Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

QUAN điểm TRIẾT học mác LÊNIN về CON NGƯỜI với VIỆC xây DỰNG và PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.83 KB, 23 trang )

QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VIỆT NAM
1. Những quan điểm cơ bản của triết học Mác Lênin về con người
1.1. Vị trí trí trị của vấn đề đề con người trong triết học Mác Lênin
Trước Mác, khơng ít các nhà khoa học, xã hội học tư sản đã phủ nhận học
thuyết về con người trong chủ nghĩa Mác Lênin. Tựu chung lại, họ cho rằng, chủ
nghĩa Mác-Lênin chỉ nói nhiều về kinh tế và giá trị, chủ trương đấu tranh giai
cấp, bạo lực, chuyên chính... mà bỏ rơi mất con người. Như thế là đã phá vỡ mất
cái truyền thống “nhân đạo” vốn có trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Quan điểm khác, tỏ ra “công bằng” hơn, cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin,
nếu như bàn đến vấn đề con người, đó chỉ là ở giai đoạn đầu, sơ khởi, và thời kỳ
Mác “còn trẻ”, chứ sau này nó là học thuyết “phi nhân” vì nói nhiều đến tính
chất quyết định của những quy luật khách quan.
Thực ra, chưa có chủ nghĩa nào lại quan tâm đầy đủ đến vận mệnh của
con người như chủ nghĩa Mác - Lênin. Lịch sử quá trình hình thành triết học
Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung, đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng:
“Con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục đích cao nhất
của triết học Mác”.
Tư tưởng nhân văn, nhân đạo đó đã trở thành ánh sáng soi đường cho
hành động thực tiễn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên tồn thế
giới trong cơng cuộc đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ xây dựng xã hội mới - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Thật vậy ngay từ khi còn là một học sinh Trung học phổ thơng báo cáo tốt
nghiệp của mình, Mác đã phê phán những tư tưởng ích kỷ, vụ lợi và đi vào phân
tích mục đích, ý nghĩa của việc chọn nghề của thanh niên là phải xuất phát từ
hạnh phúc của nhân dân và việc hồn thiện bản thân mình. Con người chỉ có thể
hồn thiện bằng cách làm việc cho sự hoàn thiện của đồng loại, cho hạnh phúc
của nhân loại. Nghề nghiệp là phương tiện giúp ta tiếp cận với mục đích. Và
1



chính tinh thần nhân văn nhân đạo đó được bồi dưỡng và nâng cao không ngừng
trong suốt cuộc đời của Mác và Ăngghen với tư cách là những nhà khoa học và
nhà cách mạng.
Đồng thời chủ nghĩa nhân đạo đó đã trở thành nhân tố định hướng cho sự
phát triển tư tưởng triết học Mác. Triết học góp phần vào sự nghiệp giải phóng
con người.
Xét về logic nội tại của triết học Mác, những nguyên lý triết học Mác nói
chung, chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng có mối liên hệ hữu cơ với tiền đề xuất
phát của nó là con người. Khắc phục tất cả những thiếu sót của những nhà tư
tưởng đi trước về vấn đề con người, triết học Mác xuất phát từ con người, con
người với tính cách là tiền đề của lịch sử, con người có đời sống hiện thực nhất
định của nó chứ không phải là con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ,
trong tưởng tượng. Tính hiện thực của nó được quy định trước hết bởi sản xuất
vật chất, trong đó phương thức sản xuất vật chất khơng chỉ đơn thuần là sự tái
sản xuất ra tồn tại thể xác của các cá nhân, mà hơn thế theo cách nói của Mác,
nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức
nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phương thức sinh sống nhất
định của họ. Đây là điều khác biệt căn bản nhất của triết học Mác với tất cả các
triết học trước đó. Và cũng chính từ đó, Mác đi vào nghiên cứu sự vận động và
biến đổi của quá trình sản xuất vật chất của xã hội, vạch ra quy luật khách quan
của lịch sử. Sự phát triển lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa của sự phát
triển tồn xã hội, do đó sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất là “tiền đề
thực tiễn” tuyệt đối cần thiết để khắc phục sự tha hóa của con người, phát triển
con người. Và, lịch sử loài người là lịch sử của những phương thức sản xuất vật
chất, thay thế nhau từ thấp đến cao. Từ đó, triết học Mác có được quan niệm
khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp (một thực tế lịch sử mà các nhà tư
tưởng trước Mác đã phát hiện ra) và đi tới lý luận khoa học về nhà nước, về cách
mạng xã hội, v.v…

