Trường Đại học Luật Hà Nội
MỤC LỤC
1
Trường Đại học Luật Hà Nội
I.
TÓM TẮT VỤ VIỆC.
Ngày 15/9/2008 tại Resort Sài Gòn – Mũi Né, Hiệp hội Bảo hiểm Việt
Nam (HHBHVN) đã chủ trì tổ chức Hội nghị thường niên các Tổng giám
đốc phi nhân thọ lần thứ 6 (CEO PNT 6). Tại CEO PNT 6, 15 doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ (DNBH) đã ký thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực
bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu biển và bảo hiểm xe cơ giới.
Sau đó, có thêm bốn DNBH cũng muốn tham gia ký kết, nâng tổng số
doanh nghiệp tham gia lên 19 doanh nghiệp, bao gồm:
1. Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam (ABIC);
2. Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long);
3. Tổng công ty cổ phần Bảo Minh (Bảo Minh);
4. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm châu Á Ngân hàng Công
thương (Bảo Ngân);
5. Cơng ty cổ phần Bảo hiểm Bảo Tín (Bảo Tín);
6. Tổng cơng ty Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt);
7. Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC);
8. Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC);
9. Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO);
10. Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI);
11. Tổng cơng ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí (PVI);
12. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm SAMSUNG – VINA
(Samsung – Vina);
13. Cơng ty cổ phần Bảo hiểm Tồn cầu (Tồn Cầu);
14. Cơng ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông (VASS);
15. Công ty liên doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA);
16. Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA (AAA);
17. Công ty TNHH Bảo hiểm FUBON Việt Nam (FUBON);
18. Công ty TNHH Tổng hợp Groupama (Groupama);
19. Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng không Việt Nam (VNI).
2
Trường Đại học Luật Hà Nội
Các bản thỏa thuận được 19 DNBH ký kết bao gồm: Bốn bản thỏa
thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh
vực bảo hiểm tàu biển; bảo hiểm xe cơ giới; và Điều khoản biểu phí bảo
hiểm vật chất xe ô – tô. Các bản thỏa thuận được thực hiện từ ngày
01/10/2008.
Thị trường mà 19 DNBH hướng tới trong các bản thỏa thuận chính là
thị trường có phạm vi toàn quốc và ngay ở thời điểm ký kết, thị phần của 19
DNBH này là 99,79%. Các bản thỏa thuận này đều có quy định về chế tài cụ
thể, thể hiện ý chí tự nguyện của các bên tham gia. Theo các “khổ chủ”,
nguyên nhân của việc rủ nhau ký kết các bản thỏa thuận là do các doanh
nghiệp này đang phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh gay gắt, chủ yếu
thơng qua các chính sách hạ phí bảo hiểm, trả phí hoa hồng và tăng chi phí
hỗ trợ đại lý…
Ngày 18/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định
số 93/QĐ – QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh liên quan đến
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Ngày 28/11/2008, Cục trưởng Cục
Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 99/QĐ –QLCT về việc việc điều tra
chính thức vụ việc cạnh tranh đối với 19 DNBH.
Ngày 02 tháng 10 năm 2009, Cục Quản lý cạnh tranh chuyển Hồ sơ
vụ việc KNCT-HCCT-0009 đến Hội đồng Cạnh tranh.
Ngày 15 tháng 01 năm 2010, Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh ra
Quyết định số 02/QĐ-HĐXL về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ngày 29 tháng 4 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có
Kết luận điều tra bổ sung vụ việc KNCT-HCCT-0009 chuyển đến Hội đồng
Cạnh tranh.
Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh đã quyết định mở Phiên điều trần
công khai từ ngày 27 tháng 7 năm 2010 để xử lý vụ việc cạnh tranh.
Tại Phiên điều trần, Hội đồng đã xác định thị phần kết hợp của 19
doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ 99.79%.
II.
1.
1.1
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TẬP TRUNG LÀM SÁNG TỎ.
Xác định thị trường liên quan và thị phần của 19 doanh nghiệp bảo hiểm.
Xác định thị trường liên quan
“Thị trường liên quan có thể hiểu chính là tập hợp tất cả các sản phẩm
hay dịch vụ có thể thay thế cho nhau trong khu vực địa lý nhất định. Khi tiến
hành xác định thị trường liên quan ta cần phải xác định thị trường sản phẩm
liên quan và thị trường địa lý liên quan. Trong thực tiễn áp dụng luật cạnh
3
Trường Đại học Luật Hà Nội
tranh, thị trường sản phẩm liên quan thường được xác định trước khi xác
định thị trường địa lý liên quan.”
