TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VIỆN KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
****
TIỂU LUẬN
LOGISTICS VÀ VẬN TẢI QUỐC TẾ
ĐỂ TÀI:
“ẢNH HƯỞNG CỦA COVID-19 ĐẾN CHUỖI CUNG ỨNG
THỰC PHẨM TẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM
Hà Nội, tháng 9/2021
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
MỤC LỤC
3
LỜI MỞ ĐẦU
Chuỗi cung ứng là một trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu trong thế kỷ
XXI. Chất lượng thực phẩm của nơng sản nói chung và thực phẩm nói riêng ln là
mối quan tâm của tồn thế giới, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến khơng chỉ sức khỏe
của người tiêu dùng mà cịn có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, đặc biệt là kim
ngạch xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia. Hiện nay, cả thế giới đang chao đảo trước một
đại dịch có sức tàn phá chưa từng có - đại dịch COVID-19 - bắt đầu từ năm 2019 và
đến nay vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Do sự lây lan của biến chủng Delta 2021 mà
hầu hết các nước Châu Á, đặc biệt là các nước Đơng Nam Á (trong đó có Việt Nam)
phải chịu những thiệt hại về y tế, sức khỏe và nền kinh tế đứt gãy nặng nề do giãn cách
xã hội. Một trong những vấn đề lớn nhất đặt ra lúc này là việc giải quyết chuỗi cung
ứng thực phẩm để đảm bảo sinh hoạt và nhu cầu cơ bản của con người.
Nhận thấy sự ảnh hưởng to lớn do đại dịch COVID-19 tác động lên chuỗi cung
ứng thực phẩm, chúng em lựa chọn phân tích đề tài “Ảnh hưởng của COVID-19 đến
chuỗi cung ứng thực phẩm Đông Nam Á”. Nhóm xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của
PGS.TS Vũ Sĩ Tuấn trong suốt q trình hồn thành bài nghiên cứu. Với nguồn tri
thức còn hạn hẹp, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, nhóm chúng em có thể gặp nhiều
sai sót. Chúng em mong sẽ được thầy góp ý để bài nghiên cứu hồn thiện hơn.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH COVID-19 VÀ CƠ
SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHUỖI CUNG ỨNG THỰC PHẨM
1.1. Tổng quan về dịch bệnh Covid-19 hiện nay
1.1.1. Covid-19 là gì?
Covid-19 (Coronavirus Disease 2019) là một bệnh truyền nhiễm do SARSCoV-2 gây hội chứng hơ hấp cấp tính nghiêm trọng. Trường hợp đầu tiên được biết
đến được xác định ở Vũ Hán, Trung Quốc, vào tháng 12 năm 2019. Căn bệnh này từ
đó lây lan trên tồn thế giới, dẫn đến đại dịch và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Dựa theo dịng chảy kinh tế có thể chia q trình từ lúc dịch bệnh bùng phát đến
nay thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: chính phủ áp dụng các chính sách khóa các hoạt động xã hội,
dẫn đến một cuộc suy thối kinh tế tồn cầu.
- Giai đoạn 2: các biện pháp tài khóa nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế, các biện
pháp kiểm dịch và giãn cách xã hội.
- Giai đoạn 3: chuyển sang phát triển, mua và phân phối vắc xin và các biện
pháp tài chính bổ sung để duy trì thu nhập hộ gia đình.
1.1.2. Thực trạng dịch bệnh Covid-19 hiện nay
Theo số liệu của tổ chức y tế thế giới, tính đến 9:48 sáng ngày 30 tháng 8 năm
2021 theo giờ CEST, đã có 216.229.741 trường hợp ghi nhận nhiễm Covid-19 trên 221
quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó 4.496.681 trường hợp tử vong. Tính đến ngày 24
tháng 8 năm 2021, tổng số 4.953.887.422 liều vắc xin đã được tiêm. Tại Đơng Nam Á,
có hơn 41 triệu ca nhiễm và 643.250 ca tử vong
Covid-19 ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực từ vĩ mơ như kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa cho đến các lĩnh vực đời sống con người như sức khỏe, tài chính,
nghề nghiệp. Có thể kể đến tăng trưởng GDP thế giới là -3,3% năm 2020, được dự
đoán là tăng 6% năm 2021 (Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF), hay tỷ lệ thất nghiệp là
6,6 % vào tháng 4 năm 2021 theo OECD.
1.2. Tổng quan về chuỗi cung ứng thực phẩm
1.2.1. Khái niệm
a. Khái niệm chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng là 1 mạng lưới (có thể lựa chọn) về phương tiện và phương
pháp để thực hiện các chức năng thu mua nguyên, phụ liệu… chuyển hóa chúng thành
sản phẩm trung gian và cuối cùng, rồi phân phối sản phẩm đó tới khách hàng.
b. Khái niệm chuỗi cung ứng thực phẩm
5
Chuỗi cung ứng thực phẩm là một hệ thống bao gồm tổ chức, con người, thông
tin, hoạt động và các nguồn lực liên quan đến quá trình chuyển đổi thực phẩm từ trang
trại nuôi trồng cho đến bàn ăn của con người.
1.2.2. Đặc điểm
- Thực phẩm có yêu cầu cao về độ tươi mới và tính an tồn vệ sinh (ATVS), dễ
hỏng trong điều kiện tự nhiên, chu kỳ sống sản phẩm ngắn. Do đó, các biện pháp kỹ
thuật và logistics duy trì số lượng, chất lượng tốn kém về chi phí và các nguồn lực
khác.
- Các nhóm mặt hàng khác nhau có các đặc điểm sinh học, yêu cầu về ATVS và
kinh doanh khác nhau nên cần ứng dụng liên kết và cấu trúc chuỗi cung ứng khác
nhau.
- Sản xuất nơng nghiệp có tính phân tán, quy mơ nhỏ nên các thành viên đầu
chuỗi thường là nhà sản xuất nhỏ, vốn ít, trình độ kinh doanh thấp, hạn chế tiếp cận
với công nghệ hiện đại.
- Nhu cầu tiêu dùng thực phẩm là quanh năm, có tính đều, quy mơ thị trường
lớn nhưng lại rất dàn trải, các chuỗi cung ứng thực phẩm khó phủ kín các khu vực thị
trường.
- Nhu cầu thị trường của các chuỗi cung ứng thực phẩm hồn tồn phụ thuộc
vào khả năng thanh tốn và nhận thức của người tiêu dùng. Nó cũng quyết định chất
lượng và giá bán thực phẩm đầu ra của chuỗi cung ứng.
