Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bai thu hoach văn hóa phát triển CCLLCT 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.26 KB, 14 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................3

MỞ ĐẦU
Ngày nay, khơng ai có thể phủ nhận vai trị quan trọng của văn hóa với tư
cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử phát
triển của lồi người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia nào, con
người cũng đều đóng vai trị quyết định với q trình sản xuất, mà trước hết, họ
là một thực thể văn hóa. Tố chất con người (tinh thần u nước, trình độ khoa
học cơng nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý nghĩa quyết định
làm nên sức mạnh của văn hóa ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và do đó ở thời kỳ
hiện đại, nói đến tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia, người ta khơng chỉ nói
tới tài nguyên thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định là văn hóa, được
thể hiện qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người ở quốc
gia đó...


2

Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân - thiện
- mỹ, văn hóa có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất của mọi
thành viên xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách
để đóng góp vào sự nghiệp phát triển của dân tộc. Thời hiện đại, sự phát triển
của một số quốc gia ở Ðông Á, đã đưa tới một số bài học cần tham khảo. Như
Nhật Bản và Hàn Quốc chẳng hạn, một trong các yếu tố cơ bản trực tiếp góp
phần làm nên nhịp độ phát triển nhanh chóng của hai quốc gia này là đã biết
phát huy các đặc điểm ưu việt của nền văn hóa truyền thống vào quá trình phát
triển, thơng qua hệ thống giáo dục và hoạt động văn hóa có đầu tư thích đáng


về con người và phương tiện vật chất. Họ không để cho làn sóng của văn minh
hiện đại và giao lưu văn hóa ồ ạt lấn át các cơ sở văn hóa truyền thống được
xây dựng qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc, như tinh thần lao động có kỷ
cương, tính hợp lý trong điều hành xã hội và mối quan hệ gia đình, thân tộc,...
Cho nên khơng ngẫu nhiên, UNESCO khẳng định rằng, nước nào tự đặt cho
mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời khỏi môi trường văn hóa thì nhất
định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hóa, và tiềm năng
sáng tạo của những dân tộc ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Dù chứa đựng một số giá trị mang tính nhân loại phổ biến, thì khi nói đến
văn hóa của mỗi dân tộc, là nói tới đặc trưng riêng, tới hệ thống giá trị văn hóa
riêng của dân tộc đó. Ðây là di sản quý báu, đã được tích lũy, trao truyền và bổ
sung qua nhiều thế hệ, và chính các đặc điểm riêng trong sự sinh tồn của dân
tộc đã làm cho văn hóa mang bản sắc riêng. Ðồng thời với q trình tích lũy,
trao truyền và bổ sung ấy, văn hóa của dân tộc cịn tiếp nhận một số tinh hoa
văn hóa của các dân tộc khác thơng qua q trình tiếp biến văn hóa, và động
thái này đã làm cho văn hóa vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa có tính thời đại,
tính nhân loại, phù hợp với sự phát triển kinh tế. Ðiều đó có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ, trước xu thế tồn
cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Do vậy, sự phát triển đòi hỏi phải nâng cao vai
trò, vị thế của văn hóa trong hoạt động kinh tế, văn hóa khơi dậy mọi tiềm năng
sáng tạo của con người, quyết định sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Và
cũng do vậy, trong xã hội hiện đại, con người phải được xã hội tạo điều kiện và
phải tự mình xây dựng yếu tố nền tảng của văn hóa là sự hiểu biết, là tri thức,
kinh nghiệm, là phong cách ứng xử, là nhận thức về cống hiến và hưởng thụ,...


3

trong quá trình học tập, lao động để duy trì, phát triển cuộc sống. Các yếu tố
này, nếu được khai thác, phát huy sẽ trở thành một động lực to lớn đối với sự

phát triển kinh tế.
Chúng ta xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, và điều Ðảng ta khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ rõ
vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. Vì
vậy, phát triển kinh tế - xã hội phải hài hòa với phát triển văn hóa.