*Thị trường sản phẩm liên quan:
Thị trường sản phẩm liên quan là: “những sản phẩm có khả năng
thay thế cho nhau theo quan điểm của người mua rồi sau đó xác đinh
những nhà cung cấp hiện đang cung cấp hoặc có khả năng nhanh chóng
cung cấp các sản phẩm đó. Hai yếu tố trường được xem xét khi xác định
thị trường sản phẩm liên quan là khả năng thay thế về cung.”
Khả năng thay thế về cầu: “để tìm ra các sản phẩm có khả năng
thay thế cho nhau, người ta giả định rằng nếu sản phẩm đang bị điều tra
tăng lên, người tiêu dùng có thể sẽ chuyển sang mua các sản phẩm khác
có khả năng thay thế sản phẩm đó điều này được gọi là khả năng thay thế
về cầu.”
Cụ thể trong vụ việc này: Trên thị trường có nhiều cơng ty cùng
cung cấp một loại hàng hóa đó là bảo hiểm vật chất xe ô tô và các sản
phẩm của các công ty đó đều là bảo hiểm, cùng nhằm mục đích bảo hiểm
cho đối tượng đó là ơ tơ, sự khác biệt về giá cả đối với loại sản phẩm bảo
hiểm này của mỗi công ty là không lớn và người tiêu dùng có thể mua sản
phẩm bảo hiểm này trên thị trường bằng một cách khơng q khó khăn.
Khả năng thay thế về cung: “khi giá cả của một loại sản phẩm tăng
lên, các doanh nghiệp hiện không sản xuất sản phẩm đó rất có thể chuyển
sang sản xuất sản phẩm đó trong thời gian đó mà khơng có sự tăng lên
đáng kể về chi phí. Điều này có thể ngăn cản một doanh nghiệp độc
quyền (giả định) duy trì mức giá 5 – 10% trên mức giá cạnh tranh mà vẫn
thu được lợi nhuận. khả năng thay thế này được thực hiện bởi các nhà
cung cấp và được gọi là khả năng thay thế về cung.”
Cụ thể trong vụ việc này: trong việc kinh doanh bảo hiểm, một
công ty bảo hiểm có thể phân thành nhiều loại bảo hiểm để bán phụ thuộc
vào nhu cầu và mục đích của khách hàng. Mặc dù từ góc độ của khách
hàng thì các loại bảo hiểm này là khác nhau và không thể thay thế cho
nhau do chúng có đặc tính sử dụng và mục đích sử dụng là khác nhau
nhưng do chúng cùng được một công ty bảo hiểm bán và cùng có cùng
tính chất (bảo hiểm).
Như vậy từ việc phân tích khả năng thay thế về cung và khả năng
thay thế về cầu, có thể xác định thị trường sản phẩm liên quan trong vụ
việc ở đây đó là: “Thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô”.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội
*Thị trường địa lý liên quan là: “một khu vực địa lý cụ thể nơi các
doanh nghiệp có liên quan tham gia bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ
trong những điều kiện cạnh tranh tương tự và các điều kiện cạnh tranh tại
khu vực này phải khác biệt đáng kể so với các điều kiện cạnh tranh tại các
khu vực lân cận”.
Như vậy, theo định nghĩa trên, có thể xác định thị trường địa lý liên
quan ở vụ việc này đó là “tại Việt Nam”.
Qua phân tích về thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan, có thể xác định thị trường liên quan trong vụ việc đó là: “Thị
trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô tại Việt Nam”.
1.2
Xác định thị phần
Căn cứ theo quy định tại Điều 10 Luật Cạnh tranh 2018,
Về thị phần: căn cứ vào đặc điểm, tính chất của thị trường liên quan,
thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan được xác định là:
Tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng
doanh thu bán ra của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo
tháng, quý, năm;
Tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với
tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan
theo tháng, quý, năm;
Tỷ lệ phần trăm giữa số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra của doanh
nghiệp này với tổng số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra của tất cả các doanh
nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm;
Tỷ lệ phần trăm giữa số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của doanh
nghiệp này với tổng số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của tất cả các
doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.