1.2.3. Cấu trúc
Một chuỗi cung ứng thực phẩm thưởng bao gồm 5 giai đoạn. Đó là:
Giai đoạn 1: sản xuất. Các nguyên liệu, thịt, rau củ quả, thực phẩm, đồ uống
được sản xuất và thu mua, bao gồm cả động vật và thực vật.
Giai đoạn 2: chế biến. Nguyên liệu được chế biến, sơ chế thành dạng ăn được.
Giai đoạn 3: phân phối. Thực phẩm sẽ được vận chuyển, phân phối đến các nhà
phân phối bán lẻ/bán buôn. Các nhà phân phối bán các mặt hàng, quản lý hàng
tồn kho, giảm chi phí và thực hiện các công việc khác để tăng giá trị cho mặt
hàng thực phẩm.
Giai đoạn 4: bán lẻ. Đây là quá trình cung cấp các sản phẩm đến tay người tiêu
dùng. Bao gồm tất cả các công việc từ nhập các mặt hàng được phân phối đến
bán chúng đến tay người tiêu dùng.
Giai đoạn 5: tiêu thụ. Người tiêu dùng mua từ nhà bán lẻ và tiêu thụ thực
phẩm.
1.2.4. Phân loại
a. Chuỗi cung ứng thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế biến
6
Chuỗi thực phẩm tươi sống cung ứng các mặt hàng tươi sống như rau tươi, hoa,
trái cây, thịt tươi, thủy hải sản tươi sống.
Chuỗi thực phẩm chế biến cung ứng các nông sản đã qua chế biến, bị thay đổi
trạng thái tự nhiên thành mặt hàng thực phẩm phù hợp với u cầu tiêu dùng như đơng
lạnh, đóng hộp, nướng, sấy khô và thanh trùng.
b. Chuỗi cung ứng thực phẩm tổng hợp và chuyên biệt
Chuỗi cung ứng thực phẩm tổng hợp có khả năng cùng lúc cung ứng nhiều loại
mặt hàng thực phẩm, thường thuộc về các nhà bán lẻ tổng hợp và hỗn hợp.
Chuỗi cung ứng thực phẩm chuyên biệt cung cấp một nhóm các mặt hàng thực
phẩm có yêu cầu đặc biệt trong cung ứng như rau hoa quả, thịt và thủy hải sản tươi.
c. Chuỗi thực phẩm ngắn và chuỗi thực phẩm dài
Chuỗi cung phẩm ngắn thường phổ biến ở các nước phát triển giúp cải tạo mơi
trường, tăng hiệu quả quản lý VSATTP và duy trì sức khỏe người tiêu dùng.
Chuỗi thực phẩm dài có phạm vi vượt ra ngoài biên giới các nước để phục vụ
thị trường ở các khu vực và quốc gia khác nhau.
d. Chuỗi cung ứng thực phẩm khép kín
Chuỗi cung ứng thực phẩm khép kín chú trọng tới hiệu quả của chuỗi giá trị
thực phẩm trong mọi khâu sản xuất, chế biến, phân phối và tiêu dùng, yêu cầu giám sát
và truy xuất nguồn gốc thực phẩm từ trang trại đến bàn ăn.
7
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA COVID-19 ĐẾN CHUỖI CUNG ỨNG THỰC
PHẨM TẠI ĐÔNG NAM Á
2.1. Thực trạng chung của chuỗi cung ứng thực phẩm trên thế giới hiện nay
Ngày nay, nhu cầu về thực phẩm của con người ngày càng đa dạng và gia tăng
dẫn đến sự phát triển của chuỗi cung ứng thực phẩm. Theo số liệu thống kê từ The
Economist, ngành cơng nghiệp thực phẩm tồn cầu đóng góp đến 10% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của thế giới và khoảng 1,5 tỷ lao động làm việc trong lĩnh vực này.
Nguồn cung thực phẩm toàn cầu đã tăng gần gấp ba lần kể từ năm 1970, với dân số đã
tăng gấp đôi lên 7,7 tỷ người. Xuất khẩu thực phẩm đã tăng gấp sáu lần trong vòng 30
năm qua với 4/5 dân số sống một phần dựa vào nguồn cung thực phẩm được sản xuất
ở một quốc gia khác.
Cuối năm 2019, sự xuất hiện của dịch bệnh Covid-19 đã gây ra những cú sốc
cho tất cả các phân đoạn của chuỗi cung ứng thực phẩm, đồng thời ảnh hưởng đến sản
xuất nông trại, chế biến thực phẩm, vận chuyển và hậu cần cũng như nhu cầu cuối
cùng. Những quy tắc về giãn cách xã hội tác động lớn đến các giai đoạn trong chuỗi
cung ứng thực phẩm của nhiều quốc gia.
2.1.1. Sản xuất thực phẩm
Về nguồn cung, tình trạng thiếu hụt các yếu tố đầu quan trọng như: hạt giống,
phân bón, thuốc trừ sâu, năng lượng,… do các nguồn cung bị gián đoạn bởi Covid-19.
Về lao động, tình trạng thiếu lao động do bệnh tật và các biện pháp để ngăn
chặn sự lây lan của virus khiến nhiều công ty tạm ngưng hoạt động. Nhiều công ty báo
cáo tỷ lệ công nhân nghỉ việc cao. Số công nhân có thể đi làm đã giảm 30% trong các
cơ sở chế biến thịt của Pháp. Việc thiếu hụt lao động trầm trọng khiến cho Mỹ và châu
Âu cần hơn 1 triệu lao động nhập cư từ Mexico, Bắc Phi và Đông Âu để thu hoạch
nông sản.
2.1.2. Chế biến thực phẩm
Covid-19 đã làm gián đoạn các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Những
không gian hạn chế, đông người như các nhà máy đóng gói, cơ sở chế biến là mơi
trường lý tưởng để lây lan Covid-19. Các cụm Covid-19 đã được tìm thấy trong các
nhà máy chế biến thịt ở nhiều quốc gia khác nhau. Nhiều nhà máy chế biến thịt đã
ngừng hoạt động hoặc buộc phải hoạt động với công suất giảm. Tại Hoa Kỳ, lượng
8
giết mổ gia súc và thịt lợn đã giảm khoảng 40% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm
2019. Chế biến thịt có vẻ như bị ảnh hưởng hơn các loại chế biến thực phẩm khác,
một phần vì tính chất sử dụng nhiều lao động. Trong khi đó, xử lý và chế biến ngũ cốc
được tự động hóa cao và ít sử dụng lao động hơn, và không gặp phải những gián đoạn
như lĩnh vực chế biến thịt.