2



Như vậy, lý luận triết học của Mác nói chung, về chủ nghĩa duy vật lịch
sử nói riêng cần được hiểu như sự phát triển quan điểm nhân văn ở Mác và nhờ
đó mà làm cho chủ nghĩa nhân đạo được phát triển đáp ứng yêu cầu giải phóng
con người trong thời đại mới, đó là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Điều này bác
bỏ sự xuyên tạc triết học Mác, đem đối lập các quan điểm về giai cấp và đấu
tranh giai cấp về cách mạng xã hội và bạo lực cách mạng... Với quan điểm rõ
ràng không hề có sự đối lập giữa “Mác trưởng thành” xa rời tính nhân văn với
Mác nhân đạo thời trẻ - tác giả Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Đương
nhiên, có thể kể ra những sự thay đổi nhất định quan điểm triết học của Mác qua
các tác phẩm của ơng; Song, đó chính là q trình phát triển tư tưởng triết học,
trong đó chủ nghĩa nhân đạo ln thể hiện một cách nhất quán và xuyên suốt;
đồng thời, tính nhân văn của triết học Mác ngày càng trở nên sâu sắc vì đã vượt
qua được những hạn chế do ảnh hưởng từ chủ nghĩa nhân bản của triết học
Phoiơbắc.
Triết học Mác xuất phát từ con người và nhằm mục đích cao nhất là giải
phóng con người, phát triển con người, song triết học Mác lại không thể lấy con
người nói chung làm đối tượng nghiên cứu của mình. Con người là một khách
thể có nội dung hết sức phong phú với sự tồn tại của con người bao hàm nhiều
mặt với vô vàn các quan hệ phức tạp, nên con người được nghiên cứu bởi nhiều
khoa học khác nhau, với đối tượng khác nhau phương pháp tiếp cận khác nhau
như sinh vật học, tâm lý học, y học, dân tộc học, sử học, văn hóa học, v.v... Chỉ
với những vấn đề chung nhất về con người như bản chất của con người, thế giới
quan, tư duy, đạo đức, tín ngưỡng, thẩm mỹ của con người các quan hệ cá nhân
và xã hội, quan hệ giai cấp dân tộc và nhân loại mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu
của các nhà khoa học triết học. Tất nhiên triết học không giới hạn đối tượng
nghiên cứu của mình ở từng mặt của con người hay bản chất con người trong
trạng thái trừu tượng, cơ lập với thế giới bên ngồi. Nó là một thể thống nhất
bao gồm trong đó cả cái tự nhiên lẫn cái xã hội, cái tôi và cái không phải tôi, cái

đơn nhất và cái chung, cái bên trong và cái bên ngoài, ý thức và hành động.
3


Ở đây tính nhân văn của triết học Mác đã được thể hiện rõ ràng trong các
phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhất là trong chủ nghĩa duy vật lịch
sử như lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai
cấp, lý luận về cách mạng xã hội...
Tóm lại, vấn đề con người là điểm xuất phát, trọng tâm và mục đích của
học thuyết Mác - Lênin.
1.2. Bản chất con người
1.2.1. Quan điểm trước Mác và ngoài Mác về bản chất con người
Trong lịch sử tư tưởng có rất nhiều cách tiếp cận vấn đề con người. Phật
giáo xem con người khác con vật ở chỗ có tâm và có thức. Như vậy tâm đó chỉ
là một cái gì huyền bí, khơng sinh ra từ bất cứ một cái gì nhưng lại là nguồn gốc
của mọi cái, nguồn gốc của thế giới và mọi vật và thức đó chỉ là sự giác ngộ về
tâm linh, giác ngộ về sự phát triển huyền bí mà được gọi là con người.
Các nhà tư tưởng duy tâm trong nho giáo đi tìm bản chất con người ở
phương diện đạo đức Mạnh Tử cho bản tính con người là thiện. Tính thiện bắt
nguồn từ tâm, nhờ tâm mà phân biệt được phải trái, thiện, ác. Tâm có “lương
năng” nên khơng học mà vẫn có lương chi, khơng cần suy nghĩ mà vẫn biết.
Mặc Tử cho con người khác với con vật do con người biết lao động (ông gọi là
lực). Tuân Tử cho con người khác con vật ở chỗ có nghĩa, con người hơn con vật
ở chỗ biết hợp quần. Luận điểm của Mặc Tử, Tuân Tử khác về bản chất so với
luận điểm của các nhà duy tâm, có yếu tố hợp lí. Trong điều kiện lịch sử xã hội
phương Đơng lúc đó, những quan điểm này được xem như là một cống hiến cho
sự nhận thức về con người và bản chất con người.
Ở phương Tây, một số trào lưu triết học lại giải thích bản chất con người
từ góc độ những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản
tính tự nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát

triển nịi giống; hoặc tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân
4


riêng lẻ, nghĩa là con người bị tách ra khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó.
Tính chất siêu hình của các quan điểm này về bản chất con người biểu hiện ở
chỗ coi bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về bản chất tự nhiên, tách
khỏi xã hội và trở nên bất biến.
Phoiơbắc đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, ông đã đạt tới chủ
nghĩa duy vật, khi khẳng định vật chất khơng phải là sản phẩm của tinh thần mà
chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Song, ơng khơng giữ được quan
điểm duy vật của mình, khơng đi vào phân tích những vấn đề về bản chất con
người. Con người trong triết học của ông là con người tự nhiên thuần túy chứ
không phải con người lịch sử xã hội. Ông chỉ coi con người là “đối tượng cảm
tính” mà khơng phải là “hoạt động cảm tính”, tức là những thực thể đang hoạt
động. Ơng khơng biết những quan hệ giữa người với người nào khác, ngồi tình
u, tình bạn hơn nữa, lại là tình u tình bạn lý tưởng hóa. Đó là con người trừu
tượng nói chung, có tính lồi, đứng trên mọi giai cấp, mọi thời đại với bản chất
bất biến của nó.
1.2.2. Quan điểm Mácxít về bản chất con người
Con người là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội là một thực
thể sinh vật - xã hội.
C.Mác trước khi bắt tay xây dựng học thuyết của mình, cũng đã từng viết
một luận án tiến sĩ về con người. Sau này, trong hàng loạt cơng trình lý luận, đối
tượng nghiên cứu của Mác mở rộng ra nhiều lĩnh vực, đặc biệt về kinh tế, chính
trị và xã hội. Tuy vậy, con người vẫn là trung tâm, là mục tiêu của tất cả các
cơng trình nghiên cứu của Mác. Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp
biện chứng. C.Mác và Ph.ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận
thức bản chất con người. Các ông xuất phát từ con người hiện thực, con người
thực tiễn và thông qua hoạt động vật chất cải tạo hiện thực của con người để

xem xét bản chất con người. Đó là một động vật có tính xã hội với tất cả những
nội dung văn hóa - lịch sử của nó. Con người sống dựa vào tự nhiên như hết
5


thẩy mọi sinh vật khác. Yếu tố sinh vật trong con người là điều kiện đầu tiên quy
định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: giới tự nhiên là “thân thể vô cơ
của con người”, con người là một bộ phận của tự nhiên, là kết quả của q trình
phát triển và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Điều đó có nghĩa là ,
con người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khơng chỉ sống dựa vào
tự nhiên, Ph.ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn
thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá
trình con người trở thành con người.
Khác với tự nhiên, xã hội khơng thể có trước con người mà đã ra đời cùng
với con người, xã hội cũng không phải là cái gì trừu tượng, bất biến mà mỗi hình
thái kinh tế - xã hội, chỉ thích hợp với một phương thức sản xuất nhất định.
Nhân tố quyết định phương thức sản xuất phát triển lại là lực lượng sản xuất,
bao gồm con người và công cụ lao động. Như thế, khơng phải cái già khác mà
chính là con người, cùng với những công cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự
sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con người với tính cách là
con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người ln ln bị quyết định bởi hệ thống quy luật khác nhau, nhưng
thống nhất nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên, quy luật về sự phù hợp cơ thể
với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, di truyền quy định phương diện
sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý, ý thức hình thành và vận
động trên nền tảng sinh vật của con người như hình thành tình cảm, khát vọng,

nghị lực ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người
với người.

6


Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh vật và mặt xã hội. Mối quan hệ
sinh vật và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh vật và nhu
cầu xã hội trong đời sống con người, như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản
xuất xã hội, nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh
thần.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những
cá thể cô lập, Mác đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (1).
Luận điểm thể hiện những điểm cơ bản sau:
- Luận đề trên khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. trong
điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. chỉ
trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người
mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
- Khi nói bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người,
nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác
đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trị chi phối, và

chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con
người trong giai đoạn lịch sử đó.

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11

7


Các quan hệ xã hội không chỉ xét ở quan hệ trong từng hình thái xã hội
riêng biệt mà cịn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế
độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại)
vừa theo chiều dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao
gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử
của mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con
người vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống “đè nặng lên những con
người đang sống”. Do đó, khi xem xét bản chất con người không nên tách rời
hiện tại và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong
chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con
người có khác biệt. Bản chất một con người cụ thể là tổng hòa các quan hệ xã
hội “vốn có” của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi
hành vi của con người đó. Cịn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra bên
ngồi là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của
con người không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp,
quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và
nhận thức xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước
mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự
nhiên và văn hóa xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thuẫn đó, bản chất thể hiện
ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng

đó.
- Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực
tiễn và hoạt động xã hội, con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng
làm biến đổi chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là thơng qua hoạt
động thực tiễn con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình.