NỘI DUNG
1. Yêu cầu của xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế trong thời kỳ
phát triển mới của đất nước
- Văn hóa và kinh tế ln gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, văn hóa và kinh tế là mối quan hệ giữa bộ phận và chỉnh thể, tức là văn
hoá là chỉnh thể, là tổng hòa giá trị vật chất và giá trị tinh thần, kinh tế chỉ là
một trong đó mà thơi. Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ giữa kinh tế và
văn hóa ngày càng trở nên gắn bó mật thiết. Xu thế phát triển trên thế giới chỉ
ra kinh tế từ nay về sau là kinh tế văn hóa. Nếu chúng ta kết hợp được tốt văn
hố truyền thống với văn hố hiện đại thì sẽ có động lực để phát triển.
- Văn hóa thấm sâu vào kinh tế: Văn hóa thấm sâu vào tất cả các hoạt
động của con người, trong đó có hoạt động kinh tế. Vì rằng tồn bộ q trình
kinh tế đều là hoạt động của con người lao động tạo ra, nói một cách giản đơn


4

chính là lao động của con người để thay đổi quan hệ giữa người với vật. Quan
hệ giữa người với người quy cho đến cùng cũng nảy sinh ra trong lao động.
Hiện tại tồn cầu hóa kinh tế và hiện đại hóa khoa học - kỹ thuật lưu hành rộng
rãi trên thế giới. Điều đó vừa đem lại hiệu quả kinh tế cho các nước phát triển
phát triển nhanh chóng cũng có thể đưa lại vấn đề nhất thể hố văn hóa và kinh
tế. Con đường hiện đại hóa phương Tây và Mỹ trong tồn cầu hố chính là việc

thực hiện nhất thể hố văn hóa kinh tế. Hoạt động kinh tế có tính chung với bất
cứ quốc gia nào. Những đặc điểm chung hịa vào tính riêng của dân tộc. Nếu
như xóa bỏ tính riêng của dân tộc, chỉ phát triển kinh tế thì có thể khẳng định là
dân tộc sẽ tàn lụi. Do đó vấn đề tự giác văn hóa càng trở thành quan trọng và
cấp bách so với bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử hiện đại. Cơ sở của tự giác văn
hóa của nước ta là trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, là sự kết hợp sức mạnh truyền thống với sức mạnh của thời đại.
- Văn hóa trong hoạt động kinh tế. Cái gọi là văn hóa doanh nghiệp mà
các doanh nghiệp đang đề xướng bây giờ về cơ bản là đều từ bản thân kinh tế
thậm chí là nhu cầu của bản thân doanh nghiệp.
Tự giác văn hóa của một dân tộc địi hỏi mọi thành viên của dân tộc ấy
đều tự giác. Kinh nghiệm lịch sử loài người đã chứng tỏ chỉ cần người cầm
quyền và tầng lớp trí thức có tự giác là sẽ có tự giác của tất cả dân tộc. Hiện
nay nước ta đang ở vào thời kỳ nhận thức xây dựng nền văn hóa mới coi trọng
gắn kết văn hóa với kinh tế và chính trị. Mối quan hệ giữa người với người phải
được cải thiện. Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã
từng bước góp phần tạo nên một lối sống mới trong nhân dân. Vấn đề phản văn
hóa trong sự trưởng thành của thanh thiếu niên trong thị trường văn hóa đều địi
hỏi phải giải quyết ngay. Đây là vấn đề của văn hóa đại chúng. Phải thấy được
mặt tích cực và tiêu cực của văn hóa đại chúng để phát huy mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực, ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực đến thanh thiếu niên.
Trong đổi mới lý luận về văn hoá phải chỉ rõ phát triển văn hóa phải thích
ứng với nhu cầu của thời đại và sự phát triển của đất nước. Sự kết hợp văn hóa
truyền thống Việt Nam với q trình hiện đại hóa tồn diện nhất định sẽ sản
sinh ra văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Mà sự chín
muồi của văn hóa Việt Nam cũng là lúc kinh tế - xã hội Việt Nam phát triển
mạnh mẽ.


