Khoa Luật Thương mại
Lớp Luật Thương mại 44A
BÀI TẬP THÁNG THỨ HAI
Bộ môn: Dân sự - pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VẬT CHẤT ĐƯỢC BỒI THƯỜNG KHI
TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM.......................................................................................1
Câu 1.1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi
tính mạng bị xâm phạm là:..............................................................................................1
Câu 1.2: Nghị quyết 03 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được bồi
thường khơng? Vì sao?...................................................................................................2
Câu 1.3: Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi
thường khơng? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?................................................2
Câu 1.4: Đoạn nào trong bản án của Tịa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án đã
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự lễ mai
táng khơng?..................................................................................................................... 3
Câu 1.5: Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai táng,
việc cho bồi thường có thuyết phục khơng? Vì sao?.......................................................3
Câu 1.6: Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí đó
có được bồi thường khơng? Vì sao?................................................................................3
Câu 1.7: Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp
dưỡng cho ai và không buộc gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng của ai? Đoạn nào
của bản án cho câu trả lời?..............................................................................................4
Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án liên quan đến tiền
cấp dưỡng.......................................................................................................................4
Câu 1.9: Trong bản án số 26, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một lần
hay nhiều lần?................................................................................................................. 5
Câu 1.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan đến
cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.........................................................................5
VẤN ĐỀ 2: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI PHÁT SINH TRONG TAI NẠN GIAO
THÔNG......................................................................................................................... 6
Câu 2.1: Thay đổi về các quy định liên quan tới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.....................................................7
Câu 2.2: Xe máy, ơ tơ có là nguồn nguy hiểm cao độ khơng? Vì sao?............................7
Câu 2.3: Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do
hành vi của con người gây ra? Vì sao?...........................................................................8
Câu 2.4: Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các
quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?............8
Câu 2.5: Suy nghĩ của anh/chị về việc tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.......................................................8
Câu 2.6: Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi thường
thiệt hại?......................................................................................................................... 9
Câu 2.7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại..........9
Câu 2.8: Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tịa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại khơng? Vì sao?...................................................................10
Câu 2.9: Theo Nghị quyết số 03, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi thường
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời............................................................................10
Câu 2.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tòa
giám đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh............................................11
Câu 2.11: Trong quyết đinh số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?........11
Câu 2.12: Ơng Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình khơng? Vì sao?.........11
Câu 2.13: Tịa án buộc ơng Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì sao? 11
Câu 2.14: Suy nghĩ của anh/chị có về việc Tịa án buộc ơng Khánh bồi thường cho anh
Bình?............................................................................................................................. 11
Câu 2.15: Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án cho
câu trả lời?.................................................................................................................... 12
Câu 2.16: Đoạn nào cho thấy Tịa giám đốc thẩm khơng theo hướng buộc ơngDũng và
ơngKhánh bồi thường tồn bộ thiệt hại cho anh Bình?.................................................12
Câu 2.17: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.......12
Câu 2.18: BLDS và Nghị quyết số 03 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không?.............13
Câu 2.19: Tịa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không? Đoạn nào của
quyết định cho câu trả lời?............................................................................................13
Câu 2.20: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép
chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại.
...................................................................................................................................... 13
VẤN ĐỀ 3: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HAY NGOÀI HỢP ĐỒNG.....15
Câu 3.1: Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng với
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.............................................................................16
Câu 3.2: Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và
bên yêu cầu bồi thường thiệt hại khơng? Vì sao?..........................................................16
Câu 3.3: Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?.....................................17
Câu 3.4: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên về
vấn đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi thường giữa
các bên.......................................................................................................................... 17
VẤN ĐỀ 4: BUỘC TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ..........................................19
Câu 4.1: Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương
đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?......................................................20
Câu 4.2: Hướng của Tịa án địa phương có được Tịa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?........................................................20
Câu 4.3: Vì sao tịa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết định
cho thấy câu trả lời?......................................................................................................20
Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao.........20
Câu 4.5: Đối với vụ việc trong Bản án số 01, bên bán có vi phạm nghĩa vụ giao cà phê
khơng? Vì sao?.............................................................................................................21
Câu 4.6: Tịa án có buộc bên bán phải tiếp tục giao cà phê không?..............................21
Câu 4.7: Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc bên bán phải tiếp
tục giao cà phê không? Nêu rõ cơ sở văn bản khi trả lời...............................................21
Câu 4.8: Cho biết những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa
BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang nghiên cứu...............................................22
VẤN ĐỀ 5: TÌM KIẾM TÀI LIỆU...............................................................................23
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về bồi thương thiệt hại ngoài
hợp đồng được cơng bố trên các tạp chí chun ngành Luật từ đầu năm 2017 đến nay
(ít nhất 20 bài). Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải
thỏa mãn những thông tin theo trật tự như đã yêu cầu trong buổi thảo luận thứ 3........23
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên................................25
1
VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI VẬT CHẤT ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
KHI TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/03/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.
