây, kiến thức này có thể được sử dụng để kiểm sốt hoặc thúc đẩy người khác đấy
nhé…

Vì vậy, phần hữu ích và thiết thực nhất của tâm lý học mà cá nhân tơi nghĩ có thể được dạy
cho bất kỳ người thơng minh nào trong 1 tuần là quá đổi quan trọng (ungodly important).
Và không ai dạy chúng cho tôi theo cách đấy. Tôi đã phải học chúng sau này trong cuộc
sống, từng chút một tại từng thời điểm. Và nó khá là tốn công sức (fairly laborious). Điều
này mặc dù rất cơ bản nhưng khi tất cả đã kết thúc, tôi cảm thấy mình như một gã gốc vậy.
Và vâng, tơi đã được học tại Cal Tech và Trường Luật Harvard…là những nơi rất nổi tiếng
đã giáo dục sai lầm nhiều người giống như bạn và tôi.
Phần cơ bản của tâm lý học-Tâm lý học đằng sau những đánh giá sai lầm (the psychology
of misjudment) như tôi nhắc tới là điều cực kỳ quan trọng để học hỏi. Có khoảng 20 nguyên
tắc nhỏ và chúng tương tác với nhau, vì vậy chúng hơi phức tạp. Nhưng những tinh túy
(the guts) trong ấy thì quan trọng cùng cực. Những kẻ thơng minh khiến nhiều người mắc
sai lầm hoàn toàn bằng cách làm họ khơng chú ý tới nó. Thực tế, tơi đã làm điều này khá
nhiều lần trong hai hoặc ba năm qua theo một cách rất quan trọng. Bạn không bao giờ thấy
tốt hồn hảo qua những sai lầm ngớ ngẫn.
Có một câu nói khác xuất phát từ Pascal mà tơi ln coi là một trong những quan sát thực
tế chính xác trong lịch sử tư tưởng. Pascal đã nói nguyên văn “Tâm trí con người cùng một


lúc chứa cả niềm vinh quang (glory) và nổi hổ thẹn (shame) của vũ trụ”. Điều này hồn
tồn chính xác. Nó có sức mạnh to lớn. Tuy nhiên, nó cũng có những trục trặc
(malfunctions) nên thường gây ra những kết luận sai lầm. Nó cũng làm cho một người bị
thao túng bởi người khác. Ví dụ, gần nữa số quân đội của Adolf Hitler gồm tập hợp những
người tín hữu công giáo. Nên việc đưa ra đủ những thao túng tâm lý một cách thơng minh
thì những gì con người sẽ làm là khá thú vị.
Theo một cách cá nhân, tơi đã nhận ra vấn đề vì vậy bây giờ tơi sử dụng một loại phân tích
song hành (two-track analysis). Đầu tiên, xem xét một cách hợp lý thì các yếu tố nào thực
sự chi phối các lợi ích liên quan? Và thứ hai, những ảnh hưởng của tiềm thức trong não bộ
ở một cấp độ tiềm thức đang tự động làm những việc mà nói chung thì rất hữu ích nhưng
lại thường bị trục trặc là gì? Có một cách tiếp cận là: Bằng cách đánh giá lợi ích thực tế,
xác xuất xãy ra…và cách khác là đánh giá các yếu tố tâm lý gây ra các kết luận tiền thức,

mà nhiều trong số chúng là sai.
Bây giờ chúng ta đến với một dạng kinh tế vi mô trong trí tuệ con người ít đáng tin cậy
hơn. Và ở đây, tơi thấy nó khá hữu ích để nghĩ về nền kinh tế thị trường tự do hoặc nền
kinh tế thị trường tự do một phần như là tương đồng với một hệ sinh thái. Đây là một cách
suy nghĩ khơng hợp thời bởi vì vào những ngày sau khi Darwin xuất hiện, một số người
chẳng hạn như những lãnh chúa có thế lực cho rằng học thuyết (doctrine) về sự sống còn
của kẻ mạnh nhất đã chứng minh họ xứng đáng có được sức mạnh như từng biết, “ta là
người giàu nhất, do vậy ta là tốt nhất. Chúa ở trong thiên đàng của ta,…” Và phản ứng đó
của những tên này đã gây cho mọi người một suy nghĩ rằng sẽ là không hợp thời khi nghĩ
một nền kinh tế như là một hệ sinh thái. Nhưng sự thật là nó rất giống một hệ sinh thái. Và
bạn nhận được nhiều kết quả tương tự như vậy.
Chỉ khi ở trong một hệ sinh thái, những người với chuyên môn hẹp mới trở nên cực giỏi
trong việc chiếm lĩnh một lĩnh vực ngách nào đấy. Tương tự như động vật sinh trưởng
trong các hang hốc, những người chuyên về kinh doanh thu được kết quả rất tốt bởi vì họ
tập trung một cách thường xuyên nhằm tìm ra điều tốt đẹp của nền kinh tế, thứ mà họ sẽ
không làm được nếu tiến hành theo bất kỳ cách nào khác. Và một khi chúng ta đi vào nền
kinh tế vi mô, chúng ta sẽ bắt gặp khái niệm về lợi thế quy mô.
Bây giờ chúng ta đang tiến gần hơn đến việc phân tích đầu tư bởi vì trong sự thành cơng
hay thất bại của doanh nghiệp thì lợi thế quy mơ đóng vai trị quan trọng phi thường. Ví
dụ, một lợi thế lớn nhất về quy mơ được dạy trong tất cả các trường kinh doanh trên thế
giới đó là nó làm giảm chi phí dọc theo đường cong kinh nghiệm (experience curve). Chỉ
cần sản xuất một thứ gì đó với khối lượng ngày càng nhiều thì sẽ cho phép những người
đang cố gắng cải tiến và được hổ trợ bởi nguồn vốn thực hiện việc đó càng ngày càng hiệu
quả hơn. Bản chất của những thứ này là nếu bạn đạt được một khối lượng lớn hàng hóa
thơng qua việc kết hợp các nguồn lực (your joint) thì bạn sẽ thu được nhiều điều tốt hơn


trong việc sản xuất lượng hàng đó. Đó là một lợi thế rất lớn và có rất nhiều điều để làm
cho các doanh nghiệp thành công cũng như thất bại…
Chúng ta hãy lướt qua một danh sách mặc dù không đầy đủ một trong những lợi thế có thể

có của lợi thế quy mơ.
Một số đến từ hình học đơn giản (simple geometry). Nếu bạn xây dựng một bồn chứa hình
cầu lớn, rõ ràng khi bạn xây dựng nó càng lớn thì lượng sắt thép bạn sử dụng trên bề mặt
sẽ tăng lên theo hình vng và thể tích sẽ tăng lên theo khối lập phương. Vì vậy, khi bạn
tăng đường kính, bạn có thể chứa được một thể tích lớn hơn trên một đơn vị diện tích thép.
Có tất cả những thứ như thế ở trong hình học đơn giản để áp dụng vào thực tế và mang lại
cho bạn một lợi thế về quy mơ. Ví dụ, bạn có thể có được lợi thế quy mơ từ quảng cáo trên
ti vi. Khi quảng cáo truyền hình lần đầu xuất hiện và khi các hình ảnh biết nói đầy màu sắc
xuất hiện ngay trong phịng khách, nó làm một thứ mạnh mẽ không thể tin được. Trong
những ngày đầu, chúng ta có 3 nhà mạng nắm trong tay tất cả mọi thông tin được truyền
tới 90% lượng khán giả. Vâng, nếu bạn là P&G, bạn có đủ khả năng để sử dụng phương
thức quảng cáo mới này. Bạn có khả năng đáp ứng được chi phí đắt đỏ của truyền hình
mạng bởi vì bạn đã bán được rất nhiều lon và chai rồi. Một số cơng ty khác thì khơng vì
khơng có cách nào để mua thứ quảng cáo này theo từng phần nhỏ được. Do vậy, các công
ty này khơng thể sử dụng nó. Thực tế, nếu bạn khơng có khối lượng lớn, bạn khơng thể sử
dụng quảng cáo truyền hình mạng, vốn là kỹ thuật hiệu quả nhất.
Vì vậy, khi TV xuất hiện, các cơng ty có thương hiệu vốn đã lớn lại có thêm lực đẩy rất
lớn (tail wind). Thật vậy, các công ty này thịnh vượng, thịnh vượng và thịnh vượng cho tới
khi một trong số chúng trở nên quá lớn và ngu ngốc, thứ sẽ xãy ra với sự thịnh vượng, ít
nhất là ở một số cty…
Và lợi thế quy mơ của bạn có thể là một lợi thế thông tin. Nếu tôi đi đến một nơi hẻo lánh,
tơi có thể nhìn thấy kẹo cao su Wrigley bên cạnh kẹo cao su của Glotz. Ồ, tôi biết rằng
Wrigley là một sản phẩm vừa ý, trong khi tơi khơng biết bất cứ điều gì về kẹo của Glotz.
Vì vậy, nếu một thứ đang có giá 40 cents và thứ kia giá 30 cents, tơi có đi mua cái thứ tơi
khơng biết và bỏ nó vào miệng (một nơi khá cá nhân) sau khi có được những xu lẻ (a lousy
dime) hay không? Nên, về mặt hiệu quả, Wrigley vì đơn giản là được biết đến nhiều nên
có lợi thế quy mơ mà bạn có thể gọi là lợi thế thông tin.
Một lợi thế quy mô khác tới từ tâm lý học. Các nhà tâm lý học sử dụng thuật ngữ “bằng
chứng xã hội-Social Proof”. Chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi tiềm thức và ở một mức độ
nào đấy là một cách có ý thức do những gì mà chúng ta nhìn thấy người khác làm và chấp

thuận. Vì vậy, nếu mọi người đang mua thứ gì đấy thì chúng ta sẽ nghĩ rằng thứ đó tốt hơn.
Chúng ta khơng muốn trở thành một người đứng ngoài cuộc. Một lần nữa, một số điều này
nằm ở mức độ tiềm thức và một số khác thì không. Thỉnh thoảng, chúng ta suy nghĩ một