2.1.3. Phân phối thực phẩm
Những tắc nghẽn trong vận chuyển và hậu cần đã làm gián đoạn sự di chuyển
của sản phẩm dọc theo chuỗi cung ứng. Công suất vận chuyển hàng không tồn cầu
thấp hơn 26% so với cùng kỳ năm ngối. Sự gián đoạn này là do sự sụt giảm nghiêm
trọng của việc đi lại của hành khách, vốn chiếm phần lớn sức chở hàng hóa bằng
đường hàng khơng. Số lượng tàu container hiện thấp hơn 8% so với bình thường do
các hạn chế của Covid-19 như hạn chế về thay đổi thuyền viên, sàng lọc bổ sung, kiểm
dịch bắt buộc và giảm nhu cầu. Vận tải đường bộ trong tháng 4 thấp hơn khoảng 20%
so với bình thường ở Canada và Hoa Kỳ. Ở châu Âu, lưu lượng xe tải ban đầu giảm
hơn 50% ở Tây Ban Nha, 46% ở Pháp và 37% ở Ý, dù sau đó đã phục hồi.
2.1.4. Bán lẻ thực phẩm
Covid-19 đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong nhu cầu của người tiêu dùng.
Thay vì thường xun ra ngồi mua đồ tươi sống thì người tiêu dùng có nhu cầu tích
trữ lương thực nhiều hơn dẫn đến nhu cầu bán lẻ thực phẩm tăng vọt. Doanh số bán
thực phẩm đơng lạnh và đóng gói nói riêng đã tăng đáng kể: đỉnh điểm là vào nửa cuối
tháng 3/2020, doanh thu hàng tuần của thực phẩm đông lạnh cao hơn 63% so với năm
trước ở Pháp, trong khi ở Đức là 56%. Nhu cầu tương tự cũng tăng vọt ở các quốc gia
khác. Sau đợt tăng đột biến ban đầu này, nhu cầu bán lẻ đối với thực phẩm tươi sống,
đơng lạnh hoặc đóng gói vẫn cao hơn bình thường khoảng 15-20%.
2.1.5. Tiêu thụ thực phẩm
Các biện pháp giãn cách xã hội cũng đang cản trở khả năng tiếp cận của người
tiêu dùng với các nguồn thực phẩm, đặc biệt là ở các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề
bởi đại dịch. Số người phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng trên
thế giới có thể tăng lên từ 1,7% lên 3,4%. Khi các biện pháp khóa cửa và các gián
đoạn khác liên quan đến Covid-19 dẫn đến suy thối kinh tế tồn cầu, hàng triệu người
đang mất sinh kế hoặc giảm thu nhập nghiêm trọng. Vì vậy, mạng lưới an tồn xã hội
9
và các chương trình hỗ trợ lương thực là rất cần thiết để tránh gia tăng nạn đói và mất
an ninh lương thực.
Kết luận:
Mặc dù đã có những căng thẳng và vấn đề, nhưng nhìn chung, các chuỗi cung
ứng thực phẩm ở các nước phát triển đã chứng tỏ sự mạnh mẽ và khả năng phục hồi
đáng kể khi đối mặt với Covid-19. Các kệ hàng tạp hóa đã được bổ sung theo thời
gian, do người tiêu dùng giảm khối lượng mua thực phẩm sau khi dự trữ ban đầu và
khi các chuỗi cung ứng phản ứng với sự gia tăng đặc biệt của nhu cầu. Các tác nhân
khác nhau trong chuỗi cung ứng thực phẩm vẫn giữ các nguồn dự trữ an toàn đã được
giảm xuống để đáp ứng nhu cầu tăng đột biến. Ở cấp độ toàn cầu, dự trữ ngũ cốc cũng
lớn hơn đáng kể so với trước cuộc khủng hoảng giá lương thực 2007-2008.
2.2. Ảnh hưởng của Covid-19 đến chuỗi cung ứng thực phẩm tại Đông Nam Á
2.2.1. Ảnh hưởng của Covid-19 đến sản xuất thực phẩm tại Đông Nam Á
Nguồn cung:
Covid-19 gây ra nhiều vấn đề trong việc tìm kiếm đầu vào sản xuất. Tiếp cận
các đầu vào của nông trại - chẳng hạn như hạt giống, phân bón và các sản phẩm bảo vệ
thực vật - trở nên khó khăn. Tại Philippines, ngư dân ở Marawi báo cáo rằng khó có
được lưới đánh cá và các vật dụng đánh bắt khác trong khi các nơng hộ ở Basilan
khơng thể mua phân bón do các cửa hàng cung cấp chúng đã đóng cửa.
Tại Myanmar, những người chăn ni gia súc, gia cầm gặp khó khăn khi mua
thức ăn chăn nuôi trong thời gian lockdown. Các nhà chăn nuôi gia cầm thương mại
cũng phải đối mặt với nguồn cung gà con từ Trung Quốc bị gián đoạn lớn.
Người lao động:
Các biện pháp về giãn cách của chính phủ đã làm giảm lao động nhập cư trong
ngành cơng nghiệp thực phẩm, từ đó làm gián đoạn q trình sản xuất thực phẩm ở
Đơng Nam Á đặc biệt khi người lao động nhập cư có đóng góp đáng kể vào nền kinh
tế của các quốc gia Đông Nam Á. Phần lớn nhân lực tại các trang trại chăn nuôi gia
súc ở Singapore đến từ nước láng giềng Malaysia và khi Malaysia đóng cửa biên giới
để hạn chế sự lây lan của COVID-19, những công nhân này khơng thể qua biên giới để
làm việc. Điều đó làm giảm khoảng 30% công suất hoạt động tại các trang trại này.
Trước tình hình dịch bệnh, nơng dân khơng thể đến trang trại, nhà máy sản xuất
để làm việc hoặc nhà máy phải giới hạn số người làm việc. Điều này ảnh hưởng lớn
đến việc trồng các loại cây lương thực và các hoạt động sản xuất thâm dụng lao động.