Bị cáo Lay Bun Thy khoảng 18h ngày 16/7/2016 có mâu thuẫn với Quang và
Được tại quán “Hương Xưa” đã dùng súng bắn Được và Quang gây cho Được chết,
Quang bị thương. Lay Bun Thy là người trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của
người bị hại thì bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường. Cho nên tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm Tòa án nhân dân tỉnh An Giang buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho gia đình
người bị hại Được bao gồm: chi phí mai táng, tiền vé máy bay và tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần. Ngồi ra, cịn cấp dưỡng nuôi cháu Lê Thành Đạt con của Được đến lúc trưởng
thành.
Tóm tắt bản án: Số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 Tịa án Nhân dân tỉnh Vĩnh phúc.
Người bị hại: Anh Chu Văn D, sinh năm 1977 (đã chết). Người đại diện hợp pháp
của người bị hại: Ông Chu Đăng Đ, sinh năm 1955 (là bố người bị hại D). Bị cáo:
Nguyễn Văn A (tên gọi khác: A cong), sinh ngày 11/01/1997.
Lý do khởi kiện: Do có mâu thuẫn nên Nguyễn Văn A đã đánh anh Chu Văn D và
khiến anh tử vong. Tranh chấp: Bồi thường thiệt hại khi tính mạng bị xâm phạm.
Hướng giải quyết Tòa án: Tòa tuyên Nguyễn Văn A phạm tội “cố ý gây thương
tích”, tổng hợp hình phạt là 17 năm tù giam. Buộc bị cáo phải bồi thường chi phí mai
táng đối với người bị hại, bồi thường tổn thất về tinh thần cho gia đình người bị hại.
Đồng thời thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con của người bị hại đến khi đủ 18 tuổi.
Câu 1.1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất
khi tính mạng bị xâm phạm là:
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi tính
mạng bị xâm phạm là:
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể, người bồi thường ở BLDS 2005 là “người xâm
phạm” đã được thay bằng “người chịu trách nhiệm bồi thường”. Sự thay đổi này đã mở
rộng các đối tượng phải bồi thường, bao hàm cả các đối tượng không phải là người xâm
hại nhưng lại là đối tượng phải chịu trách nhiệm bồi thường trên thực tế.
Thứ hai, so với BLDS 2005 thì ở BLDS 2015, mức phạt bồi thường thiệt hại ở
các trường hợp đều có chiều hướng tăng lên nhằm nâng cao sự mạnh mẽ và tính răn đe
của pháp luật.
2
Bộ luật dân sự 2005
Khoản 2 Điều 609. Thiệt hại về sức khỏe
bị xâm phạm:
“2. Người xâm phạm sức khoẻ của người
khác phải bồi thường thiệt hại theo quy
định tại khoản 1 Điều này và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần
mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường
bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên
thoả thuận; nếu khơng thoả thuận được thì
mức tối đa không quá ba mươi tháng
lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
Bộ luật dân sự 2015
Khoản 2 Điều 590. Thiệt hại về sức khỏe
bị xâm phạm:
“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp sức khỏe của người khác
bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại
theo quy định tại khoản 1 Điều này và một
khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh
thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các
bên thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận
được thì mức tối đa cho một người có sức
khỏe bị xâm phạm khơng quá năm mươi
lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định.”
Câu 1.2: Nghị quyết 03 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được bồi
thường khơng? Vì sao?
Chi phí đi lại dự lễ tang chính là chi phí cúng tế thì theo Nghị quyết số
03 của HĐTP quy định chi phí đi lại dự lễ tang không được bồi thường. Cụ
thể tại khoản 2.2 Điều 2 trong phần xác định thiệt hại có quy định: “Chi phí
hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật
dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, nến, hoa, thuê xe tang và
các khoản chi phí khác phục vụ cho việc chơn cất hoặc hoả táng nạn nhân
theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế,
lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…”
Câu 1.3: Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi
thường khơng? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?
Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí dự lễ mai táng được bồi thường
Quyết
định
số
20/HĐTP-HS
ngày
24/12/2002
của
HĐTP
Tịa án nhân dân tối cao tóm tăt như sau: “Ngày 28/11/1998, Trần Văn
Bích điều khiển xe máy gây tai nạn cho chị Hạnh và hậu quả là chị Hạnh
chết. Gia đình nạn nhân buộc bị cáo bồi thường các khoản tiền hợp lí trong
mai táng trong đó có tiền chi phí máy bay cho 10 người thân của nạn
nhân…Theo quyết định của Tịa sơ thẩm và phúc thẩm thì chấp nhận bồi
thường trên nhưng có sự khác nhau về số tiền bồi thường. Nhưng theo
GĐT thì cần xem xét số người nói trên có quan hệ thân thích gần gủi với
nạn nhân như cha mẹ, vợ chồng, anh, chị, em ruột, con đẻ di bằng phương
tiện máy bay để kịp dự tan lễ.
3
Câu 1.4: Đoạn nào trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa
án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự
lễ mai táng khơng?
Tại đoạn ra quyết định của Tịa án nhân dân tỉnh An Giang: “ Buộc bị cáo Lay Bun
Thy có trách nhiệm bồi thường tiền chi phí mai táng, tiền tổn thất tinh thần cho người bị
hại Lê Văn Được tổng cồng là 242.400.000 đồng, có khấu trừ 150.000.000 đồng gia đình
bị cáo đã nộp tại quá trình điều tra, số tiền còn lại bị cáo phải nộp là 92.400.000 đồng”.
Số tiền buộc bị cáo phải bồi thường là 242.400.000 đồng bao gồm cả chi phí mai
táng 110.400.000 đồng, tiền vé máy bay từ Singapore về Việt Nam là 12.000.000 đồng và
cả tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 120.000.00 đồng. Qua số tiền Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang buộc bị cáo nộp có bao gồm cả tiền vé máy bay đó là chi phí đi lại dự lễ mai táng.
Câu 1.5: Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai
táng, việc cho bồi thường có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai tang, việc
cho bồi thường là thuyết phục vì căn cứ theo khoản 1 Điều 591 BLDS 2015 quy định về
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm:
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật
này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
Ở đây chi phí máy bay là chi phí hợp lý cho việc mai táng, đây là chi phí đi lại cho
người thân ở xa của bị hại từ Singapore về Việt Nam dự tang lễ. Vì từ Singapore về Việt
Nam chỉ có di chuyển bằng may bay mới tham dự kị tang lễ của bị hại Được cho nên
quyết định trên của Tòa là hợp lý.
Câu 1.6: Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí
đó có được bồi thường khơng? Vì sao?
Nếu chi phí cháu nạn nhân để dự tang lễ thì được bồi thường nhưng phải thỏa mãn
các điều kiện sau:
“Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên khơng có khả năng lao động,
khơng có tài sản để tự ni mình và khơng cịn người khác cấp dưỡng mà ơng bà nội, ơng
bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng” theo nghị định số: 03/2006/NQ-HĐTP.
4
Cụ thể, ví dụ Quyết định số 20/HĐTP-HS ngày 24/12/2002 của HĐTP Tịa án
nhân dân tối cao tóm tắt như sau: “Ngày 28/11/1998, Trần Văn Bích điều khiển xe máy
gây tai nạn cho chị Hạnh và hậu quả là chị Hanh chết. Gia đình nạn nhân buộc bị cáo bồi
thường các khoản tiền hợp lý trong mai tang trong đó có tiền chi phí máy bay cho 10
người thân của nạn nhân…” Theo Quyết định của Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm thì chấp
nhận bồi thường trên nhưng có sự khác nhau về số tiền bồi thường, trong vụ án ta có thể
thấy hai tịa xác định chi phí theo ước tính chứ khơng nêu cụ thể rõ ràng những người nào
là người được bồi thường. Tuy nhiên hướng giải quyết này lại khơng được Tịa giám đốc
thẩm chấp nhận. Theo Tịa giám đốc thẩm “Chi phí dự lễ tang cần được xem xét nhưng
chỉ chấp nhận đối với những người có quan hệ thân thích gần gũi với nạn nhân.”