5


Nói đến kinh tế mà khơng chú ý đầy đủ đến văn hóa là rất nguy hiểm.
Những thành tựu do đổi mới đạt được cần phải nhìn ở chiều sâu. Trên thực tế
các quyết sách của Trung ương đều là sản phẩm của thực tiễn Việt Nam nên
thấm đẫm văn hóa Việt Nam, trong phương thức tư duy bao hàm văn hóa Việt
Nam. Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa đã thấm sâu nội hàm của văn hóa
truyền thống Việt Nam. Xã hội Việt Nam hiện nay đang ở vào tình trạng nào.
Việt Nam đặt một chân lên thời đại thương mại điện tử, kinh tế mã số, xã hội
hậu công nghiệp và một chân vẫn đặt trên phương thức canh tác của xã hội
nơng nghiệp mấy nghìn năm trước. Trong rất nhiều nước chỉ có một vài nước
trong đó có Việt Nam mới có khoảng cách bước đi lớn như vậy. Muốn cân bằng
sự phát triển làm cho cả nước đạt tới thoát nghèo xây dựng xã hội dân chủ giàu
mạnh, công bằng mà không căn cứ vào tình trạng đặc biệt này, áp dụng đối
sách tương ứng đổi mới thể chế, xây dựng pháp luật pháp quy tương ứng thì
cơng cuộc đổi mới khó đạt được những thành tựu to lớn.
2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa với phát triển
kinh tế.
Trong thời đại ngày nay xu thế nhất thể hoá kinh tế văn hóa ngày càng
biểu hiện rõ rệt. Lấy con người làm mục đích, sự phát triển của văn hóa và kinh
tế theo xu thế chung là nhất thể hóa. Quan hệ giữa kinh tế và văn hóa khơng
phải là quan hệ giữa hai thứ ở ngồi nhau mà có tính nhất trí, tính cùng một xu
hướng với bản chất nội tại. Q trình nhất thể hóa kinh tế với văn hóa do tính
nhất trí nội tại, do sự kết hợp của hai lĩnh vực, do sự thúc đẩy nhau theo hai
chiều của kinh tế hóa văn hóa với văn hóa hóa kinh tế mà nảy sinh ra thể tổng
hợp hệ thống xã hội có tính chất mới. Nó khơng những bao gồm hàm lượng văn
hóa trong kinh tế, cũng bao gồm cả nhân tố kinh tế trong văn hóa tức là bao
gồm quá trình lại càng phải bao gồm kết quả, đánh dấu một loại phương thức tư
duy mới, định hướng giá trị mới, cũng chỉ ra một loại chuẩn mực hành vi mới,
quy phạm hành vi mới.
Loài người đang hướng tới mơ hình tư duy nhất thể hóa văn hóa kinh tế,

từ đó xây dựng nên hình ảnh thế giới mới. Mơ hình văn hóa kinh tế của các
nước Đông Á những năm 80 chứng tỏ sự vùng dậy của kinh tế khu vực này. Sự
kết hợp của văn hóa và kinh tế cũng phản ánh sức mạnh tổng hợp của đất nước,
cũng là sự lý giải mới, sự phát triển của nội hàm lực lượng sản xuất theo nghĩa