cách có ý thức và lý trí (consciously and rationally think), “Này Gee, tôi không biết nhiều
về điều này. Họ biết nhiều hơn tơi đấy. Vì vậy, tại sao tơi không làm theo họ nhỉ?”
Hiện tượng bằng chứng xã hội xuất phát từ tâm lý học mang lại lợi thế lớn về quy mơ. Ví
dụ, với mạng lưới phân phối rộng khắp, thứ mà tất nhiên là rất khó gây dựng thì một lợi
thế của Coca-Cola đó là sản phẩm ln có sẵn gần như khắp mọi nơi trên thế giới. Vâng,
giả sử bạn có một ít nước ngọt chẳng hạn, vậy thì thế nào để bạn làm cho nó hiện diện trên
khắp trái đất? Việc thiết lập một hệ thống phân phối trên toàn cầu mà một doanh nghiệp
lớn đạt được một cách từ từ thì sẽ trở thành lợi thế lớn cho doanh nghiệp đấy…và nếu bạn
nghĩ về nó, một khi bạn có đủ lợi thế kiểu này thì nó có thể trở nên rất khó để bất cứ ai
đánh bật được bạn.
Có một loại lợi thế khác để mở rộng quy mô. Ở một số mảng kinh doanh, bản chất của mọi
thứ là việc phân cấp theo tầng sự thống trị áp đảo của một công ty. Một trong những ví dụ
rõ ràng nhất đó là ở mảng báo chí nhật kỳ (daily newspaper). Thực tế là khơng có thành
phố lớn nào cịn lại của Hoa Kỳ (ngồi một vài thành phố rất lớn) là nơi có nhiều hơn một
tờ báo nhật kỳ. Và một lần nữa, đấy là một thứ về quy mô. Một khi tôi chiếm được hầu hết
sự lưu hành (circulation) thì tơi sẽ nhận được hầu hết các quảng cáo. Và một khi tơi có
được hầu hết lượng qng cáo và lưu hành thì tại sao bất cứ ai cũng sẽ muốn một tờ báo
mỏng hơn với ít thơng tin hơn trong đó chứ? Vì vậy, nó có xu hướng dịch chuyển dịng
chảy (cascade) về kẻ chiến thắng, kẻ đã nắm được tất cả tình hình. Và đó là một dạng riêng
biệt của hiện tượng lợi thế về quy mô.
Tương tự, tất cả những lợi thế về quy mô này cho phép sự chun mơn hóa cao hơn trong
cơng ty. Vì vậy, mỗi một người có thể làm tốt hơn những gì mà anh ta đang làm. Và những
lợi thế về quy mô này là rất lớn, chẳng hạn, khi Jack Welch đến General Electric, ơng ấy
đã nói “ Chết tiệt. Chúng ta sẽ trở thành số 1 hoặc số 2 trong mọi lĩnh vực mà chúng ta
đang làm hoặc sẽ bị bật bãi. Tôi không quan tâm phải sa thải bao nhiêu người hay phải bán

đi bao nhiêu mảng. Chúng ta phải trở thành số 1 hoặc số 2 hoặc biến mất”. Đó là một điều
rất khó khăn để làm nhưng tơi nghĩ rằng đó là một quyết định đúng đắn nếu bạn đang nghĩ
về việc tối ưu hóa lợi ích cổ đơng (shareholder wealth). Và tơi cũng khơng nghĩ rằng đó là
một thứ tệ để làm cho một nền văn hóa bởi vì tơi cho rằng GE sẽ trở nên mạnh mẽ hơn khi
có Jack Welch ở đó.
Có một số nhược điểm của quy mơ. Ví dụ, theo ý tơi, Berkshire Hathaway là cổ đông lớn
nhất của Capital Cities/ABC và chúng tơi đã có các ấn phẩm thương mại đã bị giết chết ở
những nơi mà các đối thủ cạnh tranh đánh bại chúng tôi. Và cách họ đánh bại chúng tôi là
bằng cách đi vào một chuyên môn hẹp hơn. Chúng tơi đã có một tạp chí du lịch phục vụ
cho việc kinh doanh du lịch. Vì thế ai đó sẽ tạo ra một cái mà nó sẽ được giải quyết đơn lẽ
(addressed solely) tại bộ phận du lịch của cơng ty. Giống như một hệ sinh thái, bạn đang
có được một chuyên môn ngày càng sâu hơn.


Vâng, họ đã đạt được hiệu quả hơn rất nhiều. họ có thể nói nhiều hơn với những người điều
hành tại các bộ phận du lịch của công ty. Thêm vào đó, họ khơng phải phí giấy mực để
gửi đi những thứ mà các bộ phận du lịch của công ty khơng hề thích đọc. Nó đã là một hệ
thống hiệu quả hơn. Và họ đánh bại bộ não của chúng tơi khi chúng tơi dựa vào một tạp
chí dàn trải (broader magazine).
Đó là những gì đã xãy ra với The Saturday Evening Post và tất cả những điều tương tự vậy.
Họ đã tiến lên. Những gì chúng ta có bây giờ là chuyên mục Motocross, thứ đang được đọc
bởi một nhóm say mê (nuts) các giải đấu nhào lộn bằng xe máy. Nhưng họ quan tâm đến
nó. Đối với họ, đó là mục đích chính của cuộc sống. Một tờ báo có tên Motocross là tất cả
những gì mà những người này cần. Thứ biên lợi nhuận có vẽ vơ vị của nó sẽ làm cho bạn
chảy nước miếng.
Chỉ cần nghĩ về mức độ thu hẹp đang diễn ra của những loại ấn phẩm này. Đôi khi, quy
mô thu nhỏ lại và tập trung mạnh sẽ cho bạn một lợi thế lớn. Lớn hơn không phải lúc nào
cũng tốt hơn. Tất nhiên, khiếm khuyết lớn nhất của quy mô khiến cuộc chơi trở nên thú vị
và để những kẻ to bự khơng phải lúc nào cũng chiến thắng đó là khi bạn trở nên to lớn, bạn
vấp phải sự quan liêu (bureaucracy). Và với sự quan liêu thì lại liên quan đến phạm vi thuộc

về bản chất con người.
Những sự ưu ái này là sai trái (perverse). Ví dụ, nếu bạn làm việc cho AT&T trong thời
của tơi, đó là một bộ máy quan liêu kinh khủng. Ai trong mớ địa ngục này thực sự nghĩ về
cổ đông hay bất cứ điều gì khác? Và trong một bộ máy quan liêu, bạn nghĩ rằng cơng việc
được hồn thành khi nó đi ra khỏi túi của mình rồi vào túi người khác. Nhưng, tất nhiên là
khơng phải vậy. Nó khơng được hoàn thành cho đến khi AT&T cung cấp những gì nó cho
là cần cung cấp. Vì thế, bạn lớn lên, ục ịch rồi ngu dốt, khơng có động lực và quan liêu hết
sức. Họ cũng có xu hướng trở nên tham nhũng hơn (corrupt). Nói cách khác, nếu tơi có
một bộ phận và bạn có một bộ phận và chúng ta cùng chia sẽ quyền lực trong việc điều
hành bộ phận này thì có một quy tắc bất thành văn (an unwritten rule) là “nếu bạn không
làm phiền tôi thì tơi khơng làm phiền bạn và chúng ta đều hạnh phúc“. vì vậy bạn có được
quyền sắp xếp các quản lý và các chi phí liên kết (associated) mà khơng ai cần. Sau đó,
trong khi mọi người đang biện minh (justifying) cho tất cả những sắp xếp này thì phải mất
quá nhiều thời gian để hoàn thành bất cứ thứ gì. Họ trở nên quá chậm để đưa ra quyết định
và khiến cho những người lanh lợi chạy vòng quanh họ.
Thứ nguyền rủa về quy mơ là nó dẫn đến bộ máy quan liêu rất lớn và ngu ngốc- tất nhiên
là nó đạt đến mức cao nhất và tệ nhất trong các bộ máy chính phủ, nơi có những ưu đãi
thực sự khủng khiếp. điều đó khơng có nghĩa là chúng ta khơng cần chính phủ-bởi vì chúng
ta thực sự cần-nhưng đó là một vấn đề khủng khiếp làm xuất hiện những quan liêu lớn
trong hành xử. Vì vậy mọi người phải nghĩ ra các mưu lược (stratagems). Họ tạo ra các
đơn vị phi tập trung nhỏ và các chương trình đào tạo với động lực ưa thích. Ví dụ, một
công ty lớn như GE đã chiến đầu chống lại bộ máy quan liêu củ với kỹ năng tuyệt vời.


nhưng đó là bởi vì họ có được sự kết hợp của một thiên tài và một kẻ cuồng tín trong việc
điều hành nó. Và họ đưa anh ta vào ngay lúc anh ta còn đủ trẻ để anh ta có được một thời
gian lãnh đạo đủ dài. Đương nhiên, đó là Jack Welch.
Nhưng quan liêu quả là thứ khủng khiếp…và khi mọi thứ trở nên rất mạnh mẽ và to lớn,
bạn có thể gặp phải một số hành vi rối loạn thực sự (dysfunctional behavior). Hãy nhìn vào
Westinghouse. Họ đã thổi bay (blew) hàng tỉ đô vào một loạt các khoản vay ngu xuẩn cho

các nhà phát triển bất động sản. Họ đưa một số người lên lãnh đạo, những người này đi lên
bằng một nhánh nghề nghiệp-tôi ko biết chính xác đó là gì, nhưng có thể đó là từ bộ phận
tủ lạnh hoặc cái gì đấy-và thật bất ngờ, anh ta đang cho các nhà phát triển bất động sản
mượn tiền xây dựng khách sạn. Đó là một cuộc đua không cân bằng và trong kỳ hạn đấy,
họ đã mất hàng tỉ đơ tiền đó.
CBS cung cấp một ví dụ thú vị về một quy tắc tâm lý khác có cái tên là “sự liên hợp PavlovPavlovian association). Nếu mọi người nói với bạn những gì mà bạn thực sự khơng muốn
nghe, những thứ khó chịu thì hầu như bạn sẽ có một phản ứng tự động là thấy ác cảm
(antipathy) với điều đó. Bạn phải rèn luyện bản thân tránh xa điều này. Tuy không được
dự đoán (foredestined) rằng bạn phải theo cách này. Nhưng bạn sẽ có xu hướng theo cách
này nếu bạn khơng nghĩ về nó.
Trong những ngày đầu, truyền hình bị chi phối bởi một nhà mạng (network)-CBS. Và Paley
đã như một vị chúa tể. Nhưng anh ta khơng thích nghe những gì mình khơng muốn. Và
mọi người đã sớm nhận ra điều đó. Vì thế họ chỉ nói cho anh ta nghe những gì anh ta thích.
Do vậy, anh ta đã sớm sống trong một cái kén (cocoon) của sự giả dối và hủ bại mặc dù đó
là một doanh nghiệp tuyệt vời. Vì vậy, sự ngu ngốc (idiocy) len lỏi (crept) vào hệ thống đã
mang theo cơn thủy triều khổng lồ. Đó là bữa tiệc trà của Mad Hatter trong 10 năm qua
dưới thời Bill Paley. Và đó khơng phải là ví dụ duy nhất. Bạn có thể gặp trục trặc nghiêm
trọng trong hàng ngũ cao cấp của doanh nghiệp. Và đương nhiên, nếu bạn đang đầu tư thì
nó có thể tạo ra rất nhiều sự khác biệt. Nếu bạn thực hiện tất cả các vụ mua bán mà CBS
đã làm dưới thời Paley, sau khi mua lại mạng lưới, với tất cả các cơ vấn của mình, tất cả
các chun viên ngân hàng đầu tư hay nhà tư vấn quản lý…những kẻ được trả rất nhiều
tiền thì điều đó thực sự q khủng khiếp. Ví dụ, ơng ta đã cung cấp cho Dumont Company
một số thứ trị giá tương đương 20% giá trị CBS, mà đây là công ty sản xuất máy truyền
hình đang sắp sửa đi vào phá sản. Tơi nghĩ rằng nó đã kéo dài ra được 2 hoặc 3 năm hay
một cái gì đấy đại loại thế. Rất nhanh ngay sau khi ông ta phát hành tất cả cổ phiếu này,
Dumont đi vào lịch sử. Bạn sẽ gặp phải rất nhiều sự rối loạn chức năng trong một nơi lớn
mạnh, nơi mà không kẻ nào dám mang đến những sự thật khơng mong muốn cho các ơng
chủ.
Vì vậy, cuộc sống là một cuộc chiến bất diệt (everlasting battle) giữa hai lực lượng-một
bên là để có được lợi thế quy mơ và một bên là có được thứ giống khá nhiều với bộ Nông