10
11
Trước bối cảnh Covid 19
Đất nước
Brunei
Campuchia
Indonesia
Lào
Malaysia
Myanmar
Philippines
Singapore
Thái Lan
Đông Timor
Việt Nam
Đông Nam Á
% thay
Sản
Ước tính
đổi sản
Lượng
lượng
Năng suất số người Sản lượng
lượng sản lượng
nơng
lao động
lao động
nơng
nghiệp
nơng
nơng
nghiêp
nơng
(Tấn/người)
ước tính nghiệp do nghiệp
(Triệu
nghiệp
(triệu
tấn) giảm lao
giảm
tấn)
(triệu
động nơng (triệu tấn)
người)
nghiệp
2018
2018
2020
0.16
4.88
0.05
12.30
132.73
64.47
99.98
0.18
112.53
0.38
120.67
548.33
15.793
1.580
0.001
5.211
80.932
5.302
9.379
6.163
9.002
1.595
5.492
5.272
0.01
2.98
38.05
2.35
1.60
11.90
10.34
0.0296
12.16
0.24
21.13
100.77
2020
0.156
4.705
0.045
12.230
129.274
63.096
97.011
0.182
109.442
0.377
116.056
531.295
2020
-1.40%
-3.63%
-3.28%
-0.56%
-2.60%
-2.13%
-2.97%
-1.40%
-2.74%
-1.40%
-3.82%
-3.11%
-0.002
-0.177
-0.002
-0.069
-3.454
-1.373
-2.972
-0.003
-3.084
-0.005
-4.614
-17.034
Bảng 1: Ước tính giảm sản lượng nơng nghiệp do giảm lực lượng lao động nông
nghiệp ở Đông Nam Á năm 2020
Nguồn: ageconsearch.umn.edu
Trong số các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự suy giảm nguồn cung lao
động nông nghiệp là Việt Nam, Campuchia và Indonesia, với mức giảm ước tính về
sản lượng nơng nghiệp lần lượt là 3,82%, 3,63% và 3,28%.
2.2.2. Ảnh hưởng của Covid-19 đến chế biến thực phẩm tại Đông Nam Á
Các cơ sở chế biến thực phẩm là nơi mà nhiều ổ dịch bùng phát do công nhân
làm việc bên cạnh nhau với thời gian làm việc dài. Tình hình lực lượng lao động giảm
và việc áp dụng biện pháp chống lây nhiễm đã khiến quá trình chế biến bị tạm ngừng,
đình trệ. Cuối tháng 5/2021, Charoen Pokphand Foods Pcl, nhà sản xuất thịt lớn nhất
Thái Lan phải đóng cửa nhà máy ở tỉnh Saraburi trong 5 ngày do dịch bùng phát.
Qua bảng dưới từ Mill Survey, ta thấy 19% các nhà máy xát gạo đóng cửa trong
ít nhất 1 tuần, 46% giảm hoạt động. Các nhà máy xát gạo gặp khó khăn trong việc vận
12
chuyển, liên kết với các trang trại ở nông thôn - các vùng sản xuất lúa gạo hơn là vận
chuyển đến các trung tâm trao đổi hàng hóa và chợ đầu mối ở khu vực đô thị.
Bảng 2: Tỷ lệ thay đổi và gián đoạn của các nhà máy xay xát gạo tháng 8/2020
Nguồn: Mill Survey - MIMU (themimu.info)
2.2.3. Ảnh hưởng của Covid-19 đến phân phối thực phẩm tại Đông Nam Á
Việc các cơ sở cảng bị tắc nghẽn làm cản trở việc phân phối thực phẩm xuất
nhập khẩu đặc biệt khi vận tải biển chiếm khoảng 90% vận tải thương mại tồn cầu.
Do đại dịch, xếp dỡ hàng hóa địi hỏi nhiều thời gian và chi phí hơn. Các cảng bị tắc
nghẽn vì thiếu nhân cơng và phương tiện đi lại để di chuyển hàng hóa, thiếu kho bảo
quản lạnh đối với thực phẩm tươi sống, trong khi vận chuyển bằng đường bộ đến cảng
hoặc ra khỏi cảng không đáp ứng được. Sự chậm trễ kéo dài sẽ làm hỏng thực phẩm.
Trong tổng sản lượng xuất khẩu của Myanmar, xuất khẩu nông sản thực phẩm
bị ảnh hưởng nhiều nhất do phụ thuộc nhiều vào các thị trường Trung Quốc và Ấn Độ
- vốn cấm nhập khẩu sản phẩm từ Myanmar trong thời kỳ lockdown. Hoạt động
thương mại các sản phẩm nông sản trong nước cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ do các
lệnh hạn chế đi lại ở các nước trong khu vực Đơng Nam Á ví dụ Myanmar, Malaysia,
Philippine, Việt Nam,.... Hoạt động của thương lái giảm, nông dân gặp khó khăn trong
việc tiếp thị sản phẩm của mình tới nhà bán buôn, bán lẻ. Điều này phản ánh sự gián
đoạn với cả chuỗi cung ứng nội địa và hoạt động thương mại biên giới quốc tế.
Biểu đồ dưới đây khảo sát khả năng tiếp cận đầu vào, phương tiện vận chuyển
và tìm người mua thủy sản ở Myanmar. Tỷ lệ tiếp cận phương tiện vận chuyển cho nhu
cầu kinh doanh giảm khoảng 10% trong khoảng thời gian Myanmar thực hiện
lockdown từ 97% vào tháng 2 xuống 86% vào tháng 5. Tỷ lệ tiếp cận người mua giảm
mạnh xuống 72% vào tháng 6 trước khi phục hồi lên 80% vào tháng 7.
13
Biểu đồ 1: Tỷ lệ phần trăm khả năng tiếp cận đầu vào, phương tiện vận chuyển
và tìm người mua thủy sản (từ tháng 2-11/2020); ĐVT: %
Nguồn: digitalarchive.worldfishcentor.org
Biểu đồ 2: Các vấn đề phân phối và tiếp thị khi áp dụng lệnh hạn chế di chuyển ở
Malaysia
Nguồn: ap.fftc.org.tw
Nhìn vào biểu đồ về những vấn đề cụ thể mà ngành nông nghiệp đang gặp phải
có thể thấy rằng sự hạn chế về thị trường (chiếm 58%) và vận tải và phân phối (chiếm
13%) là vấn đề mà hầu hết các nhà cung ứng đều gặp phải. Kiểm soát di chuyển của
người dân tất yếu sẽ dẫn đến khó khăn trong việc phân phối sản phẩm tới các nhà bán
buôn, bán lẻ. Điều này làm cho chuỗi cung ứng thực phẩm Malaysia bị gián đoạn, sản
phẩm không thể thuận tiện di chuyển từ nhà sản xuất tới các nhà bán buôn, bán lẻ.