6

rộng. Sức mạnh tổng hợp của đất nước bao gồm thực lực về kinh tế, văn hóa,
xã hội, chính trị, môi trường. Về kinh tế, năng lực kinh tế của một quốc gia là
chỉ về phương diện sản xuất vật chất của một xã hội nhất định, biểu hiện ra các
mặt sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của tư liệu sản xuất. Nó bao gồm
sức sản xuất vật chất, năng lực tiêu dùng, thực lực kinh tế, năng lực lao động,
năng suất lao động, tư liệu lao động (bao gồm cơng cụ sản xuất) và trình độ
phát triển của chúng cũng tức là nói chúng ta đã nặng về lực lượng kinh tế. Ở
thế kỷ XXI tri thức sẽ thay thế cho quyền lực và tư bản trở thành lực lượng
kinh tế quan trọng nhất. Lực lượng kinh tế ở đây trên thực tế là chỉ năng lực
kinh tế của một quốc gia. Cịn năng lực văn hóa là chỉ sức ảnh hưởng của
truyền thống văn hố, mơ hình văn hố nhất định được biểu hiện ra trong kinh
tế xã hội. Văn hóa góp phần nâng cao sức sản xuất, xúc tiến sự phát triển kinh
tế, tiến bộ xã hội. Hạt nhân của nền văn hóa là sức mạnh tinh thần. Tinh thần
cũng tạo ra một lực lượng sản xuất lớn mạnh, bao gồm 8 yếu tố cơ bản của
năng lực văn hóa là (1) năng lực văn hóa tinh thần. Tinh thần dân tộc, tinh thần
nhân văn, tinh thần cách mạng, tinh thần khoa học đều có thể chuyển hóa thành
lực lượng sản xuất to lớn; (2) là văn hóa truyền thống trở thành một động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; (3) là năng lực văn hóa tri thức. Tri thức
chính là sức mạnh. Tri thức có thể sáng tạo ra của cải và chuyển hóa thành lực
lượng sản xuất hiện thực; (4) là năng lực văn hóa nhân tài. Cạnh tranh kinh tế
nói chung cũng là cạnh tranh sức mạnh của văn hóa nhân tài. Cạnh tranh nhân
tài nói chung cũng là cạnh tranh tố chất văn hóa; (5) là năng lực văn hóa hành

vi: Nghi lễ, đạo đức, ý thức, tính phát triển, tính sáng tạo, năng lực hội tụ của
cộng đồng, hình ảnh quan hệ cơng cộng, phong cách quản lý, phương thức
quyết sách, phong cách lãnh đạo của cá thể quy tụ thành văn hoá hành vi - nếu
như hướng dẫn được tốt thì đều có lợi cho việc nâng cao năng suất lao động;
(6) là năng lực văn hoá thể chế, năng lực văn hoá chế độ. Sự xác lập các chế
độ, điều lệ, qui tắc, việc cải cách các thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế
khoa học kỹ thuật, giáo dục và sự phát triển xã hội dân chủ và pháp quyền đến
có thể giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất; (7) là năng lực văn hoá nghệ
thuật. Một mặt văn học nghệ thuật là nhân vật chính của nền văn hố tạo nên
tầm vóc và vị trí của nền văn hố. Mặt khác tố chất thẩm mỹ, tố chất văn nghệ
của người lao động có tác dụng gián tiếp đến các lực lượng sản xuất. Còn thiết


7

kế hình ảnh xí nghiệp, thiết kế nhãn hiệu hàng hố, thiết kế hình ảnh cơng
cộng, thiết kế sản phẩm bao bì đều có lợi cho hoạt động của phát triển doanh
nghiệp đều có lợi cho lực lượng sản xuất phát triển; (8) là năng lực văn hố
thơng tin. Tài nguyên thông tin ngày nay đã trở thành tài nguyên chiến lược
quan trọng nhất. Tầm quan trọng của lực lượng sản xuất dựa trên tài nguyên
thông tin đã là điều ai cũng biết. Yếu tố sức tụ hợp văn hóa, hình ảnh văn hóa,
mơi trường văn hóa, tài ngun văn hóa, cơng nghiệp văn hóa, ngày hội văn
hóa đều có thể tác động một cách gián tiếp vào lực lượng sản xuất và trong điều
kiện nhất định chuyển hóa thành lực lượng sản xuất hiện thực.
Sự hòa nhập vào nhau, thẩm thấu vào nhau của văn hóa và kinh tế đã hình
thành nên chức năng mới. Văn hóa và kinh tế tạo nên sức thúc đẩy chủ yếu cho
kinh tế xã hội hơm nay tiến bộ tồn diện và trở thành động cơ thúc đẩy mạnh
mẽ cho kinh tế của nhiều quốc gia, khu vực cất cánh.
3. Xúc tiến sự phát triển hài hịa giữa văn hóa và kinh tế ở nước ta
trong thời kỳ phát triển mới của đất nước