Câu 1.7: Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền
cấp dưỡng cho ai và không buộc gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng của ai?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong bản án 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 về tội cố ý gây thương tích.
Tịa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng cho cháu Chu Đức
P (con của nạn nhân): “Buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
cho cháu Chu Đức P, sinh ngày 30/12/1999 là con chưa thành niên của người bị hại Chu
Văn D số tiền 605.000đ/01 tháng. Thời điểm cấp dưỡng kể từ tháng 10 năm 2016 cho đến
khi Chu Đức P đủ 18 tuổi”.
Người không được bồi thường tiền cấp dưỡng là Ông Chu Đăng Đ (bố nạn nhân)
và bà Trần Thị E (mẹ nạn nhân) “Đối với khoản tiền gia đình người bị hại Chu Văn D
yêu cầu là tiền nuôi dưỡng bố mẹ người bị hại về già do pháp luật không quy định nên
không được Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết”.
Trong bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017.
Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng cho cháu Lê Thành
Đạt (con của nạn nhân) cụ thể “Ngoài ra, cịn cấp dưỡng ni cháu Lê Thành Đạt, sinh
ngày 24/01/2016 (con anh Được) đến lúc trưởng thành (18 tuổi), mức cấp dưỡng bằng ½
tháng lương cơ bản của do Nhà nước quy định tại thời điểm thi hành án”.
Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án
liên quan đến tiền cấp dưỡng.
Trong BLDS và nghị định số 03/2006/NQ-HĐTP đều chưa cụ thể rõ số tiền người
gây thiệt hại bồi thường cấp dưỡng nên trong trường hợp này, Tòa án đã quyết định số
tiền cấp dưỡng “tương đương ½ mức lương cơ sở do pháp luật quy định” là đúng luật.
Măc dù, Tòa án đã xem xét đến tình trạng thu nhập của người phải bồi thường
thiệt hại, nhưng theo quan điểm của nhóm thì so với thời điểm hiện tại số tiền được cấp
dưỡng là khá ít, khó có thể đảm bảo được cuộc sống của người được cấp dưỡng. Đồng
thời, việc gây ra thiệt hại đến tính mạng đã ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của gia
5
đình họ về mặt lâu dài, mất đi một nguồn thu nhập chính vì thế cần có những khoản tiền
phù hợp hơn, đúng thời điểm của hiện tại để đảm bảo cuộc sống của người được cấp
dưỡng được ổn định. Bởi lẽ, người cịn sống sẽ khơng bao giờ có cuộc sống như trước
đây của họ dù cho có được bồi thường đi chăng nữa, dù có bồi thường như thế nào đi
chăng nữa thì người chết cũng khơng sống lại, không thể trở lại với hiện trạng ban đầu
được.
Câu 1.9: Trong bản án số 26, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một
lần hay nhiều lần?
Trong bản án số 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 về tội cố ý gây thương tích, Tịa
án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện nhiều lần. Cụ thể “Gia đình người bị hại
yêu cầu cấp dưỡng một lần, bị cáo không đồng ý và có đề nghị giải quyết theo quy định
của pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử cần buộc bị cáo phải cấp dưỡng hàng tháng là phù
hợp quy định của pháp luật”. Và Quyết định: “Buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Chu Đức P, sinh ngày 30/12/1999 là con chưa thành niên
của người bị hại Chu Văn D số tiền 605.000đ/tháng”.
Câu 1.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan
đến cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trong bản án số 26/2017/HSST ngày 29/05/2017 về tội cố ý gây thương tích, Tịa
án quyết định thời gian cấp dưỡng cho con của nạn nhân (cháu Chu Đức P) là đến khi
cháu P đủ 18 tuổi, điều này phù hợp với luật định (điểm b khoản 2 Điều 593 BLDS 2015)
và thời điểm bắt đầu là thời điểm tính mạng bị xâm phạm cũng phù hợp với luật định
(nghị định số 03/2006/NQ-HĐTP “Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm
tính mạng bị xâm phạm”. Mức tiền cấp dưỡng là 605.000đ/01 tháng và việc cấp dưỡng
được thực hiện nhiều lần. Theo quan điểm của nhóm em thì hướng giải quyết của Tịa án
về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là hợp lý vì việc cấp dưỡng nhằm thay thế
người chết thực hiện nghĩa vụ của mình nên việc xác định ngày phát sinh trách nhiệm cấp
dưỡng là ngày chết cũng là thoả đáng. Tiền cấp dưỡng là tiền mà phục vụ cho đời sống
của người được cấp dưỡng, khoản tiền này trải dài nên việc cấp dưỡng nhiều lần là hợp lý
vì đảm bảo cuộc sống cho người được cấp dưỡng.