14
2.2.4. Ảnh hưởng của Covid-19 đến bán lẻ thực phẩm tại Đông Nam Á
Những gián đoạn trong việc vận chuyển do ảnh hưởng của Covid-19 dẫn đến
việc các siêu thị, cửa hàng khó tiếp cận các nguồn cung sản phẩm. Việc chuẩn bị
nguồn cung mặt hàng và phân phối đến tay người tiêu dùng tại Việt Nam, đặc biệt là
các tỉnh phía Nam do diễn biến phức tạp của dịch vào tháng 7-8/2021 vừa qua. Theo
lãnh đạo Sở Công Thương, một số xe chở hàng từ các tỉnh bị tắc nghẽn ở các trạm
kiểm soát khiến nguồn cung bị ảnh hưởng dẫn đến các siêu thị bị thiếu hàng do người
dân đổ xơ đi mua hàng tích trữ cho nhiều ngày. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc
thiếu hàng cung ứng cho các siêu thị bán lẻ là do việc lưu thơng gặp nhiều khó khăn
khi các tỉnh này u cầu tài xế chở hàng phải có giấy xét nghiệm RT-PCR âm tính
khiến chuỗi cung ứng chậm lại và tăng chi phí bán hàng cho doanh nghiệp.
Với tình hình phức tạp của dịch Covid-19, mua bán trực tuyến sẽ là kênh bán
hàng được ưa chuộng trong tương lai. Theo thống kê, doanh thu bán lẻ thực phẩm
thông qua thương mại điện tử của năm 2020 tại các quốc gia Đông Nam Á đã tăng gấp
nhiều lần so với năm 2015, đặc biệt là ở khu vực Việt Nam và Indonesia với mức tăng
hơn 200 triệu đô. Mức doanh thu dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn 2020-2025.
Biểu đồ 3: Doanh thu bán lẻ thực phẩm thông qua thương mại điện tử ở Đông
Nam Á các năm 2015-2020-2025
Nguồn: euromonitor.com
15
2.2.5. Ảnh hưởng của Covid-19 đến tiêu thụ thực phẩm tại Đơng Nam Á
Hình 1: Tác động của Covid-19 đối với người tiêu dùng của hệ thống thực phẩm
Nguồn: aciar.gov.au
Trước bối cảnh dịch Covid-19, số lượng khách hàng, số lượt mua hàng giảm
khiến nhiều doanh nghiệp đã phải đóng cửa. Theo ASEAN, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp và từ 50% đến 97% tổng số việc làm.
Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đóng cửa khiến tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc
làm gia tăng. Theo The Global Economy, tỷ lệ thất nghiệp trung bình tại 11 quốc gia
Đơng Nam Á năm 2020 là 3,55% so với mức 2,59% năm 2019. Tình hình này gây
giảm sức mua của nhiều hộ gia đình. Tại Philippines, từ tháng 3 đến đầu tháng 4/2020,
70% báo cáo thu nhập giảm và 44% báo cáo thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu cơ
bản của hộ gia đình, với 60% hộ gia đình giảm tiêu thụ thực phẩm.
Dịch bệnh Covid-19 khiến người tiêu dùng sử dụng các phương thức mua sắm
trực tuyến phổ biến hơn. Theo báo cáo hàng năm của Facebook và Bain & Co, khu
vực Đông Nam Á có thêm 70 triệu người mua sắm trực tuyến mới kể từ khi đại dịch
COVID-19 bùng phát. Chi tiêu trực tuyến trung bình trên tồn khu vực Đơng Nam Á
năm 2020 là 238 USD/người (khoảng 5,5 triệu đồng), vượt xa dự báo trước đó.
2.3. Đánh giá thực trạng
2.3.1. Dịch bệnh Covid-19 tạo ra nhiều thử thách cho sự phát triển của
chuỗi cung ứng thực phẩm tại Đông Nam Á
Qua tình hình chuỗi cung ứng thực phẩm ở Đơng Nam Á nêu trên có thể thấy
ngun nhân chính đến từ những hậu quả do Covid-19 gây ra và các chính sách của
chính phủ. Cụ thể hơn là thực trạng người lao động bị nhiễm Covid-19 ngày càng gia
tăng, khó kiểm sốt và khơng đồng đều giữa các quốc gia trong khu vực, giữa các
vùng trong một quốc gia và giữa các thời điểm khác nhau trong năm. Bên cạnh đó là
các chính sách mà chính phủ các nước đưa ra nhằm thuyên giảm ảnh hưởng của dịch
16
bệnh như chính sách giãn cách xã hội, hạn chế đi lại, đóng cửa giao thương giữa các
quốc gia.
Bên cạnh đó, khi xem xét 5 giai đoạn của chuỗi cung ứng thực phẩm là một
tổng thể, ta có thể rút ra kết luận các nhân tố của chuỗi cung ứng thực phẩm chịu ảnh
hưởng tiêu cực của Covid-19 là: năng suất lao động, thời gian, chi phí, quy mơ và sự
liên kết giữa các chủ thể. Nhân tố quy mô ở đây thể hiện sự thuyên giảm về số lượng
của nhiều thành phần như số nhà máy chế biến, số người lao động, nhu cầu tiêu thụ
giảm, thị trường thu hẹp. Đặc biệt nhân tố chịu ảnh hưởng nhiều nhất là sự liên kết
giữa các chủ thể như nhà sản xuất, nhà máy chế biến, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu
dùng. Sự hạn chế đi lại, chính sách đóng cửa đã làm giảm khả năng tiếp cận, đàm
phán, giao thương giữa các chủ thế.
Như vậy, đại dịch Covid-19 đã tạo ra nhiều thử thách, hạn chế với quy mô lớn,
lên nhiều lĩnh vực: kinh tế - xã hội - con người, và đòi hỏi sự kết hợp của nhiều bên,
nhiều nguồn lực tài chính, nhiều chính sách để có thể duy trì sự phát triển của chuỗi
cung ứng thực phẩm ở Đông Nam Á.