Thế giới ngày nay, sau sự sụp đổ của nhiều mơ hình quản lý kinh tế với
những cuộc khủng hoảng mang tính tồn cầu, với hàng loạt sự trả giá của con
người do phát triển kinh tế không được đặt trong tổng thể gắn với văn hóa –
mơi trường sống, đã đặt ra cho nhân loại một bài toán mới: phát triển bền vững.
Khái niệm phát triển bền vững và quan điểm về phát triển bền vững đến
nay cịn có nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội ở mỗi quốc gia, khu vực. Nhưng, hiểu một cách chung nhất thì phát triển
bền vững là một khái niệm nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong
hiện tại mà vẫn bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Phát triển bền
vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi
trường được bảo vệ, gìn giữ. Đối với Việt Nam, phát triển bền vững hiểu khái
quát là sự cân bằng giữa 3 vấn đề: tăng trưởng - bảo vệ môi trường - bảo đảm
an sinh xã hội.
Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững là:
- Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên
hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.


8

- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Như vậy, trong quan điểm của Đảng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội là những điều kiện quan trọng để có sự phát triển bền
vững. Phát triển bền vững là một tiêu chí khơng thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1. Sự hịa nhập lẫn nhau giữa văn hóa và kinh tế là xu thế khách
quan của phát triển xã hội

Xu thế khách quan hòa nhập vào với nhau giữa văn hóa và kinh tế ngày
càng thể hiện rõ rệt. Trước tiên nhìn vào góc độ kinh tế. Cơ cấu tiêu dùng sinh
hoạt của mọi người đã xuất hiện sự biến đổi mới, tỷ trọng chi phí cho sinh hoạt
vật chất giảm đi và bắt đầu dùng nhiều tiền hơn chuyển dịch cho phương hướng
chi phí cho tiêu dùng văn hóa, điều đó một mặt yêu cầu sản xuất nhiều hơn sản
phẩm văn hoá tinh thần để thoả mãn nhu cầu về văn hóa tinh thần cho mọi
người; mặt khác yêu cầu hàm lượng văn hóa trong sản phẩm vật chất cũng
không ngừng nâng cao. Thực tiễn chứng minh hàm lượng văn hóa trong sản
phẩm càng cao thì giá trị phụ gia kinh tế càng cao.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật đổi mới
hàng ngày, văn hóa đồng thời với việc giữ gìn thuộc tính ý thức xã hội thì thuộc
tính sản xuất hàng loạt và có tính hàng hóa của nó biểu hiện ngày càng rõ ràng.
Một mặt trong quá trình sản xuất, quy luật giá trị, cơ chế thị trường ngày càng
lớn làm cho văn hóa có tính chất sản xuất lớn xã hội hóa. Mặt khác kỹ thuật cao
mới nhất là sự vận dụng số hóa, mạng hóa làm cho hiệu suất sản xuất của sản
phẩm văn hóa càng cao, sức truyền bá của văn hóa ngày càng lớn, diện bao phủ
của văn hóa ngày càng rộng, sức biểu hiện, sức cảm hóa và thơi thúc của văn
hóa được phát huy và nâng cao chưa từng có. Những năm 90 của thế kỷ XX tới
nay, cơng nghiệp văn hố trở thành một ngành cơng nghiệp phát triển nhanh
nhất tồn cầu. Nhất thể hóa văn hóa với kinh tế đã trở thành xu thế tất nhiên.
Văn hóa là một lực lượng tinh thần cũng ngày một trở thành động lực
quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội. Trong phát triển kinh tế tài nguyên