8


Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là tự nhiên mà là lịch sử, khơng phải là cái vốn có trong mỗi cá thể
riêng lẻ mà là tổng hịa của tồn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to
lớn của Mác về bản chất con người.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản
chất con người, song khơng có nghĩa là chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự
nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì
theo Mác, “giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con
người phải ở lại trong q trình thường xun giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời
sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế
chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì
con người là một bộ phận của giới tự nhiên”(1).
Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự phát
triển của con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học gay
gắt. Nhiều nhà khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh vật khỏi mặt xã
hội. Chẳng hạn, duy sinh vật tuyệt đối hóa yếu tố sinh vật trong sự phát triển của
con người. Họ tuyên truyền thuyết Đacuyn xã hội. Đại biểu trường phái này là
Ph.Nitsơ, Trenherơlen, Klovenơ…
Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của
con người theo quan điểm di truyền học…(2)
Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người chỉ

là mặt khác nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm
sinh (3).

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.42, tr.135
2 Xem: Chủ biên Đitơbécnơ: Con người những ý kiến mới về một đề tài cũ, Nxb Sự thật, Hà Nội,1986, t.1,
tr.222-223
3 Xem: Snơrơcơva: Bản tính tự nhiên và bản chất xã hội của con người, Triết học, 1981, số 1, tr. 158

9


Ngược lại, quan điểm xã hội học tầm thường về con người thường quy kết
bản chất con người là một sản phẩm văn hóa của xã hội, của kinh tế và tước bỏ
những thứ hữu cơ, tính tự nhiên của con người.
Trường phái “Triết học nhân bản hiện đại” quan niệm về bản chất con
người phải được xuất phát từ nguyên tắc tinh thần”(1)
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với
tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên,
mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối
lập với giới tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong
con người tạo thành bản chất người.
1.3. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
1.3.1 Khái niệm cá nhân, nhân cách
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một
chỉnh thể gồm một hệ thống những nhân tố, bao hàm cả những đặc điểm cụ thể
không lặp lại, khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân
biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống lồi “người”. Khơng có con
người nói chung, lồi người nói chung tồn tại cảm tính.

- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội,
là một chỉnh thể tồn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng
xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử nên cá nhân là một hiện tượng có tính lịch
sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính định hướng

1 Xem: Chủ biên Đitơbécnơ: Con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ, Nxb Sự thật, Hà Nội,1986, t.1,
tr.226-228.

10


về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ
lịch sử cụ thể đó.
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt vừa
mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của quan hệ xã hội và của nhận
thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử xã hội.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác nhau biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng
biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác. Nhân
cách là nội dung trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá
nhân. Đó là thế giới của “cái tôi” do tác động tổng hợp của các yếu tố (cơ thể và
xã hội riêng biệt tạo nên), sinh học, tâm lý học, xã hội tạo nên đặc trưng riêng
của cá nhân, đóng vai trị chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều
chỉnh mọi hoạt động của mình.
Nhân cách khơng phải là cái bẩm sinh, sẵn có mà được hình thành và phát
triển phụ thuộc vào ba yếu tố sau đây:
Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền

học, một cá thể sống phát triển cao nhất của giới hữu sinh.
Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát
triển của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường
và xã hội đối với mỗi cá nhân.
Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan của cá nhân bao gồm toàn
bộ các yếu tố như quan điểm, lý luận, niềm tin, định hướng giá trị… Yếu tố
quyết định để hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất của thời đại, lợi ích,
vai trị địa vị cá nhân trong xã hội; khả năng thẩm định giá trị đạo đức - nhân
văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Dựa trên nền tảng của thế giới quan cá
11


nhân để hình thành các thuộc tính bên trong về năng lực, về phẩm chất xã hội
như năng lực trí tuệ, chun mơn, phẩm chất chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm
mỹ.
1.3.2 Biện chứng giữa cá nhân và xã hội
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của xã hội là cộng đồng tập
thể gia đình, cơ quan, đơn vị… và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân
tộc… và rộng lớn nhất là cộng đồng nhân loại.
Là một hiện tượng lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội ln ln vận động,
biến đổi và phát triển, trong đó sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế
hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác. Trong giai đoạn
cộng sản ngun thủy, khơng có sự đối kháng giữa cá nhân và xã hội. Khi xã hội
phân chia giai cấp, quan hệ cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu
thuẫn và mâu thuẫn đối kháng. Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của xã
hội mới tạo tiền đề cho cá nhân, để mỗi cá nhân phát huy năng lực và bản sắc
riêng của mình phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội mới. Vì vậy, xã hội xã
hội chủ nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và điều kiện của
nhau.

Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động
lẫn nhau, trong đó xã hội giữ vai trị quyết định. Nền tảng của quan hệ này là
quan hệ lợi ích. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các
quan hệ lợi ích sao cho phát huy được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào
các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao
hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được
thực hiện.
Cá nhân khơng chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát
triển xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ
thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với tư cách là một bộ
12


phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng
đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá nhân chỉ
được hình thành và phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và
xã hội mang hình thức đặc thù tùy thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn
minh khác nhau.
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do ngày
càng cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này được thực
hiện bằng cách tước đoạt tự do của người khác. Tự do cá nhân của giai cấp
thống trị được bảo đảm bằng cách tước đoạt tự do của các giai cấp bị trị. Cho
nên quá trình đấu tranh của giai cấp và quần chúng lao động là quá trình giành
tự do của họ đã bị giai cấp thống trị cướp đoạt. Tự do của con người không tách
rời những điều kiện của xã hội, không tách rời trình độ của con người chinh
phục thiên nhiên. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản con người
mới thực sự có tự do. Ở đây, tất cả những vấn đề về lực lượng sản xuất, quan hệ
kinh tế, hệ thống chính trị, đấu tranh giai cấp… đều được thực hiện theo mục
đích phát triển tối đa năng lực con người và vì con người. Trước đây C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm phát triển

những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc và “sản xuất
vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”. Chủ nghĩa
tư bản hiện đại đang đẩy mạnh quá trình này, nhưng về thực chất đó vẫn là sự
mở rộng quan hệ bóc lột và nô dịch con người sang các dân tộc khác. Nó tạo ra
một số nước tư bản phát triển cao, giàu có thì đồng thời cũng làm cho Châu Phi
đói, Châu Á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất. Chủ nghĩa xã hội thực
hiện q trình quốc tế hóa đời sống nhân loại để mỗi dân tộc có điều kiện tiếp
cận nhanh chóng những giá trị tiến bộ của nhân loại, làm cho con người phát
triển nhân cách phong phú, biết đấu tranh chống những quan hệ khơng có tính
người trong cuộc sống nhân loại. Đó là đặc trưng của chủ nghĩa nhân đạo xã hội
chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

13


2. Vấn đề xây dựng con người mới và phát huy nhân tố con người ở Việt
Nam hiện nay
2.1 Vấn đề xây dựng con người mới
Lịch sử nhân loại, xét đến cùng, là lịch sử giải quyết vấn đề con người,
từng bước thoát khỏi thần quyền và bạo quyền để đi đến mục tiêu cuối cùng là
phát triển toàn diện cá nhân trong xã hội văn minh. Không một dân tộc nào tồn
tại và phát triển lại không chú ý tới vấn đề con người, có điều là khác nhau ở
mục đích và phương pháp giải quyết mà thơi. Ngày nay, ở nước ta, cùng với q
trình đổi mới tồn diện đất nước và bước vào giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa việc xây dựng con người Việt Nam hiện đại là yêu cầu cấp
bách. Khẳng định điều đó là do:
Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình đổi
mới. Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Đảng ta chỉ rõ: Xã hội
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà trong đó, con người được giải phóng,
nhân dân lao động làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và có nền văn

hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Một xã hội “ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, xã hội công bằng, văn minh”. Mục tiêu trên
cho thấy, sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội phải hướng tới con
người, vì tự do và hạnh phúc của con người. Phát triển con người là đặc trưng
bản chất của công cuộc đổi mới, là mục tiêu, động lực cơ bản của quá trình này.
Hiểu động lực ở đây khơng có nghĩa là sử dụng con người như một phương tiện
để có xã hội mới, mà là quá trình hình thành con người Việt Nam mới, cũng
chính là q trình xây dựng xã hội mới. Quá trình xây dựng con người Việt Nam
hiện đại cũng là quá trình tạo ra động lực cho xã hội phát triển.
Ở đây, xây dựng con người Việt Nam hiện đại từ con người cũ, những con
người mang theo những “vết tích của xã hội cũ đã đẻ ra nó” về mọi phương
diện: Kinh tế, đạo đức, trí tuệ. Nói chủ động, tích cực, tức là nói tới việc tổ chức
14


và lãnh đạo quá trình hình thành và phát triển con người Việt Nam hiện đại một
cách tự giác, gắn liền với quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vì con người
hiện đại khơng thể hình thành bên ngồi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tách rời
khỏi thực tiễn đấu tranh cách mạng. Và, sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội
cũng là một động lực thường xuyên, quan trọng và khơng thể thiếu được của q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong q trình đó, tính chủ động sáng tạo
và tự giác của toàn dân từng bước được phát huy mạnh mẽ. Mặt khác, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại,
trong đó con người là lực lượng sản xuất hàng đầu. Cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay khác thời kỳ trước là ngoài việc phát triển có kế hoạch
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn lấy nhân tố thị trường để điều tiết nền
kinh tế. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, yếu tố quyết định
khả năng cạnh tranh là chính con người, con người là chủ thể tạo ra động lực

phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, chính con người cùng với những
cơng cụ do nó chế tạo ra, đã quyết định thay đổi của bộ mặt xã hội, quyết định
thành cơng của q trình đổi mới.
Thứ hai, con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của q trình đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Con người khơng thể chọn cho mình một xã hội để sinh ra, cũng như con
cái khơng có quyền chọn cha mẹ vậy. Song xã hội phải đào luyện những con
người phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của nó. Đành rằng con người là
sản phẩm của hồn cảnh, nhưng hồn cảnh lại do chính con người tái tạo ra. Sự
phù hợp giữa con người và hồn cảnh chỉ được hiểu thơng qua hoạt động thực
tiễn mà thôi. Quyết định luận lịch sử không phủ nhận hay hạ thấp vai trò sáng
tạo tự do của con người, có điều là tự do và sáng tạo là hiểu biết và hành động
theo cái tất yếu vật chất bên ngồi mà thơi.
Ngày nay, trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, con
người khơng chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu,
15