6
VẤN ĐỀ 2: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI PHÁT SINH TRONG TAI NẠN
GIAO THƠNG
Tóm tắt Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tịa dân sự Tịa án nhân
dân tối cao
Anh Bình điều khiển xe đạp đi giữa hai làn đường dành cho xe cơ giới, khi nghe
thấy tiếng cịi xe phía sau đã tránh sang bên trái. Khi đó, ơng Dũng không làm chủ được
tốc độ, không đảm bảo khoảng cách an tồn, khơng làm chủ được tay lái nên va quệt với
xe đạp và kéo xe anh Bình 5-6m. Anh Khoa điều khiển ơ tơ phía sau khơng làm chủ được
tốc độ nên chèn qua xe đạp anh Bình và kéo rê gần 20m.
Tòa sơ thẩm, phúc thẩm đều xác định cả anh Bình (người có lỗi chính), ơng Dũng
và anh Khoa cùng gây ra tai nạn và thiệt hại cho anh Bình. Tịa phúc thẩm thuộc ơng
Dũng và anh Khánh (chủ ơ tơ) bồi thường tồn bộ.
Xét thấy, anh Khoa cũng có một phần lỗi; đồng thời Tịa khơng dành cho anh
Khánh quyền khởi kiện yêu cầu anh Khoa bồi thường số tiền mà anh Khánh bồi thường
cho anh Bình do lỗi của anh Khoa là chưa hợp lý. Quyết định hủy bản án phúc thẩm; xét
xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/09/2006 về vụ
án: " Nguyễn Thị Tuyết Trinh phạm tội giao cho người không đủ điều kiện điều
khiển các phương tiện giao thông đường bộ" của Tòa án nhân dân tối cao Tòa hình
sự.
Nguyễn Thị Tuyết Trinh nhờ Nguyễn Văn Giang chở bà Phê và bà Hi, khi đang
di chuyển thì đâm phải người bị hại là bà Nguyễn Thị Giỏi khiến bà tử vong (người đại
diện hợp pháp là Phùng Thị Vời). Tại bản án hình sự sơ thẩm xử phạt Nguyễn Thị Tuyết
Trinh 18 tháng tù về tội "giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện
giao thông đường bộ" nhưng được hưởng án treo; buộc bà Trinh, ông Dương Văn Mướt
và Nguyễn Văn Giang (do cha, mẹ là ông Nguyễn Văn Trường và Lê Thị Lài đại diện)
liên đưới bồi thường 7.857.000 đồng cho bà Phùng Thị Vời.
Tại bản án hình sự phúc thẩm đã giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với bà
Trinh, về trách nhiệm dân sự buộc bà Trinh, ông Dương Văn Mướt và Nguyễn Văn Giang
(do cha, mẹ là ông Nguyễn Văn Trường và bà Lê Thị Lài đại diện) liên đới bồi thường
25.357.000 đồng cho bà Phùng Thị Vời; buộc ông Nguyễn Văn Trường nộp 50.000 đồng
án phí hình sự phúc thẩm.
Tịa giám đốc thẩm quyết định: Hủy bản án hình sự phúc thẩm về quyết định
"Buộc Nguyễn Thị Tuyết Trinh, Dương Văn Mướt và Nguyễn Văn Giang do cha, mẹ là
ông Nguyễn Văn Trường, bà Lê Thị Lài đại diện phải có trách nhiệm liên đới bồi thường
7
thiệt hại cho nạn nhân do bà Phùng Thị Vời là con ruột nhận số tiền: 25.357.000 đồng" và
"Ông Nguyễn Văn Trường phải chịu 50.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm". Giao hồ sơ
vụ án cho Tòa an nhân dân tỉnh An Giang để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật. Các quyết định khác của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên tiếp tục có hiệu lực
pháp luật.