Về thị phần kết hợp: thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường
liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào hành vi hạn chế cạnh tranh
hoặc tập trung kinh tế.
Từ đó, có thể xác định, thị phần kết hợp của thỏa thuận này là tổng thị
phần của 19 DNBH trên thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô
tại Việt Nam. Cụ thể, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã xác định thị phần
kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ
99.79%.
5
Trường Đại học Luật Hà Nội
2.
Các thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm này có vi phạm pháp luật
cạnh tranh hay không?
Xem xét hành vi thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm này có vi
phạm pháp luật cạnh tranh hay khơng, chúng ta sẽ cùng phân tích những đặc
điểm của hành vi thỏa thuận này của 19 doanh nghiệp bảo hiểm:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia là 19 doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn
độc lập trên thị trường, đều là các doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi tiếng.Các
doanh nghiệp này tham gia thỏa thuận hoạt động độc lập với nhau và hồn
tồn khơng phụ thuộc với nhau về tài chính.
Thứ hai, sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận được thể hiện một cách cơng khai đó là thỏa thuận trong
khn khổ tổ chức Hội nghị thống nhất ký Bản thỏa thuận hợp tác giữa các
DNBH và các thỏa thuận này được thơng cáo báo chí và các phương tiện
truyền thơng đại chúng. Các doanh nghiệp này có sự thống nhất ý chí cùng
hành động để gây hạn chế cạnh tranh đó là khơng hạ phí, đồng thời thống
nhất áp dụng mức phí 1,56% thu của khách mua bảo hiểm xe ơtơ. Đương
nhiên, có thể hiểu rằng việc quyết định thỏa thuận nói trên đã được các đơn
vị suy tính, nghiên cứu kỹ và nhằm tránh đối đầu trực tiếp trong hoạt động
thu hút khách hàng với nhau, đồng thời tạo ra một mặt bằng về phí của riêng
nhóm. Từ đó, 19 doanh nghiệp này cũng có cơ hội lớn hơn, mang tính áp đảo
và có điều kiện thuận lợi hơn để có được một thị phần lớn hơn trong tổng
dung lượng thị trường bảo hiểm xe ôtô cả nước, đồng thời hạn chế cạnh
tranh đối với những doanh nghiệp khác.
Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận này có thể làm giảm sức ép cạnh
tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận này
gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ
khơng cịn cạnh tranh nữa, bởi vì 19 doanh nghiệp bảo hiểm này đều là
những doanh nghiệp bảo hiểm lớn và có thị phần kết hợp lên tới 99,79% và
những doanh nghiệp này có lượng khách hàng rất hùng hậu và doanh thu
tương đối lớn. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc
thỏa thuận, cụ thể là 6 doanh nghiệp còn lại trong thị trường bảo hiểm chỉ
chiếm 0,21% thị phần, một con số rất nhỏ.
Từ những phân tích về đặc điểm hành vi thỏa thuận của 19 doanh
nghiệp bảo hiểm, chúng ta có thể nhận định đây chính là hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2018. Cụ thể
hành vi này chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn
6
Trường Đại học Luật Hà Nội
định giá hàng hóa dịch vụ một cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 điều
11 Luật cạnh tranh năm 2018.
Các thỏa thuận này có thuộc trường hợp được miễn trừ theo pháp luật
cạnh tranh hay không.
Phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ bao gồm 8
dạng hành vi được xem xét cấm theo nguyên tắc hợp lý, nghĩa là bị cấm khi
các thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể trên thị trường. Theo điều 14 Luật cạnh tranh 2018,
chỉ những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8,
9, 10 và 11 Điều 11 bị cấm theo quy định tại Điều 12 của Luật này mới thuộc
phạm vi các thỏa thuận được xem xét miễn trừ có thời hạn.
3.
Các thỏa thuận nêu trên được miễn trừ có thời hạn nếu có lợi cho
người tiêu dùng và đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, cơng nghệ, nâng cao chất lượng
hàng hóa, dịch vụ;
Tăng cường sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường quốc tế;
Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
Thống nhất cách điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh tốn
nhưng khơng liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện
thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ quy định từ Điều 20 đến Điều 23 Luật Cạnh
tranh.
Từ vụ việc, có thể thấy, thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo
hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ 99.79%, và thỏa thuận này là hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn định giá hàng hóa dịch vụ một
cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018.