đóng vai trị quyết định trong lực lượng sản xuất xã hội, mà hơn nữa, nó cịn
đóng vai trị là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử của mình. Trong q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ
thể sáng tạo nội dung các quan hệ xã hội, vừa bị quy định, vừa “tự do”, và theo
một ý nghĩa nào đó, vừa là điểm kết thúc, vừa là điểm xuất phát.
Do vậy, đổi mới ngày nay không phải là chỉ làm ra và đem lại cho con
người những điều con người mong muốn mà chủ yếu là khơi dậy trong con
người lịng tự hào, niềm tin, ý chí và nhiệt tình cách mạng để con người tự mình
làm ra tất cả. Vì thế, việc tạo ra mơi trường thuận lợi để xây dựng con người
Việt Nam hiện đại có phẩm chất, năng lực nhất định phải được coi là u cầu
cấp bách trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, phát huy nguồn lực con người là vấn đề chiến lược trong q

trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chúng ta chỉ có một lối ra - lối ra duy nhất trong thời đại cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại là phát huy nguồn lực con người “Sự đi lên của chúng
ta phải dựa vào thế mạnh duy nhất của mình đó là con người Việt Nam, trí tuệ
Việt Nam, tiềm năng chất xám Việt Nam. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai ban
chấp hành Trung ương khóa XIII: “muốn tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa thắng lợi phải phát triển ngành giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” khái niệm nguồn lực
ở đây được hiểu là toàn bộ những yếu tố và quá trình đã, đang và sẽ có khả năng
tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp, thúc đẩy
quá trình cải tiến xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Nó khơng chỉ bao qt một
phạm vi rộng lớn, hàm chứa những yếu tố đã và đang tạo nên sức mạnh trong
thực tế, mà còn cả yếu tố mới dạng tiềm năng. Nó khơng chỉ nói lên sức mạnh,
mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh.

16


Như vậy, khái niệm nguồn lực con người được hiểu là tổng hịa các tiêu
chí của con người và tổ chức xã hội có thể khai thác và thu hút vào quá trình
phát triển xã hội.
Phát huy nguồn lực con người thể hiện ở ba mặt: Phát triển nguồn nhân
lực, sử dụng nguồn nhân lực và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn nhân lực.
Kết quả của gần 30 năm tiến hành đổi mới đã chứng minh đường lối đúng
đắn của Đảng ta là tất cả xuất phát từ con người, do con người, và vì con người.
Chính vì vậy, việc phát huy nguồn lực con người cần phải được coi là vấn đề
chiến lược của công cuộc đổi mới, là vấn đề sống còn của đất nước, là yêu cầu
cấp bách của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
2.2. Nhân tố con người và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
nhân tố con người.

2.2.1. Khái niệm nhân tố con người
Trong thời gian gần đây, xuất hiện nhiều khái niệm: phát triển người, nhân
tố con người, nguồn nhân lực, nguồn lực con người, chiến lược con người…
Phát triển nguồn lực con người, hoặc phát triển nguồn nhân lực, cùng với phát
triển người là những khái niệm hình thành và phát triển thế giới, chủ yếu trong
thập niên 70 của thế kỷ trước, dựa trên quan niệm mới về phát triển và vị trí con
người trong sự phát triển.
Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh
thần, giá trị đạo đức, giá trị thể chất, vật chất. Con người ở đây được xem xét
như một tài nguyên, một nguồn lực. Vì thế, phát triển người hoặc phát triển
nguồn lực con người trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hết sức cần thiết trong
hệ thống phát triển các loại nguồn lực như vật lực, tài lực, nhân lực, trong đó
phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò trung tâm.
Việc nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển
sáng tạo quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý
17


thức, là chủ thể của lịch sử. Đối với khái niệm nhân tố con người, ngày nay đã
được nhiều tác giả trong và ngồi nước đề cập với những góc độ khác nhau,
cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả đề cập dưới góc độ quản lý, có tác giả đề cập
dưới góc độ phân tích tâm lý - xã hội. trong tài liệu triết học - xã hội về nhân tố
con người cũng nổi lên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu trung lại, có hai cách
tiếp cận chính:
Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con người
riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng
như tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định.
Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hịa các phẩm chất thuộc
tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các dạng thức
hoạt động khác nhau.

Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người về
bản chất là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng sự
khác nhau là, quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn phẩm
chất, năng lực được thể hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy đặc trưng
cơ bản là những phẩm chất năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện nó.
Từ đây có thể đưa ra một quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con
người là: nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai
trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống
nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của
con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố “người”
với các yếu tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội… trong đời sống xã hội, mà quan
trọng hơn là để khẳng định vai trò của nhân tố “người” đối với các yếu tố đó.
Tức là khơng có khái niệm nhân tố con người tách khỏi hoạt động, dù đó là hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
18


2.2.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người
Phát huy nhân tố con người thực chất là chăm lo tạo ra những điều kiện
cần thiết để mỗi người, mỗi cộng đồng người thể hiện tối đa năng lực của mình
trong lao động, trong hoạt động sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội vì hạnh phúc của con người. Đây cũng chính là quá trình làm trong mỗi
con người trở thành chủ thể có ý thức trong sáng tạo lịch sử. Và không phải đến
chủ nghĩa xã hội mới bàn đến chiến lược con người, khai thác yếu tố người, vì
trong lịch sử, không chế độ nào tồn tại không nhắc đến yếu tố người, nhưng có
điều là, khai thác, phát huy theo lợi ích giai cấp nào và bằng phương thức nào.
Thực chất chiến lược con người là tạo ra môi trường xã hội kích thích con người
hoạt động sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu tối đa của con người trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Đó là mơi trường kinh tế xã hội, mơi trường chính trị xã hội,
mơi trường văn hóa xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, con người vừa là
sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá
trình xây dựng xã hội mới. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo lối “vượt
trước, đi tắt, đón đầu” nhất thiết gắn liền với phát triển con người, và coi con
người là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định
lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản
sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu
phát triển của nền văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà
19


nước. Thực tiễn đã chứng minh, những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà
nước ta trong gần 30 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên động lực kinh tế giải
phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xây dựng con người Việt Nam mới.
Hai là, nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực. Phát triển
kinh tế gắn liền với tự do chính trị và tự do cơng dân. Do đó, sự phát triển nguồn
lực con người và giáo dục được coi là yếu tố quan trọng to lớn đối với tiến bộ
kinh tế và tiến bộ xã hội. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự
phát triển. Vì thế, ngày nay, cùng với việc đổi mới công nghệ, phải chú ý đổi
mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương châm: “Giáo
dục cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có”. Mặt khác, giáo
dục tồn diện: Giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề nghiệp, giáo dục đạo

đức, phải sử dụng nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa dạng phong phú, tạo điều
kiện cho con người tự giác, tự giáo dục, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho giáo dục
được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư cho tương
lai. Khơng phải ngẫu nhiên mà ở nước ngồi, trong kế hoạch phát triển đất nước,
nhiều quốc gia đều đặt giáo dục vào hệ thống ba chiến lược: giáo dục - khoa học
và mở cửa.
Đại hội XI của Đảng, trong ba đột phá chiến lược, Đảng ta nhấn mạnh:
phải phát triển nhanh nguồn lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ
phát triển nguồn nhân lực với phát triển ứng dụng khoa học công nghệ. Những
quan điểm trên là cơ sở định hướng cho q trình chúng ta có những giải pháp
đúng đắn nhằm đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
cao, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học công nghệ.
Có thể nói, sự lạc hậu về giáo dục - đào tạo sẽ phải trả giá đắt trong cuộc
đua của những thập niên đầu thế kỉ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và
phát triển giáo dục đào tạo trong cách mạng khoa học và công nghệ.
20


Ba là, ổn định chính trị và mở rộng phát huy dân chủ. Bất kỳ một quốc gia
dân tộc nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định hệ chính trị - xã
hội. Bởi vì, đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội, ổn định chính trị, trước
hết thể hiện sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị
hồn chỉnh.Ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng
được đặt ra giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay
từ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính trị, nhằm
cho hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là q trình củng cố và phát triển hệ thống
chính trị từ nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm
thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân

dân.
Bốn là, mở rộng giao lưu, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Để tạo điều kiện cho con người Việt Nam sáng tạo tránh được những sai lầm
quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến kịp trên con đường tiến hóa của nhân loại,
địi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm thế
giới. Khơng chỉ tìm phương thức, hình thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nội bộ
nước mình, dân tộc mình, các nước xã hội chủ nghĩa mà cịn tìm ngay trong các
nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu có phê phán, chọn lọc những giá trị phong phú
của loài người sẽ tạo thành một động lực mạnh mẽ để hình thành từng bước một
chủ thể mới của lịch sử - con người Việt Nam mới, vừa mang bản chất giai cấp
công nhân, vừa đại biểu cho sự phát triển của dân tộc. Và chắc chắn rằng “Thế
kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai
cùng các nước phát triển trên thế giới”(1).
Năm là, Đẩy mạnh việc đấu tranh tham nhũng, làm trong sạch bộ máy
Đảng và Nhà nước.