9

nhân văn thậm chí cịn lớn hơn ngun vật liệu năng lượng. Dưới vai trị của
nhân tố văn hóa, tài nguyên con người sẽ tạo ra được nguồn của cải to lớn.
Đứng trước xu thế văn hoá và kinh tế hoà nhập vào với nhau chúng ta phải nắm
chắc quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế, trong quá trình xây dựng một

xã hội “giàu mạnh, văn minh” phải phát huy tốt hơn nữa vai trò động lực của
văn hóa trong phát triển kinh tế, phát huy tác dụng nâng đỡ của kinh tế trong
phát triển văn hóa.
3.2. Nâng cao hàm lượng văn hoá trong kinh tế
Coi trọng văn hóa trong nghiên cứu doanh nghiệp. Doanh nghiệp là chủ
thể của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, xây dựng văn hóa doanh nghiệp
tiên tiến là cơ sở phát triển quan trọng và điểm dừng chân của nền văn hóa tiên
tiến. Phải nâng cao hàm lượng văn hóa trong quản lý kinh doanh doanh nghiệp
và trong sản phẩm hàng hóa. Chúng ta phải hướng dẫn doanh nghiệp trong quá
trình tạo ra nhãn hiệu sản phẩm, phải chú trọng nghiên cứu tinh thần văn hóa
của doanh nghiệp, nghiên cứu nhu cầu văn hóa của người tiêu dùng, dồn sức
vào việc hình thành sắc thái văn hóa đặc biệt của nhãn hiệu sản phẩm. Nguồn
nhân lực là chủ thể của văn hóa doanh nghiệp. Con người là nhân tố tích cực
nhất, sơi động nhất, mấu chốt nhất trong phát triển doanh nghiệp. Sự khai thác
và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển văn hoá doanh nghiệp là bộ phận
quan trọng nhất trong phát triển văn hóa doanh nghiệp. Do đó nhiệm vụ cơ bản
của phát triển văn hóa doanh nghiệp là tôn trọng con người, quan tâm đến con
người, bồi dưỡng con người, nâng cao tố chất dưỡng chất đạo đức tư tưởng và
tốt chất văn hóa khoa học của cơng nhân viên chức, kích thích tính tích cực và
tính sáng tạo của tồn thể cơng nhân viên chức.
Mơ hình quản lý là sự thể hiện tập trung của văn hóa doanh nghiệp, chú
trọng nhiều hơn nữa việc bồi dưỡng năng lực đạo đức và giá trị của quản lý
kinh doanh doanh nghiệp, nỗ lực thực hiện sự thống nhất hữu cơ của phát triển
doanh nghiệp với phát triển con người.
Coi trọng văn hóa trong nghiên cứu cơng nghiệp văn hóa. Cơng nghiệp
văn hóa là một chủ đề mới, là thể chuyển tải quan trọng chan hòa vào nhau
giữa kinh tế và văn hóa. Phải tùy từng địa phương khác nhau mà hình thành
nên sắc thái riêng và ưu thế của cơng nghiệp văn hóa, thơng qua việc bảo vệ