Do đó, thỏa thuận này bị cấm theo Khoản 4 Điều 12 Luật cạnh tranh
2018. Đồng thời, thỏa thuận này cũng không đáp ứng các điều kiện quy định
tại khoản 1 Điều 14, do đó, theo quy định của pháp luật cạnh tranh, hành vi
thỏa thuận về biểu phí cũng như cơng thức tính phí bảo hiểm với xe ô tô của
19 doanh nghiệp bảo hiểm không được miễn trừ.
4.
Tác động đến thị trường bảo hiểm và đối với đối tượng mua bảo hiểm
bởi các thỏa thuận này như thế nào.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội
Trong số các hành vi bị cấm thì hành vi hạn chế cạnh tranh mà các
doanh nghiệp gây ra trên thị trường là nghiêm trọng nhất, theo quy định của
Luật Cạnh tranh, thường bị xử phạt rất nặng.
Theo nguyên tắc nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh
tranh để tạo ra cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm phù hợp với
yêu cầu của họ.Nếu các Doanh nghiệp bắt tay nhau, hạn chế cạnh tranh thì sẽ
bị xử phạt để trả lại cho thị trường sự minh bạch.
Đối với vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm trên, qua tìm hiểu, một số
tác động liên quan của vụ việc đến thị trường bảo hiểm và đối tượng mua
bảo hiểm được khái quát như sau:
Mức độ gây hạn chế cạnh tranh:
Xét trên khía cạnh các doanh nghiệp bảo hiểm: 19 doanh nghiệp bảo
hiểm ký kết thoả thuận đã triệt tiêu cạnh tranh giữa 19 doanh nghiệp bảo
hiểm tham gia ký kết.
Xét khía cạnh người mua bảo hiểm: tạo mặt bằng chung phí bảo hiểm
xe cơ giới làm hạn chế quyền lựa chọn của người mua bảo hiểm.
Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng khác:Có tới 19/25
doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết chiếm tới 99,79% thị trường dịch vụ
bảo hiểm vật chất ơ tơ trên tồn quốc nên gây hạn chế đáng kể.
Thời gian thực hiện vi phạm: Chỉ hơn 50 ngày, giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm tiến hành khơng đồng đều vì vậy khơng phải là yếu tố quan trọng
cần xem xét mức độ vi phạm.
Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm: 19 doanh nghiệp bảo hiểm
chiếm 99,79% thị phần, thời gian vi phạm chưa dài, các doanh nghiệp bảo
hiểm đã chấm dứt thực hiện thoả thuận nên mức độ thiệt hại cho người mua
bảo hiểm đã được giảm thiểu.
Khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm: Do thời gian thực hiện
thoả thuận chưa dài nên khoản lợi nhuận 19 doanh nghiệp bảo hiểm thu được
từ thống nhất thoả thuận không phản ánh chính xác tác động của hành vi và
khơng là yếu tố quan trọng khi xem xét mức độ xử lý.
III.
1.
1.1
Quan điểm của nhóm về vụ việc nêu trên.
Đối với hành vi vi phạm pháp luật canh tranh
Theo Luật Cạnh tranh 2004:
Theo nhận định của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh, hành vi ký
văn bản thỏa thuận của 19 DNBH phi nhân thọ nêu trên đã vi phạm khoản 1
8
Trường Đại học Luật Hà Nội
Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 về việc thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch
vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Hội đồng xử lý đã đưa ra một số chứng
cứ để chứng minh việc vi phạm của 19 DNBH kể trên. Theo đó, Hội đồng xử
lý xác định thị phần kêt hợp của 19 DNBH đã chiếm tới 99,79%, đồng thời
những doanh nghiệp kể trên đều là những doanh nghệp nổi tiếng và độc lập
trên thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp này hoạt động độc lập và khơng
phụ thuộc tài chính vào nhau.
Như vậy, từ những chứng cứ mà Hội đồng xét xử nêu ra, có thể thấy,
các doanh nghiệp kể trên đã vi phạm hoạt động cạnh tranh bằng cách triệt
tiêu cạnh tranh về mức phí bảo hiểm trên hầu như toàn bộ thị trường liên
quan.
Theo khoản 2 điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 quy định như sau:
Điều 9. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.
Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3,
4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.