1 Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.68.

21


Việc con người có thể phát huy mạnh mẽ năng lực hành động tự do sáng
tạo đến đâu phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội. Nhưng trong hiện thực cụ
thể, điều ấy phụ thuộc trực tiếp trước tiên vào tổ chức hoạt động của bộ máy
chính trị. Vì thế việc xây dựng bộ máy chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ở
đây, đấu tranh chống tham nhũng làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước
đang là yêu cầu cấp bách. Tham nhũng là hiện tượng xã hội có nguồn gốc lịch
sử, nó xuất hiện khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp nhà nước. Tham

nhũng hiện nay có mặt ở mọi chỉnh thể, mọi thể chế chính trị của mọi quốc gia
trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng là một thách thức số một với dân tộc, với
sự phát triển và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài học của những cuộc khủng hoảng xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông
Âu, sự tan rã của Đảng và Nhà nước Liên Xô vừa qua cho thấy, các thế lực thù
địch trong và ngồi nước đã lợi dụng sự tha hóa của cán bộ đảng viên, sự quan
liêu của bộ máy nhà nước để tách dân với Đảng. Đây là một trong những nguyên
nhân chủ yếu, trực tiếp dẫn đến đổ vỡ chủ nghĩa xã hội.
Để từng bước đạt kết quả trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm
trong sạch bộ máy nhà nước, cần giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, phải kiên quyết làm nghiêm từ trong Đảng ra, từ trên xuống và
phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các vụ việc, nhất là các vụ
nghiêm trọng, không phân biệt kẻ vi phạm ở cương vị cấp bậc nào. Đây là khâu
đột phá có thể lâu, cần phải làm và sẽ làm. Nó sẽ tạo ra hiệu quả chính trị xã hội
lớn nhất và nhanh nhất.
Thứ hai, xóa bỏ cách tổ chức bộ máy khiến cho cán bộ, đảng viên trở
thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, tách rời quần chúng. Bởi vì, cách tổ chức bộ
máy cũ mà chủ yếu là cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp tạo điều kiện
cho bất kì ai khi có một vị trí nào đó trong bộ máy nhà nước mà mất cảnh giác
thì có thể đặc quyền đặc lợi. Vì thế, phải làm sao thay đổi tổ chức bộ máy để xóa
bỏ tệ nạn đặc quyền, đặc lợi, từ đó gắn bó mật thiết với quần chúng, phục vụ
22


quần chúng. Tuy nhiên, đây là một công việc phải được tiến hành một cách cơng
phu, kiên trì, liên tục và quyết tâm cao. Bởi vì, xóa bỏ đặc quyền đặc lợi là cuộc
đấu tranh gay go phức tạp giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, cái mới và cái cũ, đạo
đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân. Kinh nghiệm cho thấy, chiến thắng tiêu
cực ở người khác, ngồi xã hội tuy đã khó, nhưng cịn dễ hơn nhiều việc chiến
thắng tiêu cực của chính mình.

Thứ ba, đẩy mạnh việc giáo dục và tự giáo dục đạo đức cách mạng trong
cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo quản lý. Thông qua thực tiễn, cơ
chế dân chủ hóa để sàng lọc, sắp xếp đội ngũ cán bộ là khâu có ý nghĩa quan
trọng nhất định hướng cho việc giáo dục, đào tạo cũng như cho việc tự vươn tới
sự phát triển các phẩm chất nhân cách của cá nhân.
Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng và cơ quan thông tin
trong giám sát và đấu tranh chống tham nhũng. Trong công tác chống tham
nhũng, đòi hỏi đổi mới nâng cao hiệu quả cơng tác thơng tin, nhấn mạnh tính
cơng khai, phát huy vai trò thanh tra nhân dân. Kết hợp sức mạnh tổng hợp các
lực lượng chống tham nhũng, tạo điều kiện cho quần chúng tham gia kiểm kê,
giám sát tư liệu sản xuất, giám sát tổ chức quản lý lao động xã hội, giám sát
phân phối sản phẩm. Không phải là ngoại lệ, tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn
là biểu hiện sự tha hóa của Nhà nước cho dù chỉ là một bộ phận công chức nhà
nước tham nhũng. Nghị quyết Đảng nhấn mạnh: “Hồn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật, nhất là về kinh tế, tài chính, về cơ chế, giải pháp phòng ngừa, cơ chế
giám sát phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân”. Vì vậy, cuộc đấu
tranh chống tham nhũng ở nước ta mang tính chính trị trực tiếp thành cơng trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

23



×