10

khai thác lợi dụng tài nguyên nhân văn của văn hóa phi vật thể, sáng tạo ra
người nổi tiếng, sản phẩm nổi tiếng, danh dự và khí tiết, phong tục tập qn,
phát triển ngành cơng nghiệp văn hóa có sắc thái riêng, có sắc thái địa phương
nồng hậu và dấu ấn văn hóa sâu sắc. Đấy là con đường có hiệu quả nâng cao
sức mạnh của cơng nghiệp văn hóa. Như vậy khơng những có thể thoả mãn
được nhu cầu tiêu dùng văn hóa khơng ngừng biến đổi phát triển của quần
chúng nhân dân mà cịn có thể nâng cao đến mức cực đại hiệu quả kinh tế của
những ngành cơng nghiệp văn hóa, tăng cường được năng lực cạnh tranh thị
trường của các ngành cơng nghiệp văn hóa.
Coi trọng nghiên cứu văn hóa trong kinh tế khu vực. Cùng với sự phát
triển nhanh chóng của kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá đã trở thành lực
lượng to lớn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực. Chỉ có thể nắm
được xu thế này giải phóng được đầy đủ tiềm năng giá trị của văn hóa và tố
chất của người lao động thì kinh tế từng khu vực mới phát triển. Phải tăng
cường khai thác tài nguyên văn hóa và con người ở mỗi khu vực khác nhau.
Phát triển kinh tế khu vực phải coi trọng phát huy ưu thế của truyền thống văn
hóa, sắc thái riêng văn hóa, nâng cao được năng lực khai thác lợi dụng tài
nguyên văn hóa trong phát triển kinh tế khu vực.
3.3 Tích cực tìm biện pháp hài hịa kinh tế trong văn hố
- Phát triển các loại sự nghiệp văn hố và cơng nghiệp văn hóa đều phải
quán triệt yêu cầu phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trước
sau đặt hiệu quả xã hội lên hàng đầu.
- Vận dụng quan niệm kinh tế thị trường thúc đẩy sự phát triển của cơng
nghiệp văn hóa. Thực tiễn u cầu chúng ta đẩy nhanh việc xác lập một loạt
quan niệm tư tưởng thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Một là: Tăng cường ý thức tài nguyên. Phải giỏi khai
thác tài nguyên văn hóa đặc biệt là tài nguyên văn hóa phi vật thể. Trong phạm
vi chính sách cho phép vận dụng biện pháp thị trường tiến hành tổ chức lại tối

ưu hóa đối với tài nguyên, phát huy hiệu ứng, điều chỉnh hợp lý. Hai là, tăng
cường ý thức hàng hoá và thị trường. Đối với một bộ phận sản phẩm văn hóa
tương đương, đồng thời với việc chú ý thuộc tính ý thức xã hội của nó khơng
thể xem nhẹ thuộc tính hàng hóa đặc biệt của nó. Do đó phải coi trọng các khâu


11

lưu thông, tuân theo qui luật giá trị, phép tắc thị trường của sản phẩm văn hóa,
khi phát triển cơng nghiệp văn hóa phải chú trọng nghiên cứu nhu cầu thị
trường của sản phẩm văn hóa. Căn cứ vào sự biến đổi của thị trường để tổ chức
sản xuất. Ba là, tăng cường ý thức hiệu quả. Sản xuất sản phẩm văn hoá phải
đặt hiệu quả xã hội lên hàng đầu nhưng đồng thời cũng phải chú trọng hiệu quả
kinh tế. Nếu không chú trọng giá thành, không chú trọng hiệu quả kinh tế sẽ có
thể mất đi thị trường, mất đi sức cạnh tranh thì hiệu quả xã hội cũng không thể
nào thực hiện được.
- Vận dụng kinh nghiệm đổi mới thể chế kinh tế để thúc đẩy đổi mới thể
chế văn hóa. Phải học tập kinh nghiệm đổi mới thể chế kinh tế, mở rộng mức
độ đổi mới thể chế văn hóa thúc đẩy vững chắc việc chia tách chính quyền với
doanh nghiệp, chia tách chính quyền với sự nghiệp, xây dựng một thể chế quản
lý vĩ mô khoa học. Phải tích cực tìm tịi việc đổi mới doanh nghiệp văn hoá, ra
sức thúc đẩy đổi mới chế độ lao động, nhân sự, phân phối của đơn vị văn hoá
để xây dựng một cơ chế vận hành vi mơ hiệu quả cao, linh hoạt. Trong phạm vi
chính sách cho phép nâng đỡ lực lượng xã hội làm văn hố, nâng đỡ có trọng
điểm những doanh nghiệp văn hóa tư nhân làm cho chúng trở thành lực lượng
mới của phát triển cơng nghiệp văn hóa.
- Vận dụng biện pháp kinh tế thúc đẩy việc xã hội hóa sự nghiệp văn hóa.
Phải vận dụng biện pháp kinh tế xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa, cải tạo các
tập thể, các đơn vị văn hóa, triển khai hoạt động văn hố, phải để cho càng
nhiều đơn vị văn hóa đi vào con đường vận hành xã hội hóa, lấy hiệu quả kinh