Theo căn cứ của Hội đồng xét xử thị phần kết hợp của 19 DNBH là
99,79% đã vượt quá mức cho phép là 30% theo quy định pháp luật cùng với
việc ký kết : Bốn bản thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh vực bảo hiểm tàu biển; bảo
hiểm xe cơ giới; và Điều khoản biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô-tô và các
bản thỏa thuận được thực hiện từ ngày 1-10-2008. Trong tất cả các bản thỏa
thuận này đều có quy định về chế tài cụ thể nếu các bên vi phạm, thể hiện ý
chí tự nguyện của các bên tham gia. Từ những căn cứ trên có thể thấy rằng
19 DNBH đã có hành vi vi phạm các khoản 1 điều 8 và khoản 2 điều 9 của
Luật Cạnh tranh 2004, qua đó phải chịu những hình thức chế tài theo quy
định của pháp luật.
1.2
Theo Luật Cạnh tranh 2018:
Về hành vi vi phạm của 19 DNBH cả Luật Cạnh tranh năm 2004 và
2018 đều quy định giống nhau. Theo đó hành vi của những doanh nghiệp kể
trên đã vi phạm khoản 1 điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 về việc Thỏa thuận
ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Về thị phần kết hợp, theo căn cứ của Hội đồng xét xử thì thị phần kết
hợp của 19 DNBH đã lên tới 99,79%. Trong khi đó khoản 1 điều 12 Luật
Cạnh tranh 2018 quy định như sau:
Điều 12. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
9
Trường Đại học Luật Hà Nội
1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị
trường liên quan quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 11 của Luật này.
Theo đó những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp trên
cùng thị trường liên quan quy định tại khoản 1 điều 11 Luật này đều bị cấm.
Trong khi đó, hành vi của 19 DNBH đã vi phạm khoản 1 điều 11 như đã nói
ở trên mà không cần xem xét đến thị phần kết hợp của các doanh nghiệp này,
Như vây, theo Luật Cạnh tranh 2004 hay 2018 thì hành vi ký văn bản
thỏa thuận của 19 DNBH đều là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh và đều
bị xử lý theo quy định pháp luật.
1. Hạn chế của pháp luật cạnh tranh trong quy định về hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh:
Thông qua tranh chấp trong vụ việc hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh của 19 công ty bảo hiểm nêu trên, có thể khẳng định bên cạnh một số
những thành tựu đã đạt được thì các quy định của pháp luật cạnh tranh nói
chung và Luật cạnh tranh năm 2018 nói riêng về hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh vẫn cịn nhiều bất cập, khó khăn khi đưa vào thực tế áp dụng,
chưa thực sự điều chỉnh được hết những vấn đề phát sinh trong thực tế. Cụ
thể:
Thứ nhất, yếu tố đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn
chế một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:
Các yếu tố đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động đã được quy
định trong Luật cạnh tranh năm 2018. Tuy nhiên, mức độ đáng giá chưa thực
sự rõ ràng, vẫn còn là những tiêu chí đánh giá chung chung, gây khó khăn
trong việc xác định các trường hợp đánh giá cụ thể.
Việc xác định thị trường đơn giản nhưng khó hoặc khơng có dữ liệu về
doanh số để tính tốn thị phần đủ chặt chẽ. Việc lấy được dữ liệu ở một nước
đang phát triển như Việt Nam là vơ cùng khó khăn, khi cơ quan quản lý còn
hạn chế về nguồn lực mà khơng có thẩm quyền u cầu cung cấp bằng
chứng quan trọng từ phía các bên trong vụ việc cạnh tranh. Cho đến nay, Ủy
ban cạnh tranh quốc gia vẫn chưa được thành lập nên việc kiểm soát việc
đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động của thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh cũng còn gặp nhiều thách thức.
Thứ hai, quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:
Điều 11 Luật cạnh tranh năm 2018 đã liệt kê các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh: Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp; Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ,
10
Trường Đại học Luật Hà Nội
nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm
soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia
đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận ngăn
cản, kìm hãm, khơng cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát
triển kinh doanh; Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp
không phải là các bên tham gia thỏa thuận; Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ
thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện
ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp
khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; Thỏa thuận không giao dịch
với các bên không tham gia thỏa thuận; Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu
thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên
không tham gia thỏa thuận.