2.3.2. Những xu hướng mới mang tính cơ hội mà dịch bệnh Covid-19 mang
lại cho chuỗi cung ứng thực phẩm tại Đông Nam Á
Bên cạnh những thử thách, Covid-19 cũng mang lại những xu hướng mới mang
tính cơ hội đối với q trình bán lẻ, tiêu thụ thực phẩm nói riêng và chuỗi cung ứng
thực phẩm tại Đơng Nam Á nói chung. Dịch bệnh Covid-19 khiến người tiêu dùng hạn
chế khả năng mua hàng trực tiếp, góp phần thay đổi thói quen mua hàng truyền thống
của cả người tiêu dùng lớn tuổi sang mua sắm trực tuyến. Vì vậy các phương thức mua
sắm trực tuyến được sử dụng phổ biến hơn, các nhà bán lẻ có cơ hội đầu tư phát triển
phân phối hàng hóa qua nền tảng thương mại dịch vụ và giao hàng tận nhà.
Có thể thấy rõ sự phát triển của thương mại điện tử đang ngày càng mang lại
nhiều động lực cho sự phục hồi kinh tế vốn chịu tác động nghiêm trọng của đại dịch
Covid-19. Các nền tảng thương mại điện tử đã góp phần mở ra cơ hội mua sắm phong
phú, thuận tiện cho đối tượng tiêu dùng sống ở các thành phố nhỏ, phụ cận và cả khu
vực nông thôn; kết nối người tiêu dùng trẻ ở những vùng ven đô đến với nhiều thương
hiệu quốc tế.
17
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM DUY TRÌ CHUỖI CUNG ỨNG THỰC
PHẨM TRƯỚC ẢNH HƯỞNG CỦA COVID-19 TẠI ĐÔNG NAM Á
3.1. Các giải pháp đã được áp dụng
Biện pháp chung đặt ra ở Đông Nam Á
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) và Viện Nghiên
cứu Lúa quốc tế (IRRI) đã tổ chức một hội thảo trực tuyến với chủ đề “Tương lai của
các Hệ thống thực phẩm tại khu vực Đông Nam Á sau dịch COVID-19” thảo luận các
biện pháp tiềm năng để bảo vệ các hệ thống thực phẩm.
Đặt ra mục tiêu đảm bảo cung ứng sản phẩm an toàn và đủ dinh dưỡng. Gạo là
lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới, song phần lớn lượng gạo cung ứng
cho toàn cầu lại đang được sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ tại Đông Nam Á. Mặc dù
cả FAO và Viện Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế đã lên kế hoạch, bùng phát
COVID-19 có thể cũng gây ra nhiều gián đoạn cho các chuỗi cung ứng quan trọng của
an ninh lương thực.
Biện pháp nhằm giảm ảnh hưởng đến sản xuất, chế biến thực phẩm
Theo báo cáo của FwC, chính phủ Myanmar đã tuyên bố rằng họ sẽ sửa đổi hạn
ngạch xuất khẩu để đảm bảo an ninh lương thực trong nước, hạn ngạch xuất khẩu ở
Myanmar có thể sẽ giảm.
Biện pháp nhằm giảm ảnh hưởng đến phân phối thực phẩm
Tại Myanmar: Các doanh nghiệp lớn tự tìm cách lưu thơng sản phẩm của mình.
Ngày 09/01/2020 - Nestlé, công ty thực phẩm lớn nhất thế giới đã chỉ định DHL
Supply Chain (DHL), công ty dẫn đầu thị trường toàn cầu về các giải pháp hậu cần
theo hợp đồng, để quản lý hoạt động lưu kho cho các sản phẩm thực phẩm của mình.
Tại Malaysia: Bộ Nơng nghiệp đang hợp tác với Dropee, một thị trường giữa
doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B), để đảm bảo rằng việc phân phối thực phẩm
(như gạo, thịt, cá, rau và trái cây) được đầy đủ trong suốt thời gian gián đoạn do Covid
19 gây ra. Thị trường thương mại điện tử B2B của Dropee cho phép các nhà sản xuất
trên toàn quốc tiếp tục bán sản phẩm của họ cho các nhà bán buôn, bán lẻ và người
tiêu dùng trong suốt thời kỳ Covid, đồng thời cho sáng kiến này cung cấp một kênh
bán hàng thay thế cho các nhà sản xuất và nhà cung cấp để bán sản phẩm của họ trực
tuyến với số lượng lớn. Thông qua nền tảng của Dropee, người bán cũng có thể tiếp
cận hỗ trợ hậu cần, tài chính và bảo hiểm từ các đối tác chính của Dropee.
18
Tại Philippines: Thực thi các hạn chế hậu cần của địa phương tạo ra các nút thắt
trong chuỗi cung ứng. Ngày 17/03/2020, kiểm dịch cộng đồng tăng cường có hiệu lực
ở NCR và phần cịn lại của Luzon. Ngồi ra, Nghị quyết số 13 của IATF (ngày
17/03/2020) cùng với Nghị quyết của IATF, Bộ Nông nghiệp đã phát hành một biên
bản ghi nhớ nội bộ về 'Các thủ tục thực hiện liên quan đến Công nhận Làn đường
Thực phẩm' để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục phân phối hàng hóa nơng
nghiệp giữa các vùng nơng thơn và thành thị.
Biện pháp nhằm giảm ảnh hưởng đến bán lẻ thực phẩm
Tại Malaysia, tất cả các cơ sở kinh doanh sẽ phải đóng cửa, trừ siêu thị, chợ
truyền thống, cửa hàng tạp hóa và cửa hàng tiện lợi để duy trì khả năng cung ứng thực
phẩm cần thiết cho người dân.
Biện pháp nhằm giảm ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm
- Myanmar dựa vào sự hỗ trợ của Hội chữ thập đỏ Myanmar, đơn vị viện trợ nhân
đạo của ASEAN và các tổ chức trên thế giới. Chương trình Lương thực Thế giới
(WFP) của Liên hợp quốc ước tính rằng trong vịng sáu tháng tới, sẽ có thêm 3,4 triệu
người bị đói ở Myanmar và họ đã sẵn sàng tăng gấp ba lần hỗ trợ lương thực khẩn cấp.
Một chương trình qun góp lương thực cho cộng đồng cấp cơ sở đang được chứng
minh là có nhu cầu cao ở Yangon, thủ đô thương mại của Myanmar.
- Giảm giá lương thực, thực phẩm để người mua có khả năng mua.
- Ngày 31/05/2021, Malaysia đã tung ra gói kích thích kinh tế nhằm xử lý rủi ro
dịch COVID-19, chính phủ phân bổ 40 tỷ ringgit (gần 9.66 tỷ USD) để hỗ trợ người
dân.
- Các nhóm, tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức thuộc chính phủ mua hàng hóa, nhu
yếu phẩm để hỗ trợ người dân, giảm tình trạng tồn đọng hàng hóa.