tế tốt đẹp để nâng đỡ hiệu quả xã hội. Vận dụng địn bẩy kinh tế thúc đẩy văn
hóa phát triển. Phải phát huy đầy đủ tác dụng định hướng của tài chính cơng
cộng trong phát triển văn hóa. Điều chỉnh đúng lúc kết cấu đầu tư tài chính và
phương thức đầu tư, từng bước chuyển biến từ đào tạo người sang khuyến
khích làm việc, tìm tịi vận dụng biện pháp vay tín dụng để nâng đỡ và phát
triển cơng nghiệp văn hóa. Mở rộng các kênh, từng bước hình thành chính
sách đầu tư mang tính tài chính, đầu tư mang tính chính sách và đầu tư mang
tính xã hội và cục diện đầu tư lưu thông vốn kết hợp đầu tư mang tính tự thân
của các đơn vị văn hóa. Phát huy đầy đủ vai trị của vốn chuyên mục phát
triển văn hóa và các loại vốn tuyên truyền văn hóa đã sẵn có, thúc đẩy cho sự
phồn vinh của sự nghiệp văn hóa và sự phát triển của cơng nghiệp văn hóa


12

KẾT LUẬN
Chúng ta đang trong quá trình hội nhập thế giới, và tồn cầu hóa là cơ hội
để văn hóa Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình. Song chính lúc
này, chúng ta phải đối mặt các thách thức của q trình tồn cầu hóa khi nó trực
tiếp tác động tới văn hóa dân tộc. Cụ thể là, tác động của một số yếu tố tiêu cực
từ tồn cầu hóa có khả năng cổ súy cho lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hóa
nhân cách, rối loạn một số giá trị xã hội, đặt không ít hoạt động văn hóa và
khơng ít quan hệ xã hội trước nguy cơ bị thương mại hóa... Vì thế, hơn lúc nào
hết, văn hóa phải góp phần bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa đích thực, vì
sự phát triển của xã hội và con người, để thúc đẩy, hướng dẫn sự phát triển
trước những thách thức của tồn cầu hóa và mặt trái của kinh tế thị trường.
Như vậy, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở
rộng quan hệ quốc tế, muốn đạt tới các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn hiện nay và về lâu dài, một trong các vấn đề quan trọng trước hết là



13

chúng ta cần triển khai thực hiện các quan điểm như Nghị quyết Trung ương
(khóa VIII) và Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng
(khóa IX) khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ðó là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Ðiều
đó địi hỏi chúng ta cần tiếp tục củng cố, phát triển một nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; và văn hóa đó phải
là tổng hịa các tinh hoa văn hóa của các dân tộc anh em cùng chung sống trên
đất nước Việt Nam. Văn hóa đó phải giữ vị trí là bộ phận cấu thành bản chất
của xã hội, là bộ phận cấu thành phẩm chất của mỗi người trong xã hội. Văn
hóa đó phải trực tiếp góp phần xây dựng đất nước và con người Việt Nam của
thời đại mới

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội toàn quốc của Đảng,
2.Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội tồn quốc của Đảng.
3. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn 2011-2020 xu hướng và giải pháp, NXB CTQG, hà Nội.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình lý luận văn hóa
và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB LLCT-HC, Hà
Nội.
5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị, khối kiến thức thứ tư, Tập 14, Các chuyên đề bổ trợ

(Dành cho Học viện Trung tâm), NXBLLCT, Hà Nội.


14

6. Hồ Bá Thâm (200&), Sự phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với phát
triển kinh tế tạo ra sự phát triển bền vững, NXB Phương Đông, Hà Nội.
7. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, NXB KHXH, Hà Nội.



×