nghiệp Hoa kỳ-nơi họ chỉ ngồi im một chổ. Tôi khơng biết chính xác những gì họ làm. Tuy
nhiên, tơi biết rằng họ làm rất ít việc hữu ích.
Xét về vấn đề lợi thế của quy mô kinh tế, tôi nhận thấy một chuổi của hàng là khá thú vị.
Hãy nghĩ về nó. Khái niệm chuổi của hàng một là một phát minh hấp dẫn (fascinating
invention). Bạn có được sức mua khổng lồ (huge purchasing power) có nghĩa là bạn có
được chi phí hàng hóa thấp hơn. Bạn có một loạt các phịng thí nghiệm ngồi kia mà ở đó
bạn có thể tiến hành các thử nghiệm và rồi bạn nhận được sự chun mơn hóa. Nếu một
anh chàng nhỏ bé đang cố gắng mua hàng dựa theo 27 danh mục hàng hóa khác nhau bị
ảnh hưởng bởi những người bán hàng di động thì anh ta sẽ đưa ra rất nhiều quyết định sai
lầm. Nhưng nếu việc mua hàng của bạn được thực hiện tại trụ sở của một loạt các cửa hàng
lớn, bạn có thể gặp được rất nhiều người thông minh biết nhiều về tủ lạnh hay gì đó và cứ
thế mà mua.
Điều ngược lại đã được chứng minh bởi cái cửa hàng nhỏ nơi mà một người đang mua sắm
mọi thứ. Nó khá giống một câu chuyên củ về cửa hàng muối với muối trên khắp các bức
tường. Và một người lạ bước vào trong và nói với chủ cửa hàng rằng: “chắc là bạn bán rất
nhiều muối rồi”. và người chủ trả lời: “Không, không phải thế đâu. Nhưng bạn sẽ thấy anh
chàng bán muối cho tơi đấy”.
Vì vậy, Có lợi thế về sức mua lớn. Và sau đó là các hệ thống khéo léo buộc mọi người phải
làm việc đúng nghĩa. Vì vậy một chuổi cửa hàng có thể trở thành một doanh nghiệp tuyệt
vời. Thật thú vị khi nghĩ về Wal-Mart với việc bắt đầu từ một cửa hàng đơn lẽ tại
Bentonville, Arkansas nhằm cạnh tranh với Sears, Roebuck với tên tuổi, danh tiếng và hàng
tỉ đô của hai thương hiệu này. Làm thế nào mà một gã ở Bentonville, Arkansas khơng có
nhiều tiền có thể thơi bay Sears, Roebuck? Và anh ta đã làm việc này trong suốt sự nghiệp
của mình – thực tế là trong suốt quảng đời sau này bởi vì anh ta đã hơi lớn tuổi khi bắt đầu
mở cửa hàng đầu tiên của mình.
Anh ta đã thự hiện một trị chơi về chuổi cửa hàng ở mức khó hơn và tốt hơn bất kỳ ai khác.
Walton thực tế khơng phát minh ra bất cứ thứ gì, nhưng ơng ấy đã sao chép tất cả mọi thứ
từ những việc làm của những người thông minh – và ông ấy thực hiện nó với sự cuồng tín

và thao túng nhân viên tốt hơn. Vì thế ơng ấy nhắm đúng mục tiêu. Ơng ấy cũng có một
chiến lược cạnh tranh rất thú vị trong những ngày đầu. Ơng ta đóng vai như một võ sĩ quyền
anh (prinzefighter) muốn ghi một kỷ lục vì thế ơng ta có thể vào chung kết và tạo tiếng
vang lớn trên TV. Vậy ơng ấy có làm điều này ko? Ông đã bước ra và đánh với tận 42 gã
to béo (palookas) phải không? Và kết quả là đã loại trực tiếp liên tục 42 lần.
Walton, sắc sảo như chính ơng ta đã từng, về cơ bản là đã loại bỏ các thương nhân ở các
thị trấn nhỏ khác trong những ngày đầu. Với hệ thống ngày càng hiệu quả của mình, ơng
ấy có thế khơng có khả năng giải quyết ngay được một số gã khổng lồ (titan) đang dẫn đầu
vào thời điểm đó nhưng với hệ thống tốt hơn của mình, ơng ấy có thể làm phá sản những


thương nhân nhỏ trong các thị trấn. Và ông ấy đã đi khắp nơi để làm điều này lần này cho
tới lần khác. Sau đấy, khi ông ấy trở nên lớn hơn, ông ấy đã bắt đầu loại bỏ được những
tay chơi lớn. Vâng, đấy là một chiến lược cực kỳ sắc sảo (shrewd).
Bạn có thể nói, “đây có phải là một cách cử xử hợp lẽ không?”, Vâng, chủ nghĩ tư bản
(Capotalism) là một nơi khá tàn bạo (pretty brutal place). Nhưng cá nhân tôi nghĩ rằng thế
giới sẽ tốt hơn vì có Wal-Mar. Ý tơi là bạn có thể lý tưởng hóa cuộc sống trong thị trấn
nhỏ. Nhưng tôi đã dành một khoảng thời gian hợp lý sống ở các thị trấn nhỏ. Và để tơi nói
bạn nghe – bạn không nên quá lý tưởng về tất cả các doanh nghiệp mà ông ấy đã phá hủy.
Thêm vào đó, có nhiều người làm việc tại Wal-Mart có trình độ đang nuôi những đứa trẻ
tốt bụng. Tôi không cảm thấy rằng việc này là việc một nền văn hóa thấp kém đã phá hủy
một nền văn hóa vượt trội. Tơi cho rằng chuyện đó khơng khác hơn gì sự hoài niệm
(nostalgia) và ảo tưởng si mê (delusion). Nhưng ở mức độ nào đó, đó là một mơ hình thú
vị về cách thức quy mô kết hợp với sự cuồng tín tạo nên sức mạnh lớn. Và nó cũng là một
mơ hình thú vị xét cho phía cịn lại, làm thế nào mà với lợi thế to lớn của mình (Sears
Roebuck) mà những bất lợi của quan liêu đã làm tổn hại tới Sears, Roebuck. Sears tuyển
mộ nhiều người mà nó khơng cần. Nó q quan liêu. Nó phản ứng chậm và có sự cố hữu
(established) trong suy nghĩ. Nếu bạn đưa ra một ý tưởng mới thì hệ thống này sẽ chống
lại bạn. Đó là tất cả mọi thứ theo cách của một bộ máy quan liêu hỗn loạn mà bạn có thể
nghĩ tới. Một cách cơng bằng, cũng có nhiều thứ tốt về nó. Nhưng nó khơng tinh gọn và ý

nghĩa cũng như không sắc sảo và hiệu quả như của Sam Walton. Và, trong thời gian này,
tất cả những lợi thế quy mô đã không đủ để ngăn Sears thất bại nặng nề trước Wal-Mart
hay những nhà bán lẻ tương tự khác.
Đây cũng là một mơ hình mà chúng tơi đã gặp rắc rối. Có thể bạn sẽ tìm ra nó tốt hơn.
Nhiều thị trường mà sự cạnh tranh giảm xuống chỉ còn 2 hoặc 3 đối thủ lớn hoặc 5 hay 6
gì đấy. Và trong một số thị trường này, không ai kiếm được tiền cả. Nhưng trong những
thị trường khác, mọi người lại làm rất tốt. Trong những năm qua, chúng tôi đã cố gắng chỉ
ra tại sao sự cạnh tranh trong một số thị trường trở nên hợp lý từ quan điểm của một nhà
đầu tư để cho các cổ đông làm tốt và trong những thị trường khác, có sự cạnh tranh tàn phá
(destructive competition) đã phá hủy tài sản của cổ đông.
Nếu là một mặt hàng thuần túy (pure commodity) chẳng hạn như ghế ngồi của các hãng
hàng khơng thì bạn có thể hiểu tại sao không ai kiếm được tiền. Khi chúng ta ngồi đây, chỉ
cần nghĩ về những gì mà các hãng hàng không đã cung cấp cho thế giới, những chuyến du
lịch an toàn, những trải nghiệm tuyệt vời, thời gian bên những người yêu thương, hay
những thứ bạn đặt tên cho nó. Tuy nhiên, số tiền rịng được tạo ra bởi các cổ đông của hãng
hàng không kể từ thời Kitty Hawk đến giờ là con số âm-một số âm lớn. Cạnh tranh khốc
liệt đến nổi mà một khi nó được giải phóng bởi việc bãi bỏ các quy định thì nó đã tàn phá
sự thịnh vượng của cổ đông trong ngành kinh doanh hàng không.