Nhận xét:
Các biện pháp hiện tại chỉ mang tính tạm thời do tình trạng kinh tế, chính trị
hỗn loạn đã gây tác động rất lớn đến không chỉ chuỗi cung ứng thực phẩm mà còn ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống nhân dân.
Sáng kiến kỹ thuật số giúp các nhà sản xuất và nhà cung cấp duy trì sự phân
phối ổn định của nguồn cung cấp thực phẩm và giúp người tiêu dùng tiếp cận với các
sản phẩm an toàn, chất lượng và giá cả phải chăng. Bên cạnh đó, nguồn cung cấp
lương thực cạn kiệt, an ninh lương thực đã được quan tâm đúng mức.
3.2. Các giải pháp chung cho khu vực Đông Nam Á
Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á đã ủy quyền cho Deloitte thực hiện
một cuộc khảo sát về tác động của COVID-19 đối với hoạt động kinh doanh và chuỗi
cung ứng ở khu vực ASEAN và Ấn Độ. Mục đích chính của cuộc khảo sát là tìm hiểu
19
mức độ tác động của COVID-19 đối với chuỗi cung ứng ở khu vực Đơng Á và
ASEAN qua đó tìm ra giải pháp. Các quốc gia mục tiêu của cuộc khảo sát COVID-19
là Ấn Độ và ASEAN. Các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất và phi sản xuất.
Biện pháp 1: Giảm chi phí/ hoặc tối ưu hóa
Với tình trạng nhiều cơng ty đã cắt giảm lao động do khơng đủ chi phí để trả
lương, ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các khâu từ sản xuất đến chế biến, phân phối hay
tiêu thụ đều cần đến lực lượng nhân viên. Biện pháp này nhằm giảm hoặc tối ưu hóa
chi phí hoạt động cơng ty mà khơng phải cắt giảm nhân viên. Thường bao gồm cắt
giảm ngân sách tiếp thị, quảng cáo, khuyến mãi; giảm tải các sự kiện và hoạt động gắn
kết của nhân viên; thương lượng miễn hoặc giảm phí thuê tài sản.
Biện pháp 2: Xây dựng lại mối quan hệ với nhà cung cấp
Nhằm cải thiện tình trạng thiếu nguồn cung trong giai đoạn sản xuất, các cơng
ty có thể thay đổi tiến hành giao dịch với các nhà cung cấp. Biện pháp này thường bao
gồm ngừng giao dịch với các nhà cung cấp hiện tại, bắt đầu giao dịch với các nhà cung
cấp mới, thương lượng lại các thỏa thuận tài chính với các nhà cung cấp và thay đổi
các thỏa thuận hậu cần.
Biện pháp 3: Xây dựng lại mối quan hệ với khách hàng
Nhằm cải thiện đầu ra trong giai đoạn phân phối. Biện pháp này thường bao
gồm ngừng giao dịch với khách hàng hiện tại với một số lý do có thể kể đến như đóng
cửa biên giới ngừng giao dịch với những nước có tình hình dịch bệnh phức tạp, hay
các tỉnh thành phố với nhau trong nước phong tỏa, bắt đầu giao dịch với khách hàng
mới, thương lượng lại các thỏa thuận tài chính với nhà phân phối (ví dụ: điều khoản
thanh tốn) và giáo dục khách hàng chuyên sâu hơn.
Biện pháp 4: Tối ưu hóa mạng lưới chuỗi cung ứng
Để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng
thực phẩm chính là đảm bảo chuỗi cung ứng không bị gián đoạn trong tình hình dịch
bệnh thì tối ưu hóa chính là biện pháp có thể sử dụng. Tối ưu hóa bao gồm việc tối ưu
hóa hệ thống hàng tồn kho và cải thiện chi phí, chuỗi cung ứng để rút ngắn thời gian
tiếp tục hoạt động. Biện pháp này được coi là tiên tiến hơn và không phải là một nỗ
lực ngắn hạn mà là dài hạn.
Biện pháp 5: Tùy chọn số hóa chuỗi cung ứng
Trực tuyến khơng cịn xa lạ với mọi người khi đại dịch bùng phát. Đây chính là
cơng cụ an tồn cho con người nói chung và doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng thực
phẩm nói riêng trước virus. Số hóa là việc xây dựng nền tảng đặt dịch vụ trực tuyến,
20
chuyển doanh số bán hàng từ trực tiếp sang trực tuyến và tạo nền tảng giới thiệu sản
phẩm kỹ thuật số.
Biện pháp 6: Tùy chọn thiết kế hoạt động từ xa
Trong tình trạng dịch bệnh nguy cơ lây lan từ khơng khí, biện pháp này chính là
việc đảm bảo cho nhân cơng được an tồn và chuỗi cung ứng có thể khơng bị gián
đoạn do trong tất các khâu: sản xuất, chế biến,phân phối đều cần đến nhân công.
Vận hành hệ thống hoặc máy móc từ xa ở khoảng cách xa bao gồm sắp xếp làm việc
tại nhà, sử dụng nền tảng kỹ thuật số để hỗ trợ tạo điều kiện thảo luận trong nội bộ
hoặc bên ngoài và sử dụng lưu trữ dữ liệu trên nền tảng đám mây để truy cập từ xa vào
thông tin của công ty. Đây không những là biện pháp tạm thời mà còn chứng minh cho
sự tiên tiến trong vận hành thời đại cơng nghệ và có thể áp dụng lâu dài.
3.3. Bài học cho Việt Nam
Đối với giai đoạn sản xuất
Chính phủ nên thiết lập và vận hành các chiến lược cung cấp khẩn cấp để hỗ trợ
sản xuất. Các khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi dịch bệnh nên được bảo vệ bởi các
chương trình trợ cấp đầu vào tạm thời. Hỗ trợ kịp thời là điều cần thiết cho vụ mùa
gieo trồng, giảm thiểu sự gián đoạn đối với khâu sản xuất.
Bên cạnh đó, các hạn chế di chuyển và đóng cửa biên giới có ảnh hưởng tiêu
cực mạnh mẽ đến nguồn cung lao động nông nghiệp, do đó việc tạo điều kiện cho việc
di chuyển xuyên biên giới của người lao động nhập cư là rất quan trọng. Tuy nhiên,
cần khuyến khích, đào tạo người dân địa phương trở thành công nhân nông nghiệp để
giảm thiểu ảnh hưởng của việc hạn chế đối với người lao động nhập cư.