Việc liệt kê nhiều hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ dễ dẫn đến
việc nhầm lẫn, áp dụng chồng chéo. Từ đó, dẫn đến khi xử lý các hành vi về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ mất nhiều thời gian hơn.
Thứ ba, hạn chế trong thực tiễn xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh:
Mức phạt đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cịn ít,
chưa đủ tính răn đe: Theo Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh thì: “Mức phạt tiền tối đa đối với
hành vi vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạng tranh là 10% tổng doanh thu của
doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài
chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn mức
phạt tiền thấp nhất đối với tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm được
quy định trong Bộ luật Hình sự”. Mà theo Điều 77 Bộ luật Hình sự năm
2015 quy định mức tiền phạt thấp nhất đối với pháp nhân thương mại là
50.000.000 đồng.
Chưa có vụ việc hạn chế cạnh tranh nào được giải quyết bằng biện
pháp hình sự: Hiện nay, quy định của Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy
định về cạn tranh chưa được áp dụng trên thực tiễn. Thậm chí, việc áp dụng
chế tài hình sự với pháp nhân cũng chưa được các cơ quan thực thi pháp luật
trên thực tế. Trong khi đó, chế tài hình sự đối với hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh chủ yếu nhắm tới các pháp nhân thương mại. Việc quy định cá
nhân khi thực hiện các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bị phạt
tù là chế tài mang tính nghiêm khắc rất lớn với mục đích răn đe các chủ thể
vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay các các nhân không nắm bắt được các quy định
11
Trường Đại học Luật Hà Nội
của pháp luật cạnh tranh, dễ dàng tiến hành các hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh đang diễn ra rất phổ biến.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:
Thứ nhất, cần đẩy nhanh tiến độ thông qua nghị định quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật cạnh tranh 2018 nhằm làm rõ
các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế canh tranh.
Thứ hai, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm cụ thể như: Hành
vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định mức tiền phạt dựa trên hai yếu tố là số % được quy
định đối với từng hành vi vi phạm và tổng doanh thu của doanh nghiệp vi
phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Việc quy
định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật trong hiện tại dựa trên
cơ sở mức doanh thu của đối tượng vi phạm đã thực hiện trong quá khứ, quy
định như vậy không phản ảnh đúng mức trách nhiệm pháp lý phải chịu tương
xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà ngun tắc đó chính là một
trong những ngun tắc cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính . Nội
dung này cần được nghiên cứu, quy định lại cho phù hợp theo hướng dựa
trên hậu quả gây ra do hành vi vi phạm phạm luật của đối tượng vi phạm.
Thứ ba, cũng cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
cán bộ, công chức, viên chức là công tác phát hiện và chống lại hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, xây dựng các bộ máy đầy đủ về lực lượng và cơ sở
vật chất thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhằm
phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong quá trình hoạt động. Các cơ quan
quản lý Nhà nước cần thường xuyên theo sát diễn biến thị trường, tăng
cường kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh nói chung và hành vi thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch
vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nói riêng một cách thận trọng, khách
quan. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì các dạng thức kinh doanh của
doanh nghiệp cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó hành vi
của doanh nghiệp cũng có xu hướng biến đổi không ngừng nhằm đạt được
mục tiêu lợi nhuận, đặc biệt trong các môi trường cạnh tranh khốc liệt. Do
đó, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng ngày càng được doanh
nghiệp biến hóa nhằm đối phó với các cơ quan cạnh tranh. Vậy nên không
chỉ cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, mà các cơ quan
cạnh tranh Việt Nam cần phải có những biện pháp thực thi hiệu quả để thực
sự đưa Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, góp phần cải thiện mơi trường
kinh doanh cũng như văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.
12
Trường Đại học Luật Hà Nội
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đánh giá của OECD về Luật và Chính sách cạnh tranh Việt Nam 2018,
/>fbclid=IwAR3I3Y2PxmG9BGeAMorsETgHARvJoJdKs5niqZ1iWyLUhncNSh_ngLlPy
B0
2. Thực tiễn xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo pháp luật Việt Nam
hiện nay và một số giải pháp hoàn thiện, ThS. Phạm Phương Thảo (Đại học
Luật Hà Nội),
/>fbclid=IwAR2oZjnGpKcZVuvQjYnayE82VNFa6HbzjQ5tP1rjchAKBi4JFHxC
Me5SdV8
3. Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
/>
13