Tuy vậy, trong các lĩnh vực khác ví dụ như kinh doanh ngũ cốc được chi phối bởi các ông
lớn. Nếu bạn là một nhà sản xuất trung bình thì bạn có thể kiếm được 15% lợi nhuận trên
vốn. Và nếu bạn thực sự tốt thì bạn có thể kiểm tới 40%. Nhưng tại sao kinh doanh ngũ cố
rất có lãi mặc cho sự thật theo tơi nghĩ thì nó cạnh tranh điên dại với các chương trình
khuyến mãi, giảm giá…? Tơi khơng hiểu hết được về nó.
Rõ ràng, có một yếu tố nhận diện thương hiệu trong ngành ngũ cốc nhưng khơng tồn tại
trong ngành hàng khơng. Đó chắc phải là yếu tố chính. Và có lẽ các nhà sản xuất ngũ cốc
nói chung gần như đã học được cách bớt điên rồ hơn trong việc đấu tranh dành thị phần
bởi vì nếu bạn thấy có một người cực kỳ muốn chiếm lĩnh thị phần…ví dụ như, nếu tơi là
Kellogg và tơi quyết định rằng tơi phải có được 60% thị phần thì tơi nghĩ tơi có thể thu

được phần lớn lợi nhuận từ thị trường ngũ cốc . Có lẽ tơi sẽ phá hủy Kellogg trong q
trình này. Nhưng tơi nghĩ rằng tơi có thể thực hiện được việc thống trị đó.
Trong một số ngành, có những người tham gia cử xử như Kellogg điên khùng (demented).
Trong những ngành khác, thì họ khơng làm thế. Thật khơng may, tơi khơng có được một
mơ hình hồn hảo đẻ dự đốn chuyện này xãy ra như thế nào. Ví dụ, nếu bạn nhìn quanh
các thị trường đóng chai, bạn sẽ thấy nhiều nơi, các nhà đóng chai của Pepsi và Coke đều
kiếm được tiền và một số nơi khác, những nhà sản xuất khác phá hủy hầu hết lợi nhuận của
thứ nhượng quyền này. Có sự đi xuống dựa theo nét đặc thù (peculiarities) của việc tự điều
chỉnh đối với chủ nghĩa tư bản thị trường. Tôi nghĩ rằng bạn phải biết những người liên
quan đến nó để hồn tồn hiểu những gì đã xãy ra.
Tất nhiên, trong kinh tế vi mơ, bạn phải có khái niệm về bằng sáng chế, thương hiệu,
nhượng quyền độc quyền…Bằng sáng chế là thứ khá thú vị. Khi tơi cịn trẻ, tơi nghĩ rằng
nhiều tiền đã được sử dụng để có được bằng sáng chế hơn là lượng tiền có được từ bằng
sáng chế đó. Các thẩm phán có xu hướng ném chúng đi dựa trên lập luận về những gì thực
sự được phát minh và những gì phát triển trên cơ sở phát minh gốc. Điều đó khơng hồn
tồn rõ ràng. Nhưng họ đã thay đổi điều đó. Họ khơng thay đổi luật pháp. Họ chỉ thay đổi
cách quản lý– vì thế tất cả đều quy về một cơ quan thẩm định bằng sáng chế (patent court).
Và cơ quan này hiện nay có rất nhiều bằng sáng chế. Vì vậy, tơi nghĩ rằng mọi người hiện
đang bắt đầu kiếm được nhiều tiền từ việc sở hữu bằng sáng chế.
Thương hiệu, tất nhiên, luôn luôn giúp mọi người kiếm được nhiều tiền. Một hệ thống
thương hiệu là một điều tuyệt vời cho việc hoạt động ở quy mơ lớn nếu nó trở nên nổi
tiếng. Nhượng quyền độc quyền cũng có thể là điều tuyệt vời. Nếu chỉ có 3 kênh truyền
hình được cấp phép trong một thành phố lớn và bạn sở hữu một trong số chúng thì sẽ có
rất nhiều thời lượng một ngày mà bạn có thể phát sóng. Vì vậy, bạn có được một vị thế tự
nhiên độc quyền trong thời gian này.


Và nếu bạn nhận được nhượng quyền thương mại cho gian hàng thực phẩm duy nhát trong
sân bay, bạn có nguồn khách hàng bị giam cầm (captive clientele) và bạn đang sở hữu một
loại độc quyền nhỏ.

Bài học lớn nhất trong kinh tế vi mơ đó là phân biệt giữa khi nào cơng nghệ sẽ giúp bạn và
khi nó thì nó giết chết bạn. Và hầu hết mọi người khơng nhận thức được điều này trong
đầu mình. Nhưng một người như Buffet thì làm được. Ví dụ, khi chúng tơi kinh doanh
trong lĩnh vực may mặc (textile), là thứ kinh doanh hàng hóa khủng khiếp, chúng tơi đã
sản xuất hàng dệt may ở cấp thấp (tay chân), thứ được xem là hàng hóa thực sự. Và vào
một ngày, mọi người đến và nói với Warren “Họ đã sáng chế ra một khung dệt mới, thứ
này chúng tôi nghĩ sẽ làm việc gấp đơi so với những cơng nhân của mình”. Và Warren nói,
“Gee à, tơi hy vọng thứ này khơng hiệu quả bởi vì nếu nó thế thì tơi sẽ đóng cửa nhà máy.”
Và ơng ấy có ý đó. Ơng ấy đã nghĩ gì? Ơng ấy đã nghĩ “đó là một ngành tệ hại. Chúng ta
đang kiếm được mức lợi nhuận dưới tiêu chuẩn và giữ cho nó hoạt động chỉ để đối xử tốt
với những người lao động lớn tuổi. Nhưng chúng ta sẽ không bỏ một lượng vốn lớn nào
mới vào một doanh nghiệp tệ hại”. Và ông ấy biết rằng sự gia tăng năng suất khổng lồ xuất
phát từ việc phát triển các máy mọc tốt hơn ứng dụng vào nền sản xuất các hàng hóa sẽ
đưa tất cả lợi nhuận tới người mua hàng. Khơng có tí gì dính vào xương sườn của những
người chủ sở hữu như chúng tơi.
Đó là một khái niệm rõ ràng rằng có tất cả các loại phát minh mới tuyệt vời nhưng ko mang
lại gì cho người chủ sở hữu ngoại trừ việc tiêu thêm tiền cho một doanh nghiệp càng ngày
càng tệ hại. Tiền vẫn không đến với bạn. Tất cả những lợi thế từ những cải tiến tuyệt vời
sẽ được truyền qua cho khách hàng.
Ngược lại, nếu bạn sở hữu tờ báo duy nhất ở Oshkosh và họ đã phát minh ra những cách
sáng tác hiệu quả hơn cho tờ báo, sau đó, khi bạn loại bỏ được hết công nghệ lạc hậu và áp
dụng những thứ mới lạ như máy tính hay tương tự…thì tất cả những gì tiết giảm được sẽ
đi thẳng đến tích lũy sở hữu của bạn (come right through to the bottom line.
Trong mọi trường hợp, những người bán máy móc (machinery) và, nói chung, ngay cả các
quan chức nội bộ (internal bureaucrats) đang hối thúc bạn mua những thiết bị này sẽ cho
bạn thấy lợi ích các dự án với số tiền bạn tiết kiệm được tại mức giá hiện tại với công nghệ
mới. Tuy nhiên, họ không thực hiện bước thứ hai của việc phân tích là xác định số tiền sẽ
giữ lại công ty là bao nhiêu và số tiền chảy sang khách hàng là bao nhiêu. Tôi chưa bao giờ
thấy một dự án đơn giản nào kết hợp được bước thứ hai trong đời mình. Thay vào đó, họ
ln luôn đọc ra rã “việc dùng vốn này sẽ giúp bạn tiết kiệm được nhiều tiền đến nổi mà

nó sẽ hồn vốn nội trong 3 năm”.
Vì vậy, bạn tiếp tục mua những thứ sẽ tự trả tiền cho chính nó trong 3 năm. Và sau khoảng
20 năm làm việc này, bằng cách nào đó bạn kiếm được lợi nhuận tầm 4% mỗi năm. Đấy là
ngành kinh doanh dệt may. Và nó khơng có nghĩa rằng máy móc thì khơng tốt hơn. Nó chỉ


có nghĩa rằng lượng tiết kiệm khơng chảy về túi bạn. Tiết giảm chi phí là đúng đắn. Nhưng
lợi ích của việc này không đến với những người bỏ tiền ra để mua thiết bị. Đó là một ý
tưởng đơn giản và rất cơ bản. Nhưng nó lại thường bị lãng qn.
Có một mơ hình khác từ kinh tế vi mô mà tôi thấy rất thú vị. Khi công nghệ thay đổi rất
nhanh trong một nền văn minh như chúng ta, bạn bắt gặp một hiện tượng mà tôi gọi là sự
hủy diệt cạnh tranh “competivive destruction”. Bạn biết đấy, bạn có một nhà máy sản xuất
roi ngựa tốt nhất và bất ngờ xuất hiện những chiếc xe vận chuyển không dùng ngựa. Và
trước khi quá nhiều năm trôi qua, doanh nghiệp sản xuất roi ngựa này bị khai tử. Bạn hoặc
là đi vào một lĩnh vực kinh doanh khác hoặc bạn sẽ chết-bạn bị phá hủy. Nó xãy ra lần này
đến lần khác vậy. Và khi những doanh nghiệp mới này xuất hiện, có những lợi thế rất lớn
cho những người tiên phong (the early bird). Có một mơ hình mà tơi gọi là “lướt sóngsurfing”-khi một người lướt sóng bắt gặp và đón lấy con sóng ư, rồi chỉ giữ n ở trên đó
thì anh ta sẽ được đưa đi rất lâu và rất xa. Nhưng nếu anh ta thốt ra con sóng thì anh ta bị
sa lầy…
Nhưng mọi người cũng sẽ có được sự phát triển dài khi họ ở đúng vị trí rìa sóng-cho dù đó
là Microsoft hay Intel hoặc tất cả các doanh nghiệp khác, bao gồm cả National Cash
Register trong những ngày đầu.
Máy tính tiền (the cash register) là một trong những đóng góp lớn nhất cho nền văn minh.
Đó là một câu chuyện tuyệt vời. Patterson là một người bán lẻ với cửa hàng nhỏ nhưng
không kiếm được tiền. Một ngày nọ, ai đó đã bán cho ơng ấy một máy tính tiền thô sơ để
ông ấy đưa vào vận hành trong hệ thống bán lẽ. Và nó ngay lập tức thay đổi, từ việc mất
tiền sang kiếm được lợi nhuận bởi vì nó tạo ra độ khó bội phần cho việc ăn cắp của nhân
viên. Nhưng Patterson lại có được suy nghĩ bản năng để không nghĩ “ồ, cái này tốt cho
doanh nghiệp bản lẻ của mình” mà ơng lại nghĩ “ta sẽ chuyển sang kinh doanh máy tính
tiền”. Và đương nhiên, ông ấy đã tạo ra công ty National Cash Register và ơng ấy đã lướt

đi êm ái. Ơng ấy có một hệ thống phân phối, một bộ sưu tập bằng sáng chế lớn nhất và mọi
thứ tốt nhất. Ông ấy là một người cuồng tín (fanatic) về mọi thứ quan trọng kiểu như phát
triển cơng nghệ. Tơi có một bản báo cáo về công ty National Cash Register trong tập hồ sơ
của mình, trong đó Patterson đã mơ tả các phương pháp và mục tiêu của mình. Và một con
đười ươi (orangutan) được giáo dục tốt cũng có thể thấy rằng việc hợp tác với Patterson
trong những ngày đầu đó, với những quan niệm của ông ta về ngành kinh doanh máy tính
tiền, là việc làm hồn tồn chính xác 100% (cinch).
Và tất nhiên, đó chính xác là những gì mà một nhà đầu tư nên tìm kiếm. Trong một cuộc
đời kéo dài, bạn có thể đạt được mức lợi nhuận cao từ ít nhất một vài cơ hội như vậy nếu
bạn phát triển trí tuệ và ý chí để nắm bắt chúng. Tại bất kỳ mức độ nào, “Lướt sóng” cũng
là một mơ hình rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, Berkshire Hathaway nói chung khơng đầu tư vào
những người đang “lướt sóng” trên những thứ cơng nghệ phức tạp. Rốt cuộc, chúng tơi là
những kẻ khó tánh (cranky) và lập dị (idiosyncratic)-giống như bạn có thể nhận thấy vậy.


Và Warren và tơi khơng cảm thấy chúng tơi có bất kỳ lợi thế nào trong lĩnh vực công nghệ
cao. Thực tế, chúng tôi cảm thấy chúng tôi đang ở mức bất lợi lớn trong việc cố gắng hiểu
bản chất của sự phát triển kỹ thuật trong mảng phần mềm, chip máy tính hoặc những thứ
tương tự. Vì vậy chúng tơi có xu hướng tránh xa những thứ đó, dựa trên những thiếu sót
(inadequacies) của bản thân chúng tơi.
Một lần nữa, đó là một ý tưởng rất, rất mạnh mẽ. Mỗi người sẽ có một vịng trịn năng lực
(circle of competence), và sẽ rất khó để mở rộng vịng trịn đó. Nếu tơi phải kiếm sống
bằng nghề nhạc sĩ…tơi thậm chí khơng thể nghĩ đến một mức độ đủ thấp nào để mô tả nơi
tôi sẽ được sắp xếp nếu âm nhạc là tiêu chuẩn đo lường của nền văn minh. Vì vậy, bạn phải
tìm ra năng khiếu (aptitude) của riêng mình. Nếu bạn chơi trị chơi mà ở đó người khác có
năng khiếu cịn bạn thì khơng thì bạn sẽ đi tới thất bại. Và đó gần như là chắc chắn với bất
kỳ dự đốn nào mà bạn có thể thực hiện. Bạn phải tìm ra nơi mà bạn có lợi thế (edge). Và
bạn phải chơi trong vịng trịn năng lực của mình.
Nếu bạn muốn trở thành tay vợt tennis tốt nhất thế giới, bạn có thể bắt đầu thử và sớm nhận
ra rằng điều đó là vơ vọng (hopeless)-rằng những người khác sẽ đánh bại bạn ngay. Tuy

nhiên, nếu bạn muốn trở thành một nhà thầu hệ thống ống nước tốt nhất ở Bemidji, thì điều
đó có thể làm được (doable) tới mức 2/3 bạn mong đợi. Nó địi hỏi một ý chí và trí thơng
minh. Nhưng sau một thời gian, bạn dần biết tất cả về ngành kinh doanh ống nước ở
Bemidji và làm chủ lĩnh vực này (master the art). Đó là một mục tiêu có thể đạt được nếu
đưa ra được đủ kỷ luật. Và những người khơng bao giờ có thể chiến thắng trong một giải
đấu cơ vua hoặc đứng ở vị trí trung tâm trong một giải đấu quần vợt danh giá (respectable
tennis tournament) thì cũng có thể tiến tới mức khá cao trong cuộc sống bằng cách phát
triển chậm rãi vòng tròn năng lực – là kết quả gồm một phần từ những gì họ được sinh ra
và một phần từ những gì họ phát triển chậm rãi thơng qua cơng việc.
Vì vậy, một số lợi thế có thể đạt được. Và trò chơi cuộc sống (the game of life) ở một mức
độ nào đó đối với hầu hết chúng ta đó là cố gắng trở thành một cái gì đó giống như là trở
thành một nhà thầu đường ống nước tốt ở Bemidji vậy. Rất ít người trong chúng ta được
chọn để chiến thắng trong giải cờ vua thế giới. Một số bạn có thể tìm thấy cơ hội “lướt
sóng” trong các lĩnh vực công nghệ cao như Intel, như Microsoft…Sự thực là chúng tôi
không nghĩ rằng chúng lại giỏi trong lĩnh vực này và đã tránh xa nó. Việc này khơng có
nghĩa là nó khơng hợp lý khi bạn làm vậy.
Vâng, có rất nhiều các mơ hình kinh tế vi mô cơ bản, một chút tâm lý học, một chút tốn
họcnđang giúp tạo ra những gì mà tơi gọi là cấu trúc nền tảng của trí tuệ phổ quát (the
general substructure of worldly wisdom). Bây giờ, nếu bạn muốn tiếp tục đi từ món Carrot
tới món tráng miệng thì tơi sẽ chuyển sang chủ đề Lựa chọn cổ phiếu (stock picking)và cố gắng mơ tả nó dựa trên nền tảng trí tuệ phổ quát này.


Nghệ thuật lựa chọn cổ phiếu (phần 3)

Tôi không muốn tham gia vào thị trường mới nổi (emerging markets), hay chênh lệch trái
phiếu…Tơi khơng nói bất cứ gì khác ngồi việc nói về lựa chọn cổ phiếu. Hãy tin tơi đi,
đó là thứ đủ phức tạp. Tơi đang nói về lựa chọn cổ phiếu phổ thơng.
Câu hỏi đầu tiên đó là “Bản chất của thị trường chứng khốn là gì?”. Điều này trực triếp
dẫn bạn tới lý thuyết thị trường hiệu quả (efficient market theory), thứ đã bao phủ rộng lớn
(rage) và kéo dài sau khi tôi tốt nghiệp trường luật. Và nó khá thú vị bởi vì một trong những

nhà kinh tế vĩ đại nhất thế giới đã là cổ đông lớn của Berkshire Hathaway từ lâu. Sách giáo
khoa của ông ấy luôn luôn dạy rằng thị trường chứng khốn là hồn tồn hiệu quả và khơng
một ai có thể đánh bại nó. Nhưng tiền đầu tư của ơng ấy vào Berkshire đã làm cho ông ấy
trở nên giàu có. Vì vậy, giống như Pascal trong vụ đánh cuộc nổi tiếng của mình, ơng ấy
đã phịng hộ việc đặt cược của bản thân mình.
Thị trường chứng khốn hiệu quả đến mức mà khơng ai có thể đánh bại nó phải không?
Vâng, lý thuyết thị trường hiệu quả rõ ràng là gần đúng, có nghĩa là thị trường khá hiệu
quả và nó khá khó để ai đó đánh bại với mức lợi nhuận đáng kể chỉ bằng việc lựa chọn cổ
phiếu một cách thông minh và làm việc một cách có kỷ luật.
Thật vậy, kết quả trung bình phải là kết quả trung bình. Theo định nghĩa, mọi người khơng
thể đánh bại thị trường. Như tơi ln nói, quy tắc cứng của cuộc sống là chỉ có 20% số
người có thể nằm trong top 5. Nó là như vậy. Vì thế câu trả lời đó là nó hiệu quả một phần
và không hiệu quả một phần. Và nhân tiện, tôi có một cái tên cho những người đã đi đến
lý thuyết cực kỳ hiệu quả và gọi họ là “bonkers”. Đó là một lý thuyết phù hợp về mặt trí
tuệ cho phép họ làm tốn học tốt. Vì vậy tơi hiểu được sức hấp dẫn (seductiveness) của nó
với mọi người như một món q tốn học lớn vậy. Nó chỉ có một chổ khó khăn nằm ở giả
định cơ bản không chặn chẽ so với thực tế.
Một lần nữa, Khi người đàn ơng cầm búa thì mọi vấn đề trơng đều như cái đinh cả. Nếu
bạn giỏi vận dụng (manipulating) toán học cao cấp theo một cách nhất quán, tại sao không
đưa ra một giải định cho phép bạn sử dụng cơng cụ của chính mình?
Mơ hình tơi thích để đơn giản hóa khái niệm về những gì diễn ra trong một thị trường
chứng khốn đó là hệ thống pari-mutuel system tại trường đua (racetrack). Nếu bạn dừng
lại để suy nghĩ về nó thì một hệ thống Pari-mutuel system là một thị trường. Mọi người
đến đó và thay đổi cách đặt cược dựa trên những ván cược. Đó là những gì xãy ra trong thị
trường chứng khốn.
Bất kỳ kẻ ngốc chết tiệt nào cũng có thể thấy rằng một con ngựa mang trọng lượng nhẹ với
tỉ lệ chiến thắng tuyệt vời và một vị trí xuất phát tốt…thì sẽ có khả năng chiến thắng hơn
con ngựa với tỉ lệ xấu và trọng lượng nặng hơn…Nhưng nếu bạn nhìn vào tỉ lệ cược, con



ngựa tồi được trả tỉ lệ 100:1 trong khi con ngựa tốt chỉ là 3:2. Về mặt thống kê xét theo
tốn học Fermat và Pascal thì khơng rõ ràng theo cái nào là đặt cược tốt nhất. Gía đã thay
đổi theo cách rất khó để đánh bại hệ thống. Và trường đua cịn lấy đi 17% phí ngay từ lúc
đầu. Vì vậy, bạn khơng chỉ phải đánh bại tất cả các nhà cái khác mà bạn phải đánh bại họ
với một mức lãi đạt mức trung bình mà bạn có thể đủ khả năng lấp được 17% tổng số tiền
phí cược của mình và thu lợi về trước khi dùng phần còn lại để đặt cược tiếp.
Với những kiến thức tốn học đó, liệu có thể đánh bại những con ngựa chỉ bằng trí thơng
minh của một người? Trí thơng minh sẽ mang đến một số lợi thế bởi vì nhiều người khơng
biết bất cứ điều gì nhưng lại đi ra ngoài và đặt cược vào những con số may mắn… Do đó,
nếu ai đó thực sự khơng nghĩ gì khác ngồi việc nhìn vào sự thể hiện của con ngựa và dùng
sự sắc sảo cũng như tốn học thì có thể có được một lợi thế đáng kể, trong trường hợp
khơng có chi phí mất mát (frictional cost) gây ra bởi bên nhà cái (house take).
Thật không may, điều mà một người chơi ngựa khôn ngoan làm trong hầy hết các trường
hợp là giảm tổn thất trung bình của anh ta trong một mùa cược từ 17% mà anh ta sẽ mất
nếu anh ta có được kết quả trung bình về khoảng 10%. Tuy nhiên, có rất ít người có thể
đánh bại được trị chơi này sau khi trả hết đầy đủ 17% phí.
Tơi đã từng chơi xì zách khi tơi cịn trẻ với một gã chỉ kiếm sống phần lớn dựa vào việc cá
cược ở các cuộc đua ngựa…Bây giờ, các cuộc đua ngựa là một thị trường tương đối khơng
hiệu quả. Bạn khơng có được chiều sâu trí tuệ để đánh cược trong các cuộc đua mà bạn
thực hiện ở các cuộc đua thơng thường. những gì người bạn chơi bài của tôi sẽ làm là nghĩ
về các cuộc đua này như là nghề chính của anh ta vậy. Và anh ta sẽ đặt cược chỉ khi nào
nhận ra một số chênh lệch có sẵn (mispriced bet available). Và bằng cách thực hiện điều
này, sau khi thanh toán đầy đủ tiền quản lý trường đua (handle to the house) – mà tơi dự
đốn là khoảng 17% - thì anh ta đã kiếm được một khoản đáng kể để sinh sống.
Bạn phải nói rằng chuyện này rất hiếm. Tuy nhiên, thị trường khơng hiệu quả hồn tồn.
Và nếu nó khơng lấy đi 17% phí thì rất nhiều người sẽ thường xuyên đánh bại nhiều người
khác trong các cuộc đua ngựa. Vâng, nó hiệu quả. Nhưng nó khơng hiệu quả hoàn toàn. Và
với đủ sự sắc sảo và cuồng tín, một số người sẽ có được kết quả tốt hơn những người khác.
Thị trường chứng khoán cũng tương tự như vậy nhưng chỉ khác một điều là phí xử lý thì
thấp hơn nhiều. Nếu bạn chỉ mất chi phí giao dịch (transaction costs) – kết hợp với chênh

lệch giữa giá mua và giá bán (the bid and the ask) cộng với hoa hồng và nếu bạn không
giao dịch quá nhiều thì bạn đang nói về một chi phí giao dịch khá thấp. Vì thế, với đủ sự
nhiệt thành và đủ kỷ luật thì một số người sắc sảo (shrewd) sẽ nhận được kết quả tốt hơn
trung bình theo bản chất của sự việc.
Việc này tất nhiên không phải dễ dàng gì. Đương nhiên, có khoảng 50% người sẽ rơi vào
nữa dưới và 70% người sẽ rơi vào dưới 70%. Nhưng một số người sẽ có lợi thế. Và trong


một hoạt động với chí phí giao dịch khá thấp thì họ sẽ có được kết quả tốt hơn so với mức
trung bình trong việc lựa chọn cổ phiếu.
Làm thế nào để bạn trở thành một trong những người chiến thắng – xét theo nghĩa tương
đối – thay vì là một kẻ thua cuộc?
Ở đây, một lần nữa chúng ta nhìn vào hệ thống Pari-mutuel system. Tơi đã ăn tối với chủ
tịch Santa Anita một cách tình cờ vào hơm qua. Ơng ấy nói rằng có hai hoặc ba nhân viên
tốt hơn phần cịn lại đã thu xếp được tín dụng với chúng tơi, bây giờ họ đã có được hướng
cá cược (have off-track), họ là những người đang thực sự đánh bại nhà cái. Họ đang gửi
toàn bộ số tiền lời ra ngồi sau khi thanh tốn nhiều tiền phí cho Las Vegas, theo cái cách
dành cho nhiều người thực sự có được một phần lợi nhuận chút đỉnh sau khi thanh tốn
đầy đủ chi phí. Họ đã thật sắc sảo về một cái gì đó trong mơi trường đua ngựa đầy biến
động khó lường này.
Và một điều mà tất cả những người chiến thắng tốt hơn trong toàn bộ lịch sử của những
người đã đánh bại hệ thống Pari-mutuel system đều có thì khá đơn giản. Đó là họ hiếm khi
đặt cược. Điều này không được trao cho con người để có được độ tài năng đến mức họ có
thể biết mọi thứ trong mọi lúc. Nhưng lại được trao cho những người làm việc chăm chỉ
với nó-những người theo dõi và sàng lọc (look and sift) thế giới nhằm tìm kiếm một sự
chênh lệch (mispriced), thứ mà đơi khi họ có thể nắm bắt được.
Và những người khôn ngoan đặt cược rất nhiều (bet heavily) khi thế giới cung cấp cho họ
cơ hội. Họ đặt cược lớn khi họ có được tỉ lệ cược tốt. Và phần lớn thời gian cịn lại họ sẽ
khơng làm gì cả. Đơn giản chỉ như vậy thơi. Đó là một khái niệm rất giản đơn. Và với tơi
nó rõ ràng là đúng dựa trên kinh nghiệm không chỉ từ hệ thống Pari-mutuel system mà còn

ở những nơi khác nữa.
Tuy nhiên, trong quản lý đầu tư, thực tế thì khơng ai vận hành kiểu như vậy. Cịn chúng
tơi lại vận hành theo cách đó - tơi đang nói về Buffett và Munger. Và chúng tôi không đơn
độc trên thế giới này. Nhưng phần lớn mọi người lại có một số cấu trúc (construct) điên rồ
khác trong đầu họ. Và thay vì chờ đợi một cơ hội tốt xuất hiện (a near cinch and loading
up), họ lại dường như đưa ra giả thuyết rằng nếu họ làm việc chăm chỉ hơn một chút hoặc
thuê thêm sinh viên từ trường kinh doanh thì họ sẽ biết được mọi thứ về mọi điều, mọi lúc.
Với tơi, Điều này hồn tồn điên rồ (insane). Cách để chiến thắng đó là WORK, WORK,
WORK, WORK, WORK và hy vọng sẽ có được một số hiểu biết (insights).
Bạn cần bao nhiêu hiểu biết? Chà, tôi tranh luận rằng: Bạn khơng cần nhiều thứ trong đời
mình đâu. Nếu bạn nhìn vào Berkshire Hathaway và hàng tỉ đơ tích lũy của nó, top 10 sự
hiểu biết đã đưa tới phần lớn lợi nhuận trong số đó. Đó là sự xuất sắc của Warren, người
hơn tôi rất nhiều và rất kỷ luật trong việc cống hiến cả cuộc đời ông ấy cho nó. Tơi nói vậy
ko có nghĩa là ơng ấy chỉ có 10 sự hiểu biết. Tơi chỉ nói rằng hầu hết số tiền kiếm được là
đến từ khoảng 10 sự am hiểu đầu tư mà thơi. Vì vậy, bạn có thể nhận được kết quả đầu tư


rất đáng chú ý nếu bạn suy nghĩ giống như một người chơi Pari-mutuel thắng cuộc. Chỉ
cần nghĩ về nó như là một vụ đặt cược lớn chống lại trò chơi đầy điên rồ khi có được sự
chênh lệch giá ở một lúc này đấy hoặc những thứ khác tương tự. Và có lẽ bạn sẽ khơng đủ
thơng minh để tìm ra hàng ngàn cơ hội trong cuộc đời. Nhưng khi bạn có được một vài cơ
hội thì bạn phải thực sự nắm lấy (load up). Nó đơn giản như vậy thôi.
Khi Warren giảng bài tại các trường kinh doanh, ông ấy nói, “tôi có thể cải thiện phúc lợi
tài chính cuối cùng của bạn bằng cách cho bạn một cái thẻ chỉ có 20 điểm (slots) vì thế bạn
có thể đục 20 lổ (punches) – chúng đại diện cho tất cả các khoản đầu tư mà bạn thực hiện
trong cuộc đời. Một khi bạn đã đục hết thẻ thì bạn không thể thực hiện thêm bất kỳ một
khoản đầu tư nào khác nữa.”.
Ơng ấy nói “theo quy tắc đó, bạn sẽ thực sự suy nghĩ cẩn trọng về những gì mình làm và
bạn buộc phải nắm bắt những cơ hội dựa trên những gì mà bạn thực sự suy nghĩ sâu sắc.
Vì vậy bạn sẽ thực hiện tốt hơn rất nhiều”. Một lần nữa, khái niệm này dường như là hồn

tồn rõ ràng đối với tơi. Và với Warren, nó dường như cũng hồn tồn là rõ ràng. Nhưng
đây là một trong những thứ mà rất ít các lớp kinh doanh ở Hoa Kỳ giảng dạy. Nó khơng
phải là trí tuệ thơng thường (conventional wisdom).
Với tơi, rõ ràng rằng người chiến thắng phải đặt cược một cách rất chọn lọc. Đó là điều
hiển nhiên đối với tơi ngay từ rất sớm trong cuộc đời. Tôi ko biết tại sao nó lại khơng là
điều hiển nhiên đối với nhiều người khác. Tôi cho rằng lý do mà tại sao chúng ta lại rơi
vào thứ xuẩn ngốc như vậy trong quản trị đầu tư thì đã được minh họa rõ nhất bởi một câu
chuyện mà tôi kể về một gã bán đồ câu cá (fishing tackle). Tôi hỏi anh ta “Má ơi (my god),
chúng có màu tím (purple) và xanh lục (green) này. Những con cá có thực sự đớp những
mồi này ko vậy?” và anh ta đáp lại, “Thưa ngài, tôi không bán cho những con cá”
Các nhà quản lý đầu tư đang ở vị trí của nhân viên bán hàng câu cá đó. Họ giống như anh
chàng bán muối cho cái gã đã có quá nhiều muối. Và miễn là anh ta sẽ mua muối thì tại
sao họ lại khơng bán muối nữa chứ? Nhưng đó khơng phải là những gì thơng thường phục
vụ cho những người đi mua các khoản tư vấn đầu tư (investment advice). Nếu bạn đầu tư
theo kiểu Berkshire Hathaway, thật khó để được trả tiền với tư cách là một nhà quản lý đầu
tư như là hiện họ đang được trả - bởi vì bạn đang nắm giữ một phần Wal-Mart và một phần
Coca-Cola hay những thứ tương tự thế rồi. Bạn chỉ việc ngồi đó và khách hàng rồi sẽ trở
nên giàu có. Và sau một khoảng thời gian, khách hàng sẽ nghĩ, “tại sao tôi lại trả tiền cho
cái gã này một nữa phần trăm một năm trên những khoản nắm giữ thụ động tuyệt vời của
mình nhỉ?”
Vì vậy, Những gì có ý nghĩa với nhà đầu tư thì khác với những gì có ý nghĩa với người
quản lý. Và giống như các vấn đề của con người (human affairs), những gì xác định nên
hành vi thì chính là các khuyến khích cho người ra quyết định. Từ tất cả các lĩnh vực kinh
doanh, trường hợp u thích của tơi về sự khuyến khích đó là ở Federal Express. Trái tim


và linh hồn hệ thống của họ để tạo ra sự hồn hảo cho dịch vụ đó là đảm bảo tất cả các máy
bay của họ đến một nơi vào giữa đêm và chuyển tất cả các gói hàng từ máy bay này tới
máy bay khác. Nếu chúng bị chậm trễ thì tồn bộ hệ thống khơng thể cung cấp một dịch
vụ hoàn hảo cho các khách hàng của Federal Express. Và chuyện đã xãy ra là nó ln ln

bị kéo dài. Họ khơng bao giờ hồn thành được việc này đúng giờ. Họ đã thử tất cả mọi thứ
từ đạo đức, đe dọa hay bất cứ cái gì bạn gán tên cho nó nhưng khơng có cách nào hiệu quả.
Cuối cùng, một ai đó nãy ra ý tưởng là trả lương cho tất cả những người này khơng tính
theo giờ mà tính theo ca và khi họ làm xong thì họ có thể về nhà. Vâng, vấn đề nhức nhối
của FEDEX đã được giải quyết qua đêm.
Vì vậy, nhận được các khuyến khích đúng đắn là một bài học rất, rất quan trọng. Đã có lúc
khơng rõ về giải pháp của Fedex là gì nhưng kể từ giờ thì nó sẽ trở nên rõ ràng hơn đối với
bạn.
Được rồi, bây giờ chúng ta đã nhận ra rằng thị trường là hiệu quả (giống như một hệ thống
Pari-mutuel hoạt động hiệu quả) với niềm yêu thích hơn việc lắng nghe tiếng súng báo hiệu
để thực hiện tốt trong trường đua, nhưng không nhất thiết mang lại bất kỳ lợi thế cá cược
nào cho những người đặt cược vào sự yêu thích.
Trong thị trường chứng khốn, một số doanh nghiệp đường sắt bị bao vây bởi các đối thủ
cạnh tranh tốt hơn và các nghiệp đồn cứng rắn (tough unions) có thể có sẵn với mức giá
1/3 giá trị sổ sách. Ngược lại, IBM vào thời hồng kim (heyday) có thể được bán với mức
6 lần giá trị sổ sách. Vì vậy nó khá giống với hệ thống Pari-mutuel system. Bất kỳ kẻ ngốc
chết đâm (damn fool) nào cũng có thể thấy rõ rằng IBM có triển vọng kinh tế hơn doanh
nhiệp đường sắt . Nhưng một khi bạn đặt giá vào để suy xét thì nó khơng cịn rõ ràng điều
gì sẽ là tốt cho những người mua đang lựa chọn giữa các cổ phiếu này. Vì thế nó giống rất
nhiều hệ thống pari-mutuel system. Và do vậy rất khó để đánh bại thị trường.

Nghệ thuật lựa chọn cổ phiếu (phần cuối)
Nhà đầu tư nên sử dụng phong cách nào để chọn cổ phiếu phổ thông nhằm cố gắng
đánh bại thị trường-hay nói cách khác là để có được một kết quả trên trung bình
trong dài hạn đây?
Có một kỹ thuật tiêu chuẩn thu hút rất nhiều người được gọi là “xoay vịng ngành-sector
rotation”. Bạn chỉ cần tìm ra khi nào ngành dầu khí sẽ vượt trội hơn ngành bán lẽ….Bạn
chỉ cần đi loanh quanh (kind of flit) lĩnh vực đang sốt nóng của thị trường rồi đưa ra những
lựa chọn tốt hơn những người khác. Và có lẽ trong một khoảng thời gian dài thì bạn sẽ vượt
lên (get ahead). Tuy nhiên, tơi biết rằng thực sự khơng có nhiều người xoay vịng ngành

giàu có (rich sector rotator). Có thể một số người làm được. Tơi khơng nói về những người
khơng thể. Tất cả những gì tơi biết đó là tất cả những người tôi biết đã trở nên giàu có và


tôi cũng biết phần lớn trong số họ đã không làm theo cách này. Các tiếp cạn cơ bản thứ hai
là cách mà Ben Graham đã sử dụng và rất được Warren và tôi ngưỡng mộ. Như một nhân
tố mạnh mẽ, Graham đã đưa ra khái niệm giá trị cho một chủ sở hữu tư nhân mà nếu sẵn
sàng bán đi tồn bộ doanh nghiệp. Và điều đó đã tính tốn được trong nhiều trường hợp.
Nếu bạn có thể lấy giá cổ phiếu rồi nhân với số lượng cổ phiếu và nhận được 1/3 hay ít hơn
giá trị bán ra thì ơng ấy nói rằng bạn đang có rất nhiều lợi thế cho riêng mình. Ngay cả với
một người già nghiện rượu đang kinh doanh một ngành trì trệ (stodgy business) thì một sự
vượt xa đáng kể giá trị thực trên cổ phiếu sẽ cung cấp cho bạn một ý nghĩa là tất cả những
điều tốt đẹp có thể sẽ đến với bạn. Bạn có được một biên độ an tồn khổng lồ (Huge margin
of safety) – như ơng ấy đã nói – bằng cách có được khoảng vượt quá giá trị này. Nhưng
nói chung, ơng ấy đã hoạt động khi thế giới bị sốc nặng vào những năm 1930 – đó là một
sự sụt giảm tồi tệ (the worst contraction) của cộng đồng các nước nói tiếng anh trong
khoảng 600 năm qua. Tơi tin rằng Lúa mì ở Liverpool đã xuống tới mức thấp nhất 600 năm
(điều chỉnh theo lạm phát). Mọi người đã rất sốc trong một thời gian dài sau đó, rằng Ben
Graham có thể điều hành qũy Geiger của mình vượt qua những tàn phá kể từ thời điểm sụp
đổ những năm 1930 và tìm thấy những thứ đang bán dưới vốn lưu động (working
capital)/cổ phiếu hay những thứ tương tự vậy. Và trong những ngày đó, vốn lưa động thực
sự thuộc về các cổ đơng. Nếu nhân viên ko cịn hữu ích thì bạn chỉ cần sa thải họ, thu lấy
vốn lưu động và nhét nó vơ túi của người chủ sở hữu mà thơi. Đó là cách mà chủ nghĩa tư
bản khi đó làm việc.
Ngày nay, đương nhiên là việc kế tốn khơng thực tế cho lắm bởi vì thời điểm doanh nghiệp
bắt đầu ký hợp đồng thì lượng tài sản đáng kể khơng tồn tại. Theo các chuẩn mực xã hội
(social norms) và các uy tắc pháp lý mới của nền văn minh thì rất nhiều người mắc nợ
người lao động, rằng ngay khi doanh nghiệp xuống dốc (goes into reverse) thì một số tài
sản trên bảng cân đối kế tốn khơng cịn ở đó nữa.
Bây giờ, điều đó có thể khơng cịn đúng nếu bạn điều hành một đại lý ô tô nhỏ (a little auto

dealership). Bạn có thể điều hành nó theo cái cách khơng có một chương trình vận hành
khỏe mạnh và điều này nhằm cho lúc mà doanh nghiệp trở nên tệ đi thì bạn có thể lấy vốn
lưu động và về nhà. Nhưng IBM thì khơng thể, hoặc ít nhất là ko làm được. Chỉ cần nhìn
vào những gì đã biến mất khỏi bảng cân đói kế tốn khi nó quyết định rằng nó phải thay
đổi quy mơ bởi vì thế giới đã thay đổi về mặt cơng nghệ và bởi vì vị thế thị trường của nó
đã bị xuống cấp (deteriotated).
Và về mặt thổi bay tài sản thì IBM là một ví dụ. Những người điều hành đều thơng minh
và có kỷ luật. Nhưng có đủ sự xáo trộn (turmoil) trong thay đổi công nghệ khiến IBM bị
bật bãi (bounced off) khỏi con sóng sau khi “lướt đi” thành cơng trong 60 năm. Và đó là
một số bài học về sự sụp đổ bởi những khó khăn của ngành công nghệ và là một trong
những lý do mà tại sao Buffett và Munger khơng thích cơng nghệ nhiều lắm. Chúng tôi
không nghĩ rằng chúng tôi hiểu tốt về nó và những điều kỳ lạ có thể xãy ra.


Ở bất kỳ mức độ nào, rắc rối với cái mà tôi gọi là khái niệm Ben Graham cổ điển đó là dần
dần thì thế giới trở nên khơn ngoan hơn và những món hời thực sự rõ ràng đã biến mất.
Bạn có thể điều hành Geiger của mình vượt qua những đống gạch đổ nát và nó sẽ khơng
phát lên được (would not click). Nhưng đó là bản chất của những người đang cầm búa –
như tôi đã đề cập- đó là mọi vấn đề đều trơng như cái đinh, mà những người theo Ben
Graham đã thích ứng bằng cách thay đổi đường chuẩn theo Geiger của riêng họ. Trong
thực tế, họ bắt đầu xác định một món hời theo cách khác. Và họ tiếp tục thay đổi định nghĩa
để họ có thể tiếp tục làm những gì mà họ ln làm. Và nó vẫn hoạt động khá tốt. Vì vậy,
hệ thống trí tuệ của Ben Graham là một hệ thống tốt.
Tất nhiên, phần hay nhất của tất cả là khái niệm “Ngài thị trường-Mr. Market” của ơng.
Thay vì nghĩ rằng thị trường hiệu quả, ông ấy đối xử với nó như một người trầm cảm
(manicdepressive) đến chơi mỗi ngày. Một số ngày thì anh ta nói, “tơi sẽ bán cho bạn một
số món của tơi với giá thấp hơn mức giá mà bạn nghĩ nó xứng đáng” và một số ngày khác
thì anh ta lại nói “tơi sẽ mua một số món của bạn với giá cao hơn mức giá mà bạn nghĩ là
nó xứng đáng.” Và bạn có quyền chọn quyết định xem bạn có muốn mua thêm hay khơng
hay bán đi một phần những gì bạn có hoặc chả làm gì cả.

Đối với Graham, thật may mắn khi được kinh doanh với một người trầm cảm, người đã
cho bạn một loạt các lựa chọn mọi lúc. Đó là một cấu trúc tinh thần rất có ý nghĩa. Và nó
rất hữu ích với Buffett, ví dụ, trong cả cuộc đời trưởng thành của ông ấy.
Tuy nhiên, nếu chúng tôi đứng yên với Graham thời cổ điển và theo cách Graham đã làm
thì chúng tơi sẽ khơng bao giờ có được kỷ lục mà chúng tơi có. Và đó là vì Graham đã
khơng cố gắng làm những gì chúng tơi đã làm. Ví dụ, Graham khơng muốn nói chuyện với
ban quản lý. Và lý do của ông ấy là, giống như kiểu giáo sư giỏi nhất đang nhắm mục tiêu
đến việc giảng dạy của ông ấy trước số đông người, ông ấy đã cố gắng phát minh ra một
hệ thống mà bất kỳ ai cũng có thể sử dụng được. Và ông ấy không cảm thấy rằng người
đàn ông trên phố Wall có thể chạy xung quanh và nói chuyện với ban quản lý rồi học hỏi
mọi thứ. Ông ấy cũng có một khái niệm rằng ban quản lý sẽ thường xuyên che giấu thông
tin một cách sắc sảo để đánh lừa. Do vậy, nó rất khó khăn. Và điều đó vẫn tiếp tục đúng,
tất nhiên là bản chất con người vẫn như vậy. Và vì có được sự khởi đầu như kiểu
Grahamites, bằng cách đó và làm việc tốt lên, chúng tơi dần có được những gì chúng tôi
gọi là hiểu biết tốt hơn (better insights). Và chúng tôi đã nhận ra rằng một số công ty đang
bán ở mức 2 hoặc 3 lần giá trị sổ sách vẫn có thể là một món hời bởi vì những động lực
tiềm ẩn (momentums implicit) trong nội tại của nó đơi khi kết hợp với một kỹ năng quản
lý phi thường xuất hiện trong một số cá nhân hay hệ thống khác sẽ cho ta kết quả tốt đẹp.
Và một khi chúng tôi đã vượt qua được rào cản của việc nhận ra rằng một thứ có thể là một
món hời dựa trên các giải pháp định lượng sẽ làm Graham kinh hồng, thì chúng tơi bắt
đầu nghĩ về những doanh nghiệp tốt hơn. Và, tiện thể, phần lớn hàng tỉ đô ở Berkshire
Hathaway đã đến từ các doanh nghiệp tốt hơn. Phần lớn trong số 200$ triệu hay 300$ triệu


đầu tiên đến từ việc đua tranh (scrambling) xung quanh Geiger của chúng tôi. Nhưng phần
lớn số tiền đã đến từ những doanh nghiệp tuyệt vời. Và thậm chí một số khoản tiền đầu
tiên đã được tạo ra bằng cách tạm thời đầu tư trong các doanh nghiệp tuyệt vời. Ví dụ,
Buffett Parnership sở hữu American Express và Disney khi các doanh nghiệp này bị sự cố
(pounded down).
Hầu hết các nhà quản lý đầu tư ở trong một trò chơi mà các khách hàng kỳ vọng họ biết

nhiều về nhiều thứ. Chúng tơi khơng có bất kỳ khách hàng nào có thể sa thải chúng tơi tại
Berkshire Hathaway. Vì vậy chúng tôi đã không phải chị sự chi phối (to be governed) bởi
bất kỳ một cấu trúc nào như vậy. Và chúng tơi đã đi đến khái niệm tìm kiếm một vụ đặt
cược chênh lệch giá rồi nắm lấy (loading up) khi chúng tôi rất tự tin rằng chúng tôi đang
đúng. Vì vậy chúng tơi theo cách ít đa dạng hơn. Và tôi nghĩ hệ thống chúng tôi vượt xa
kỳ vọng (miles better).
Tuy nhiên, cơng bằng mà nói (in all fairness), tơi khơng nghĩ nhiều nhà quản lý tiền có thể
bán thành công dịch vụ của họ nếu họ sử dụng hệ thống của chúng tôi. Nhưng nếu bạn
đang đầu tư 40 năm vào một số quỹ hưu trí (pension fund), có gì khác biệt nếu con đường
từ đầu đến cuối trở nên gập gềnh hơn (more bumpy) hoặc khác đi một chút so với mọi
người miễn là mọi việc sẽ kết thúc một cách ổn thỏa? Vì vậy, sẽ thế nào nếu có thêm một
chút biến động.
Trong quản lý đầu tư ngày nay, mọi người không chỉ muốn giành chiến thắng mà cịn muốn
có được kết quả hàng năm khơng bao giờ khác biệt gì nhiều so với tiêu chuẩn ngoại trừ lúc
thị trường đi lên. Chà, đó là một cấu trúc điên rồ và giả tạo. Điều đó (trong quản lý đầu tư)
là một sự tương đương với phong tục (custom) trói chân (binding the feet) phụ nữ ở Trung
Quốc. Nó cũng tương đương với ý nghĩa của Nietzsche khi ơng ấy chỉ trích người đàn ơng
có đơi chân què quặt (lame leg) nhưng lại tự hào về nó. Đó quả thực là một sự luẩn quẩn
trong chính bản thân bạn. Bây giờ, cá nhà quản lý đầu tư sẽ nói, “chúng ta phải như vậy
thơi. Đó là cách chúng ta đo lường. ‘’và họ có thể đúng về cách thức kinh doanh hiện đang
được xây dựng. Nhưng theo quan điểm của một người tiêu dùng hợp lý, toàn bộ hệ thống
là “bonkers” và kéo rất nhiều tài năng vào một hoạt động vô dụng của xã hội (socially
useless activity). Và hệ thống Berkshire không phải là các Bonkers. Đó là điều cơ bản đáng
nguyền rủa (damned elementary) đến nỗi ngay cả những người thông minh cũng sẽ bị hạn
chế, những hiểu biết thực sự có giá trị trong một thế giới đầy cạnh tranh khi họ chiến đấu
chống lại những người cũng sáng dạ và chăm chỉ khác. Và thật ý nghĩa khi đưa ra dù cho
rất ít những hiểu biết bạn mà có thay vì giả vờ (pretending) biết tuốt về mọi thứ mọi lúc.
Bạn có khả năng làm tốt nếu bạn bắt đầu làm một điều gì đó khả thi (feasible) thay vì một
điều gì đó bất khả thi. Điều đó khơng hồn tồn rõ ràng sao?
Có bao nhiêu bạn có 56 ý tưởng tuyệt vời mà ở đó bạn có sự tự tin như nhau? Hãy giơ tay

lên nào. Có bao nhiêu bạn có 2 hoặc 3 cái nhìn sâu sắc mà bạn cảm thấy có chút tự tin?


Tơi muốn nói rằng hệ thống của Berkshire Hathaway đang thích nghi với bản chất của vấn
đề đầu tư như thực tế nó diễn ra vậy. Chúng tơi đã thực sự kiếm được tiền từ các doanh
nghiệp chất lượng cao. Trong một số trường hợp, chúng tôi mua luôn cả doanh nghiệp, và
trong một số trường hợp chúng tôi chỉ mua một lượng lớn cổ phiếu (a big block of stock).
Nhưng khi bạn phân tích những gì đã xãy ra thì số tiền lớn đã được tạo ra trong các doanh
nghiệp chất lượng cao. Và hầu hết những người khác đã kiếm được nhiều tiền đều làm như
thế với những doanh nghiệp chất lượng cao.
Về lâu dài (over the long term), thật khó để một cổ phiếu kiếm được lợi nhuận tốt hơn
nhiều so với lợi nhuận kinh doanh mà nó kiếm được. Nếu một doanh nghiệp kiếm được
6% trên số vốn trong 40 năm và bạn giữ nó trong suốt 40 năm đó thì bạn ko tạo ra được
nhiều sự khác biệt hơn mức lợi suất 6% ngay cả khi bạn mua nó với mức chiết khấu lớn
ngay từ lúc đầu. Ngược lại, nếu một doanh nghiệp kiếm được 18% lợi nhuận trên vốn trong
20 hoặc 30 năm, thì ngay cả khi bạn trả một cái giá đắt đỏ thì bạn cũng sẽ có được một kết
quả tốt.
Vì vậy, diệu kế (the trick) ở đây là tham gia vào các doanh nghiệp tốt hơn. Và điều đó liên
quan đến tất cả những lợi thế của quy mô mà bạn có thể xem xét tới hiệu ứng động lượng
(momentum effects). Làm thế nào để bạn nhận ra được những công ty tuyệt vời? Một
phương pháp là cái cái mà tôi gọi là phương pháp tìm kiếm chúng khi cịn nhỏ và mua lấy
chúng. Ví dụ, mua Wal-Mart khi Sam Walton lần đầu tiên ra mắt công chúng và những thứ
đại loại như vậy. Và rất nhiều người cố gắng làm điều đó. Và đó là một ý tưởng cực hay
(beguiling idea). Nếu tơi là một chàng trai trẻ thì tơi thực sự có thể đi sâu vào nó đấy.
Nhưng nó khơng cịn hiệu quả với Berkshire Hathaway nữa vì chúng tơi có q nhiều tiền.
Chúng tơi khơng thể tìm kiếm bất cứ thứ gì phù hợp (fits out) với tham số quy mơ theo
cách của chúng tơi. Bên cạnh đó, chúng tôi đã thiết lập theo cách của chúng tôi. Nhưng tơi
coi việc tìm ra chúng như làm một cách tiếp cận hồn tồn thơng minh cho ai đó cố gắng
và kỷ luật. Nó chỉ khơng phải là thứ mà tơi đã làm. Tìm kiếm khi chúng đã lớn rõ ràng là
rất khó bởi vì sự cạnh tranh. Cho đến nay, Berkshire đã quản lý để thực hiện điều này.

Nhưng chúng ta có thể tiếp tục làm thế ko? Khoản đầu tư Coca-Cola tiếp theo của chúng
ta là gì? Chà, câu trả lời đó là tơi khơng biết. Tơi nghĩ nó đã khó hơn cho chúng tơi mất
rồi…
Thật lý tưởng và chúng tôi đã làm rất nhiều việc này, bạn tham gia vào một doanh nghiệp
tuyệt vời cùng một người quản lý tuyệt vời bởi vì các vấn đề quản lý. Ví dụ, Có một sự
khác biệt cho GE khi mà Jack Welch đến, thay vì anh chàng đã tiếp quản Westinghouse –
một sự khác biệt rất lớn. Vì đó cũng là vấn đề quản lý. Và một số trong đó là có thể dự
đốn được. Tơi khơng nghĩ cần phải là một thiên tài để hiểu rằng Jack Welch là một người
sâu sắc và nhà quản lý tốt hơn so với các đồng nghiệp của mình ở những cơng ty khác. Tôi
cũng không nghĩ rằng phải là một thiên tài lớn (tremendous genius) để hiểu rằng Disney
có những động lực cơ bản rất mạnh mẽ và Eisner và Wells là những nhà quản lý phi thường.


×