Đối với giai đoạn chế biến
Chuỗi cung ứng thực phẩm, đồ uống và hàng tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào
sự tham gia của con người. Tuy nhiên, những không gian hạn chế, đông người như các
nhà máy đóng gói, cơ sở chế biến là mơi trường lý tưởng để lây lan Covid-19. Vì vậy,
các nhà chế biến thực phẩm phải xem xét cẩn thận sự an toàn của nhân viên của họ.
Bên cạnh việc giảm số lượng nhân viên có mặt tại một thời điểm nhất định, các công
ty sản xuất cũng nên thực thi nghiêm ngặt các biện pháp và hướng dẫn phòng ngừa
theo quy định:
• Thực hiện giãn cách nhân viên hoặc dựng dải phân cách giữa các cơng nhân
bên trong nhà máy
• Đo thân nhiệt của nhân viên khi họ vào cơ sở
• Bắt buộc đeo khẩu trang và cách ly giao tiếp xã hội trong giờ nghỉ
21
Bên cạnh đó, các u cầu về an tồn và vệ sinh chung cần được nâng cao hơn
trong đại dịch. Sự an toàn của nhân viên phải được ưu tiên hàng đầu.
Đối với giai đoạn phân phối
Tầm quan trọng của các hoạt động hậu cần là rất lớn trong việc duy trì việc
cung cấp thực phẩm. Tuy nhiên, những tắc nghẽn trong vận chuyển và hậu cần đã làm
gián đoạn sự di chuyển của sản phẩm dọc theo chuỗi cung ứng. Do đó, cần đầu tư cơ
sở hạ tầng nhiều hơn để cho phép nhiều dịch vụ giám sát hơn, nâng cấp hệ thống vệ
sinh, tăng cường sử dụng tài liệu kỹ thuật số. Bên cạnh đó, cần tuân thủ kiểm soát vệ
sinh chặt chẽ trong lĩnh vực phân phối để ngăn chặn sự lây truyền của virus.
Đối với giai đoạn bán lẻ - tiêu thụ
Tình hình dịch bệnh phải giãn cách, các nhà bán lẻ thực phẩm và thị trường
thực phẩm đã mở rộng phạm vi tiếp cận của họ thông qua sự tham gia trực tuyến, với
khách hàng họ đã chuyển sang mua hàng điện tử như thực phẩm và hàng hóa thiết yếu
và sử dụng các dịch vụ giao hàng. Từ đó, đã tạo tiền đề phát triển nền dịch vụ thương
mại điện tử trong lĩnh vực cung ứng thực phẩm.
Dịch vụ thương mại điện tử đóng một vai trị quan trọng trong các hoạt động
tương tác và giao dịch giữa các chủ thể chuỗi cung ứng thực phẩm. Thương mại điện
tử cung cấp cơ hội để giảm các khoản chi phí và tăng nhu cầu của người tiêu dùng.
22
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, ta đã thấy tác động to lớn của COVID-19 đến chuỗi cung ứng
thực phẩm Đông Nam Á suốt 2 năm qua kể từ khi bùng dịch. Dịch COVID-19 đã gây
ra những ảnh hưởng chưa từng có tới khơng chỉ ngành y tế mà cịn có tác động tiêu
cực tới nền kinh tế. Sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng thực phẩm đã khiến cho các nước
phụ thuộc vào xuất khẩu các mặt hàng chủ lực giảm kim ngạch và ảnh hưởng tới việc
tiêu thụ và sản xuất trong nước. Không những thế, chuỗi cung ứng nội địa cũng bị tác
động lớn khi các nước thực hiện các lệnh giãn cách xã hội dài ngày để giảm sự lây lan
của virus trong cộng đồng.
Trước diễn biến khó đoán và phức tạp của các chủng virus mới, các quốc gia
đang và sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến chuỗi cung ứng. Các biện pháp
và chính sách của Chính phủ các nước đặt ra đã một phần giải quyết được sự thiếu
thốn và đứt gãy trong chuỗi cung ứng thực phẩm. Thời gian tới, trong khi các nước
Đơng Nam Á đang tích cực tiêm vaccine Covid-19 tạo miễn dịch cộng đồng, chúng ta
cần xác định sẽ sống chung với dịch và cần có những biện pháp tích cực hơn nữa để
giải quyết các vấn đề cịn tồn đọng hiện nay. Chính phủ các nước Đơng Nam Á cần có
những bước đi đảm bảo giữ vững ổn định nền kinh tế, đặc biệt là chuỗi cung ứng và
kiểm soát được dịch bệnh để vực dậy sự phát triển và giữ vững an ninh quốc gia, khu
vực.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WHO, (2021). WHO Coronavirus (COVID-19) Dashboard. [Online] World Health
Organization. Available at: [Accessed 30 August 2021].
2. OECD, (2021). Unemployment Rates, OECD. [Online] OECD.org. Available at:
/>[Accessed 30 August 2021].
3. Monica, J. (2021). How COVID-19 Affects Farmers and the Food Supply Chain.
[online] Tufts Now. Available at: [Accessed 10 September 2021].
4. Emil, F. (2020). Coronavirus Intensifies Food Security Concerns in Southeast Asia.
[online]
Euromonitor
International.
Available
at:
[Accessed 30 August 2021].
5. Hairuddin, A. (2020). Agriculture Food Supply Chain Scenario during the COVID19
Pandemic
in
Malaysia.
[online]
FFTCAP.
Available
at:
[Accessed 28 August 2021].
6. FAO. (2021). Rapid assessment of the impact of COVID-19 on food supply chains in
the
Philippines.
1st
ed.
[pdf]
FAO,
pp.66-67.
Available
at:
[Accessed 30 August 2021].
7. Neary, S. (2021). Industry Perspective: The Evolving Customer Experience. 1st ed.
[ebook] Facebook IQ, pp.7-11. Available at: />[Accessed 11 September 2021].
8. Agrilinks. (2020). Preventing Global Food Security Crisis under COVID-19. [online]
Available at: [Accessed 30 August 2021].
9. OECD. (2020). Food Supply Chains and COVID-19: Impacts and Policy Lessons.
[online] Available at: [Accessed 30 August
2021].
10. Artiga, S. and Rae, M. (2020). The COVID-19 Outbreak and Food Production
Workers:
Who
is
at
Risk?.
[online]
KFF.org.
Available
at:
[Accessed 30 August 2021]
11. Aday, S., 2020. Impact of COVID-19 on the food supply chain. Food Quality and
Safety,
[online]
4(4),
pp.167-180.
Available
[Accessed 30 August 2021].
at: