TRƯỜNG ĐẠI HỌC .....
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN
Đề tài: Pháp luật Việt Nam về thừa kế có yếu tố nước ngồi,
so sánh với Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên Bang Nga
Họ và tên
:
Lớp
:
Môn
:
Mã sinh viên
:
......, tháng ..... năm 2021
MỤC LỤC
2
2
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân luật các nước và cũng là
chế định quan trọng trong hệ thống tư pháp quốc tế. Về nguyên tắc, trong phạm vi quốc
gia nào mà các quan hệ thừa kế được nảy sinh sẽ do pháp luật về thừa kế của quốc gia đó
điều chỉnh. Tuy nhiên, trong điều kiện giao lưu, hợp tác toàn cầu ngày càng phát triển như
hiện nay, khi các giao lưu quốc tế ngày càng tăng lên thì quan hệ thừa kế cũng đã vượt ra
khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một quốc gia. Khi đó, quan hệ này trở
thành quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài và chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật
tư pháp quốc tế. Theo đó, tại Việt Nam có thể kể đến hai nguồn chính là: pháp luật trong
nước về thừa kế có yếu tố nước ngoài và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
có điều chỉnh về quan hệ thừa kế. Một trong những điều ước được Việt Nam ký kết từ khá
sớm đó là Hiệp định “Tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga” đã được ký kết từ ngày 25 tháng
8 năm 1998 và có hiệu lực kể từ ngày 27 tháng 8 năm 2012 (Sau đây gọi là “Hiệp định
tương trợ tư pháp”).
Mặc dù cùng quy định về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi, tuy nhiên giữa pháp
luật Việt Nam và hiệp định tương trợ tư pháp vẫn có những điểm riêng nhất định. Xuất
phát từ nội dung này, bài tiểu luận dưới đây, với đề tài “Pháp luật Việt Nam về thừa kế có
yếu tố nước ngoài, so sánh với Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên Bang Nga”
sẽ đi tìm hiểu, phân tích về quy định tại từng nguồn pháp luật trên để đưa ra được những
so sánh, chỉ ra những ưu, nhược điểm cụ thể, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho
việc quy định tại Việt Nam.
3
3
PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA KẾ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
Tại hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy phạm về quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngồi được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 (Sau đây gọi là “BLDS 2015”), cụ thể
tại một số điều khoản ở Phần thứ năm “Pháp luật áp dụng đói với quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngồi”. Theo đó, những quy định này điều chỉnh các vấn đề cơ bản, quan trọng và
liên quan trực tiếp đến việc giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế liên quan
đến thừa kế có yếu tố nước ngồi như sau:
1.1. Về phạm vi áp dụng
BLDS 2015 không đưa ra phạm vi áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngồi nói riêng mà chỉ ra những quan hệ dân sự nói chung được xác định là quan hệ có
yếu tố nước ngồi tại khoản 2 Điều 663:
“2. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác
lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi.”
Theo đó, có thể xác định đối với thừa kế, quan hệ được coi là có yếu tố nước ngoài
khi thuộc một phạm vi một trong những trường hợp sau đây:
(i) Người thừa kế hoặc ngưởi để lại thừa kế là cá nhân, pháp nhân nước ngồi. Hay
có thể nói đây là trường hợp xác định theo Luật quốc tịch của chủ thể có liên quan. Ví dụ:
ơng A là công dân Việt Nam nhưng con của ông A là công dân Nga. Khi chết ông A để lại
di sản thừa kế cho con của mình. Trường hợp này, con của ơng A là cá nhân nước ngồi
nên đây là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
(ii) Người thừa kế và người để lại thừa kế là công dân Việt Nam nhưng di sản thừa
kế ở nước ngồi. Hay nói cách khác, luật được xác định áp dụng trong trường hợp này
phụ thuộc đối tượng của quan hệ thừa kế - di sản thừa kế. Ví dụ: Ơng A là cơng dân Việt
Nam và để lại thừa kế cho con là người Việt Nam. Ông A chết tại Việt Nam nhưng di sản
4
4
để lại có bao gồm thửa đất ở nước Nga. Trong trường hợp này di sản thừa kế ở nước
ngoài nên có thể khẳng định đây là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi.
(iii) Người thừa kế và người để lại thừa kế là công dân Việt Nam nhưng việc xác lập,
thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ thừa kế xảy ra ở nước ngoài. Như vậy, tại
trường hợp này, việc xác định pháp luật áp dụng được căn cứ theo địa điểm xảy ra sự kiện
pháp lý (xác lập, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ thừa kế). Ví dụ: Ơng A là
cơng dân Việt Nam và để lại thừa kế cho con là người Việt Nam. Tuy nhiên lúc lập di
chúc, ông A lại thực hiện ở Nga. Khi đó, quan hệ thừa kế này được xác định là quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngồi.
Nói tóm lại, một quan hệ thừa kế chỉ cần thoả mãn một trong ba trường hợp nêu
trên sẽ được xác định là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi.
1.2. Về ngun tắc xác định pháp luật áp dụng
1.2.1. Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi
Một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngồi nói chung và quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngồi nói riêng có thể liên quan đến phạm vi điều chỉnh của nhiều nguồn pháp luật
khác nhau. Theo đó, nếu khơng đưa ra được ngun tắc để xác định pháp luật áp dụng
một cách thống nhất, phù hợp sẽ dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn
cho các cá nhân, tổ chức trong q trình áp dụng. Để giải quyết vấn đề này, Điều 664
BLDS 2015 đã đưa ra nguyên tắc, thứ tự ưu tiên cho việc xác định pháp luật áp dụng nói
chung đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, trong đó bao gồm cả quan hệ thừa kế
như sau:
“1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được xác định
theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật
Việt Nam.
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối
với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên.
3. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất
với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi đó.”
Có thể thấy, theo quy định này, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và luật
Việt Nam được ưu tiên sẽ áp dụng dụng đầu tiên. Trong trường hợp hai nguồn trên khơng
có quy định điều chỉnh thì xác định theo lựa chọn của các bên (bên để lại di sản và bên
5
5
được thừa kế). Cuối cùng, nếu trường hợp các nguồn nêu trên đều khơng xác định thì
được áp dụng theo pháp luật của nước có mối qua hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi đó.
1.2.2. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi
Mục 1.2.1 đã đưa ra tổng quan về việc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngồi; tuy nhiên, cũng cần làm rõ rằng, việc xác định chính xác
nguồn luật cụ thể nào được điều chỉnh thì cần phải dựa theo nội dung, tính chất của từng
quan hệ thừa kế riêng biệt, cụ thể việc xác định pháp luật áp dụng được chia làm hai
trường hợp, dựa trên loại hình di sản thừa kế.
Trường hợp di sản thừa kế là động sản, việc thừa kế theo pháp luật “được xác định
theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi
chết”1. Cụm từ “ngay trước khi chết” được hiểu là thời điểm ngay liền trước thời điểm
người để lại di sản chết, tuy nhiên trên thực tế thời điểm ngay liền trước này rất khó để
xác định chính xác là tại thời điểm cụ thể nào. Ví dụ: Ơng A có quốc tịch Việt Nam nhưng
chết ở nước ngồi và khơng để lại di chúc thì việc xác định quyền thừa kế theo pháp luật
đối với di sản của ông A được áp dụng theo pháp luật Việt Nam.
Trường hợp di sản thừa kế là bất động sản, BLDS 2015 quy định việc thừa kế được
thực hiện căn cứ theo pháp luật nơi đặt bất động sản là di sản đó 2, tức căn cứ theo đối
tượng của quan hệ thừa kế. Điều này hoàn toàn khác so với di sản là động sản – xác định
theo chủ thể của quan hệ thừa kế.
1.2.3. Pháp luật áp dụng liên quan đến di chúc
Ngoài ra, BLDS cũng đưa ra một số quy định riêng về xác định pháp luật áp dụng
đối với một số vấn đề liên quan đến thừa kế theo di chúc, tức là “loại hình thừa kế mà
việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người con sống theo quyết định của người
để lại di sản trước khi chết thể hiện qua di chúc” 3. Với trường hợp này, luật Việt Nam đưa
ra việc xác định pháp luật đối với hai vấn đề quan trọng có liên quan đến hiệu lực của di
chúc đó là “năng lực của người lập di chúc” và “hình thức của di chúc”.
Theo khoản 1 Điều 681 BLDS 2015, “năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc huỷ bỏ di
chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời
1 Chính phủ (2015), Khoản 1 Điều 680 BLDS 2015
2 Chính phủ (2015), Khoản 2 Điều 680 BLDS 2015.
3 “Thừa kế theo di chúc là gì theo quy định pháp luật?” – Trang web: Công ty luật TNHH Lawkey.
Link: />
6
6
điểm lập, thay đổi hoặc huỷ bỏ di chúc”. Ví dụ: Ông A lập di chúc vào năm 2014 khi đó
ơng có quốc tịch Việt Nam, nhưng đến năm 2016 ông thay đổi di chúc và tại thời điểm đó
ông mang quốc tịch Hàn Quốc. Như vậy, việc xác định năng lực lập di chúc được vào
năm 2014 của ông A được thực hiện theo pháp luật Việt Nam và việc xác định năng lực
thay đổi di chúc vào năm 2016 được thực hiện theo pháp luật Hàn Quốc.
Về hình thức di chúc, theo quy định tại khoản 2 Điều 681 BLDS 2015, pháp luật
được áp dụng để điều chỉnh là “nước nơi di chúc được lập”. Ví dụ ơng A mang quốc tịch
Việt Nam nhưng lập di chúc tại Hàn Quốc thì hình thức của di chúc được lập pháp tuân
theo quy định của pháp luật Hàn Quốc. Như vậy về nguyên tắc, hình thức di chúc được
xác định theo pháp luật của nước nơi lập di chúc, và cơng nhận tại quốc gia đó. Tuy nhiên
cũng tại khoản này, BLDS 2015 cho phép trường hợp ngoại lệ về việc hình thức di chúc
được cơng nhận tại Việt Nam khi phù hợp với pháp luật của một trong các nước: (i) Nước
nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc
chết; (ii) Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời
điểm người lập di chúc chết; (iii) Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động
sản.
II. SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP
VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA VỀ THỪA KẾ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
Hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam và Liên Bang Nga từ năm
1998 tuy nhiên đến năm 2012 mới bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam. Hiệp định này đã
dành hẳn Chương 4 để quy định các vấn đề về thừa kế. Nhìn một cách tổng quan có thể
thấy trong Hiệp định này, vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngồi đã được cụ thể hố thành
một hệ thống các quy phạm khá đầy đủ, điều chỉnh kịp thời các quan hệ thừa kế phát sinh
giữa các bên hữu quan. Mặc dù có phần tương quan với quy định của pháp luật Việt Nam
tuy nhiên quy định tại Hiệp định này vẫn có một số thay đổi, bổ sung nhất định. Cụ thể
được phân tích dưới đây:
2.1. Về phạm vi áp dụng
Mặc Hiệp định tương trợ tư pháp là điều ước quốc tế được ký kết giữa Việt Nam và
Liên bang Nga. Mặc dù nội dung của Hiệp định không đưa ra một quy định cụ thể về
phạm vi áp dụng, tuy nhiên căn cứ theo bản chất của Điều ước quốc tế có thể hiểu rằng
nội dung về quan hệ thừa kế tại Hiệp định được áp dụng đối với mối quan hệ phát sinh có
liên quan đến hai nước Việt Nam và Liên bang nga. Như vậy, phạm vi tại Hiệp định tương
trợ tư pháp đã thu hẹp lại, rõ ràng và chi tiết hơn thay vì phạm vi “quan hệ có yếu tố nước
7
7
ngồi” nói chung, tức nước ngồi trong trường hợp này khơng được cụ thể hố thành đất
nước nhất định nào, theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.2. Về nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng
2.2.1. Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi
Hiệp định tương trợ tư pháp khơng đưa ra những quy định về nguyên tắc trong việc
xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi như pháp luật
Việt Nam. Theo đó việc xác định này chỉ được quy định chi tiết tại từng nội dung nhất
định tương ứng với mỗi điều khoản của Hiệp định.
2.2.2. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài
Hiệp định tương trợ tư pháp quy định về việc xác định pháp luật áp dụng căn cứ
theo loại hình di sản thừa kế là “động sản” hay “bất động sản”, điều này tương đồng với
pháp luật Việt Nam.
Đối với bất động sản, Hiệp định tương trợ tư pháp cũng ghi nhận “pháp luật của
Bên ký kết nơi có bất động sản đó” (Khoản 2 Điều 39) là hệ thống pháp luật điều chỉnh
quan hệ pháp luật về thừa kế. Quy định này hoàn toàn giống với nội dung tại BLDS 2015.
Tuy nhiên, đối với động sản, Hiệp định tương trợ tư pháp lại xác định việc điều
chỉnh quan hệ pháp luật về thừa kế là thuộc về pháp luật của Bên ký kết mà người để lại
thừa kế “là cơng dân vào thời điểm chết”, thay vì “ngay trước thời điểm chết” như quy
định tại pháp luật Việt Nam. Xét trên quan điểm xây dựng luật, do luật quốc gia là việc
nội luật hoá các điều ước quốc tế để đảm bảo việc áp dụng một cách thống nhất trong
nước thì có thể hiểu ý đồ của nhà làm luật đối với nội dung này là như nhau, tuy nhiên với
cách thức thể hiện khác nhau lại dẫn tới nội dung bị hiểu khác đi. Như vậy, khi áp dụng
trên thực tế rất có thể xảy ra mâu thuẫn giữa hai nội dung này. Để hiểu rõ hơn có thể đưa
ra ví dụ sau: Ơng A là cơng dân Việt Nam. Ông chết vào 00h01 ngày 31/8/2021, cũng
đồng thời trong ngày 31/8/2021 ông nhận được văn bản chấp thuận cho ông nhập quốc
tịch nước Nga và thôi quốc tịch Việt Nam. Như vậy, nếu căn cứ theo Hiệp định tương trợ
tư pháp, quan hệ thừa kế động sản của ông A do pháp luật nước Nga điều chỉnh, tuy nhiên
theo pháp luật Việt Nam lại do Việt Nam điều chỉnh. Rõ ràng, với tính chất mâu thuẫn này
sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền và cá nhân liên quan khi thực
hiện xác định pháp luật áp dụng.
Ngoài ra, bên cạnh nội dung quy định về bất động sản và động sản nêu trên, Hiệp
định tương trợ tư pháp cũng bổ sung quy định so với pháp luật Việt Nam liên quan đến
cách xác định pháp luật áp dụng đối với việc phân biệt di sản là bất động sản hay động
8
8
sản là “theo pháp luật của Bên ký kết nơi có di sản đó” (khoản 3 Điều 39). Có thể thấy,
xét về thực tế áp dụng, đây là một quy định cần thiết bởi lẽ việc phân loại tài sản là “bất
động sản” hay “động sản” tại hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia có thể khác nhau, nếu
khơng có sự thống nhất về quan điểm áp dụng có thể dẫn tới khó khăn trong việc thực
hiện.
2.2.2. Pháp luật áp dụng liên quan đến di chúc
Về cơ bản, quy định về xác định pháp luật áp dụng liên quan đến di chúc tại Hiệp
định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam có sự tương đồng nhất định, cụ thể: (i) Đối
với năng lực lập hoặc huỷ bỏ di chúc đều được xác định theo Luật quốc tịch của người để
lại thừa kế tại thời điểm lập hoặc huỷ bỏ di chúc; (ii) Đối với hình thức lập di chúc được
xác định theo pháp luật của nước là nơi lập hoặc huỷ bỏ di chúc.
Tuy nhiên, đi sâu vào từng quy định, có thể thấy Hiệp định tương trợ tư pháp quy
định rõ ràng và chi tiết hơn tại một số điểm so với pháp luật Việt Nam:
Đối với năng lực của người lập di chúc, Hiệp định tương trợ tư pháp bổ sung thêm
xác định pháp luật đối với nội dung về “hậu quả pháp lý của những nhược điểm về thể
hiện ý chí của người lập di chúc”, tuy nhiên lại bỏ đi trường hợp “thay đổi di chúc” được
quy định tại pháp luật Việt Nam.
Đối với hình thức di chúc, thay vì chỉ quy định về “hình thức lập di chúc”, Hiệp
định tương trợ tư pháp có bổ sung thêm việc xác định pháp luật áp dụng đối với “hình
thức huỷ bỏ di chúc”. Bên cạnh đó, Hiệp định cũng bổ sung thêm quy định về việc xác
định pháp luật áp dụng đối với hình thức lập hoặc huỷ di chúc có thể theo “pháp luật của
Bên ký kết mà người để lại thừa kế là công dân vào thời điểm lập hoặc huỷ bỏ di chú c”,
quy định này hoàn toàn mới và rộng hơn so với quy định của pháp luật Việt Nam.
2.2.3. Một số quy định khác
Ngoài hai nội dung đề cập ở trên, Hiệp định tương trợ tư pháp còn quy định về việc
xác định pháp luật trong quan hệ thừa kế đối với một số vấn đề khác có liên quan như:
Nguyên tắc lựa chọn pháp luật áp dụng, Chuyển giao di sản cho Nhà nước, Thẩm quyền
giải quyết các vấn đề về thừa kế, Mở (công bố) di chúc. Những quy định này hồ tồn
khơng được nhắc đến tại pháp luật Việt Nam.
9
9
III. ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT
3.1. Ưu điểm và hạn chế của pháp luật Việt Nam so với Hiệp định tương trợ tư
pháp Việt Nam - Liên Bang Nga
Qua những phân tích, so sánh về sự giống và khác nhau giữa hai nguồn là Hiệp định
tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam về thừa kế có yếu tố nước ngồi tại mục II nêu
trên có thể thấy một số ưu và nhược điểm của pháp luật Việt Nam so với Hiệp định tương
trợ tư pháp như sau:
3.1.1. Ưu điểm
Một là, pháp luật Việt Nam có quy định chung đối với nguyên tắc xác định pháp luật
áp dụng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói chung và quan hệ thừa kế có yếu
tố nước ngồi nói riêng. Theo đó với nguyên tắc này có thể thấy được thứ tự căn cứ được
ưu tiên áp dụng; đồng thời theo pháp luật Việt Nam “quyền lựa chọn pháp luật của các
bên” cũng có thể được cân nhắc áp dụng khi các điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc gia
không quy định. Điều này vừa phù hợp với quan điểm tôn trọng sự thoả thuận của các bên
đối với hệ thống dân luật vừa tạo thêm được phương án xác định pháp luật trong trương
hợp khơng có quy định tại Điều ước quốc tế hay pháp luật quốc gia.
Hai là, trong việc quy định pháp luật áp dụng đối với năng lực của chủ thể, BLDS
2015 cũng bổ sungt hêm trường hợp xác định năng lực thay đổi di chúc thay vì chỉ lập và
huỷ bỏ như Hiệp định tương trợ tư pháp. Điều này là cần thiết, bởi trên thực tế, việc sửa
đổi di chúc là điều hoàn toàn thường xuyên diễn ra.
3.1.2. Nhược điểm
Một là, tại các quy định về pháp luật áp dụng đối với việc thừa kế hay di chúc thì
pháp luật Việt Nam vẫn chưa thực sự chi tiết hay mở rộng phạm vi như: về việc phân biệt
di sản là bất động sản hay động sản, về hậy quả pháp lý của những nhược điểm về thể
hiện ý chí của người lập di chúc hay về hình thức huỷ bỏ di chúc (Như phân tích tại phần
so sánh nêu trên).
Hai là, đối với quy định về xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ pháp luật
thừa kế động sản, BLDS 2015 quy định theo luật quốc tịch của người để lại thừa kế tại
thời điểm trước khi chết. Tuy nhiên, thời điểm ngay trước khi chết trên thực tế rất khó để
xác định chính xác là thời điểm nào, khác với “thời điểm chết” như tại Hiệp định tương
trợ tư pháp. Đồng thời với sự khác biệt như vậy giữa hai nguồn luật cịn có thể gây khó
khăn cho các chủ thể trong quá trình áp dụng.
10
10
3.2. Bài học kinh nghiệm
Thực tế khi xem xét và đánh giá giữa Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt
Nam có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam đã và đang đi theo hướng cho phép sự lựa chọn
của các bên chủ thể nhiều hơn trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói chung và
quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi nói riêng. Điều này là cần thiết và phù hợp với xu
hướng tồn cầu hố hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng khi ký kết các Điều ước
quốc tế hay xây dựng, sửa đổi, bổ sung các nguồn luật trong nước có liên quan, các nhà
làm luật cần quan tâm tới sự thống nhất trong nội dung quy định để tránh tồn tại những
mâu thuẫn, quy định khác nhau gây khó khăn trong q trình áp dụng.
Bên cạnh đó, Việt Nam nên chăng cần xem xét mở rộng hơn việc cung cấp quyền
lựa chọn pháp luật áp dụng cho các bên trong quan hệ thừa kế bằng cách đưa ra nhiều
phương án xác định pháp luật áp dụng tương đương thay vì chỉ đưa ra một sự lựa chọn
duy nhất. Điều này vừa góp phần tăng tính chủ động cho các bên chủ thể trong quan hệ
thừa kế, vừa có thể giúp hạn chế được tình trạng xung đột pháp luật xảy ra.
11
11
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Trên đây là nội dung bài tiểu luận với đề tài: “Pháp luật Việt Nam về thừa kế có
yếu tố nước ngồi, so sánh với Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên Bang
Nga”. Với 3 mục tiêu đề lớn, bài tiểu luận đã đưa ra được những cái nhìn tổng quan về
quy định pháp luật Việt Nam về thừa kế có yếu tố nước ngoài; đồng thời nghiên cứu về
Hiệp định tương trợ tư pháp để so sánh chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa hai
văn bản này; thơng qua đó đưa ra những đánh giá nhận định về ưu, nhược điểm và rút ra
bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung, Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam đều đã có những
quy định cần thiết điều chỉnh việc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngồi. Có thể thấy, hai nguồn pháp luật này đã có những tương đồng nhất
định trong các nội dung chính điều chỉnh về quan hệ pháp luật này, tuy nhiên với thời
điểm ban hành khác nhau mỗi văn bản lại bộc lộ những định hướng xây dựng pháp luật
khác nhau. Nếu như Hiệp định tương trợ tư pháp đi sâu vào những chi tiết, quy định cụ
thể đối với từng tình huống thì pháp luật Việt Nam lại có sự mở rộng, cho phép sự lựa
chọn pháp luật áp dụng của các bên trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi. Nhưng
cũng cần phải nhìn nhận rằng, để đảm bảo tính thống nhất trong q trình áp dụng và nội
luật hoá điều ước quốc tế vào Việt Nam, ngay từ trong quá trình đàm phán ký kết cho đến
quá trình nội luật hố đều cần có sự nhất qn về tinh thần, chủ trương, có thể quy định
rộng hơn hay hẹp hơn nhưng khơng được tạo ra tính xung đột giữa hai văn bản đều có giá
trị điều chỉnh đối với cùng một quan hệ pháp luật để tránh những khó khăn, vướng mắc
khi áp dụng. Đồng thời, pháp luật quy định cần có cái nhìn tổng quan, phù hợp với xu
hướng phát triển của pháp luật quốc tế để phù hợp hơn với điều kiện hội nhập hiện nay.
12
12