Câu 2.1: Thay đổi về các quy định liên quan tới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
Ở khoản 3 và khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 chỉ liệt kê hai chủ thể có thể có thể
liên đới chịu trách nhiệm bồi thường với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật là
nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, trong thực tế, việc giới hạn ở hai chủ thể là “chủ sở
hữu” và “người được” chủ sở hữu giao nguồn nguy hiểm cao độ đã thể hiện sự bất cập và
trong thực tiễn xét xử, Tòa án đã giải quyết theo hướng mở rộng danh sách chủ thể có thể
phải liên đớ chị trách nhiệm bồi thường thiệt hại1.
Vì thế, tại khoản 3 khoản 4 Điều 601 BLDS 2015 đã thay đoạn “người chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng” thành “người chiếm hữu, sử dụng”. Bởi lẽ, ai được giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ khơng quan trọng và người nào có lỗi để cho
nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải bồi thường cho
người bị thiệt hại. Đồng thời, để thống nhất với khoản 4, BLDS 2015 đã bỏ đi cụm từ
“chủ sở hữu” tại khoản 3 Điều 623 BLDS 2005. Hướng sửa đổi trên là thuyết phục, bao
quát được hết những trường hợp bồi thường, mở rộng chủ thể liên đới chịu trách nhiệm
bồi thường, bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại2.
Câu 2.2: Xe máy, ô tơ có là nguồn nguy hiểm cao độ khơng? Vì sao?
Hiện nay pháp luật hiện hành vẫn chưa có khái niệm chính thống về nguồn nguy
hiểm cao độ. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 quy định:
Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ,
chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ
khác do pháp luật quy định.
Để xác định được thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ thì cần phải làm rõ các khái
niệm trong quy định trên. Theo khoản 18 Điều 3 Luật giao thông đường bộ 2008 quy
định: “Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô;
máy kéo; rơ móoc hoặc sơ mi rơ móoc được kéo bởi ô tô, xe máy; xe mô tô hai bánh; xe
mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.”. Vì vậy, xe máy;
ô tô cũng là nguồn nguy hiểm cao độ.
1 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam 2016 (xuất bản lần thứ hai), tr. 487.
2 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam 2016 (xuất bản lần thứ hai), tr. 488.
8
Câu 2.3: Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do
hành vi của con người gây ra? Vì sao?
Đối với Quyết định số 30, thiệt hại do hành vi con người gây ra, đó là hành vi của
Nguyễn Văn Giang điều khiển xe mô tô gây ra tại nạn cho bà Giỏi đang đi bộ qua đường
làm bà bị chấn thương sọ não và chết trên đường. Xe moto trong trường hợp này là
phương tiện mà người điều khiển sử dụng gây ra thiệt hại.
Đối với Quyết định số 23, thiệt hại do hành vi con người gây ra. Vì anh Bình điều
khiển xe lấn hai làn đường cho xe cơ giới, đồng thời ông Dũng và anh Khoa không làm
chủ được tốc độ nên đã gây ra thiệt hại.
Câu 2.4: Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng
các quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Đoạn cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định của chế định bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là:
Đối với Quyết định số 30:
“Theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005 (Điều 627 BLDS 1995) về bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và hướng đẫn tại điểm b
khoản 2 mục III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “Trong trường hợp chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ giao khơng đúng quy định pháp luật thì chủ sỏ
hữu phải bồi thường thiệt hại”.
Đối với Quyết định số 23:
“Mặt khác như đã phân tích trên trong vụ án này anh Khoa cũng một phần
lỗi. Tòa án cấp phúc thẩm buộc chủ phương tiện là ông Khánh bồi thường
cho anh Bình là đúng, nhưng lại áp dụng khoản 3, Điều 627 là khơng chính
xác, mà phải áp dụng khoản 2 Điều 627 BLDS mới đúng”.
Câu 2.5: Suy nghĩ của anh/chị về việc tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo nhóm, việc Tịa án áp dụng các quy định của chế định bồ thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hợp lý nhưng chưa thật sự thuyết phục. Bởi lẽ có những
sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy…
bản thân hoạt động của nó ln tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung
quanh con người luôn sử dụng những phương tiện đó đê phục vụ cho mình và làm chủ
những cơng cụ đó.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc
biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt
động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc
9
dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể khơng có lỗi đối
với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại..
Đồng thời theo Điều 601 thì trách nhiệm của người chủ sở hữu luôn bị gắn liền
nhưng thật sự lỗi ở đây chưa chắc nhất thiết phải gắn liên với chủ sở hữu. Vậy nên dù
khơng có lỗi vẫn phải bồi thường, nhưng người bồi thường phải là người đang chiếm giữ
nguồn nguy hiểm cao độ chứ khơng phải cứ là chủ sở hữu thì phải bồi thường và vấn đề
lỗi đặt ra ở đây là lỗi của người đang chiếm giữ tài sản đó mới chính xác. Nói một cách
ngắn gọn lại, người đang chiếm giữ sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại dù
khơng có lỗi thì phải bồi thường trừ trường hợp lỗi hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại,
trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết hay pháp luật có quy định khác. Ai được
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không quan trọng và người nào có lỗi
để cho nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải bồi thường
cho người bị thiệt hại
Câu 2.6: Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi
thường thiệt hại?
Theo Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt
hại là: “Nguyễn Thị Tuyết Trinh giao nguồn nguy hiểm cao độ (xe môtô) cho Nguyễn
Văn Giang sử dụng trái pháp luạt, do đó Trinh là người có trách nhiệm bồi thường khi
thiệt hại xảy ra”
Câu 2.7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại.
Tòa buộc bà Trinh bồi thường là chưa hợp lý.
Theo khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 quy định về Năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân:
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà cịn cha, mẹ
thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không
đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì
lấy tài sản đó để bồi thường phần cịn thiếu, trừ trường hợp quy định tại
Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Trong trường hợp này Giang sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái với pháp luật.
Vì vậy khi gây ra tai nạn, Giang phải có trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của mình,
nếu khơng đủ tài sản thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu.
Đồng thời, theo khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 quy định về Bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
10
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái
pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, dù biết Giang không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ nhưng bà Trinh vẫn giao xe cho Giang sử dụng, nên cũng phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Do đó, trong vụ việc trên, bà Trinh và Giang phải liên đới chịu trách nhiệm bồi
thường chứ khơng phải chỉ có bà Trinh chịu trách nhiệm bồi thường.
Câu 2.8: Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tịa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại khơng? Vì sao?
Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tịa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại, vì hành vi của Giang có đủ các yếu tố làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
-Thiệt hại xảy ra: bà Giỏi bị chấn thương sọ não và chết trên đường đưa đi cấp
cứu.
-Có hành vi trái pháp luật: Giang điều khiển xe mô tô khi chưa đủ tuổi và đâm vào
bà Giỏi.
-Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra:
Giang điều khiển xe mô tô khi chưa đủ tuổi và đâm vào bà Giỏi, dẫn đến bà Giỏi bị chấn
thương sọ não và chết trên đường đưa đi cấp cứu.
-Có lỗi của người gây ra thiệt hại: Lái xe chở quá người quy định, điều khiển xe
mô tô khi chưa đủ tuổi, đâm xe vào bà Giỏi.
Câu 2.9: Theo Nghị quyết số 03, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi thường
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo khoản 2.2 mục II NQ 03/2006 NQ – HĐTP thì chi phí xây mộ và chụp ảnh
khơng được bồi thường. Chi phí xây mộ và chụp ảnh khơng được bồi thường đồng thời
cũng được ghi nhận ở khoản 1 Điều 610 BLDS 2005 quy định về Thiệt hại do tính mạng
bị xâm phạm:
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt
hại trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
11
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng.
Câu 2.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tịa
giám đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh.
Tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm xét xử theo hướng khơng bồi thường chi phí xây
mộ và chụp ảnh là khá hợp lý. Xét trong thực tiễn cuộc sống, chi phí cho việc xây mộ và
chụp ảnh là không thể xét theo một mức độ chung nào, tùy vào hồn cảnh của từng gia
đình mà chi phí sẽ ít hay nhiều. Vì vậy, nếu bắt buộc phải bồi thường chi phí sẽ phát sinh
nhiều tiêu cực ở những thành phần tham lam, lợi dụng việc trên để kiếm thêm khoản tiền
bồi thường như xây mộ rộng, thuê nhiều thợ chụp… sẽ làm tăng thêm chi phí bồi thường,
điều này là không công bằng đối với người bồi thường khi mất khoản tiền vô lý.
Câu 2.11: Trong quyết đinh số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?
Trong Quyết đinh số 23 đoạn cho thấy Bình là người bị thiệt hại: "Vì vậy, Tịa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ơng Dũng và anh
Khoa cùng có lỗi gây ra vụ án tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình (trong đó anh
Bình có lỗi chính) là có cơ sở đúng pháp luật".
Câu 2.12: Ông Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình khơng? Vì sao?
Ơng Khánh khơng trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình. Vì anh Khoa là người
điều khiển ô tô gây ra tai nạn, ông Khánh chỉ là chủ sở hữu của phương tiện và đã giao tài
sản cho anh Khoa sử dụng chứ không phải là người trực tiếp điều khiển phương tiện gây
ra thiệt hại.
Câu 2.13: Tịa án buộc ơng Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì
sao?
Tịa án buộc anh Khánh bồi thường với tư cách là chủ sở hữu nguồn gây nguy
hiểm cao độ. Vì căn cứ vào khoản 2 Điều 601 BLDS 2015: “2. Chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu
đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.”
Câu 2.14: Suy nghĩ của anh/chị có về việc Tịa án buộc ơng Khánh bồi thường cho
anh Bình?
Việc Tịa án buộc ơng Khánh bồi thường cho anh Bình là hợp lý, nếu anh Khoa là
người được ông Khánh thuê lái xe ô tô và được trả tiền công. Trong Quyết định số 23,
Tịa án dân sự khơng nêu rõ mối quan hệ giữa ông Khánh và anh Khoa, mà chỉ cho biết
ông Khánh là chủ sở hữu chiếc xe ô tơ gây tai nạn. Như vậy, có hai khả năng có thể xảy
ra: Anh Khoa là người làm cơng của ông Khánh hoặc ông Khoa là người được ông Bình
giao xe ô tô qua hợp đồng thuê tài sản. Căn cứ tiểu muc đ, Mục 2, Phần III, Nghị quyết số
12
03, nếu anh Khoa là người làm công cho anh Khánh, ông Khoa không phải là người
chiếm hữu, sử dụng ô tô đó mà ông Khánh vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, ơng Khánh
phải bồi thường. Ngược lại, nếu anh Khoa được ông Khánh giao xe ô tô thông qua hợp
đồng th tài sản, có nghĩa là ơng Khánh khơng cịn chiếm hữu, sử dụng xe ơ tơ đó mà
anh Khoa là người được ông Khánh giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp. Do đó, anh Khoa
phải bồi thường thiệt hại. Theo em, Tòa án nên xác định rõ trong quyết định mối quan hệ
giữa ông Khánh và anh Khoa trước khi áp dụng khoản 2 Điều 601 BLDS 2015.
Câu 2.15: Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời?
Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh. Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Vì
vậy, Tịa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ơng
Dũng và anh Khoa cùng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình (trong
đó anh Bình có lỗi chính) là có cơ sở đúng pháp luật.”
Câu 2.16: Đoạn nào cho thấy Tịa giám đốc thẩm khơng theo hướng buộc
ơngDũng và ơngKhánh bồi thường tồn bộ thiệt hại cho anh Bình?
Đoạn cho thấy Tịa giám đốc thẩm khơng theo hướng buộc ơng Dũng và ơng
Khánh bồithường tồn bộ thiệt hại cho anh Bình: “Nhưng lại buộc ơng Dũng và ơng
Khánh bồi thường tồn bộ, mà khơng xem xét đến trách nhiệm của anh Bình là khơng
chính xác”.
Câu 2.17: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa giám đốc thẩm.
Về hướng giải quyết khơng buộc ơng Dũng và ơng Khánh bồi thường hồntồn
thiệt hạicho anh Bình của Tòa Giám Đốc thẩm là hơp lý, nhưng Tòa cho rằng nguyên
nhân dẫn đến việc này là do có lỗi từ phía anh Bình là chưa thỏa đáng.
Vì xét về phía anh Bình, anh khơng có lỗi cố ý trong việc điều khiển xe đạp đi vào
phần đường giữa hai làn xe cơ giới, việc điều khiển xe đạp vào giữa hai làn xe cơ giới,
xuất phát từ việc ông Khánh (chủ ô tô tải) chở đầy gỗ đỗ ở giữa làn đường dành cho xe
cơ giới và xe thơ sơ. Cịn về phía ơng Dũng, ơng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại vì đã
khơng làm chủ được tốc độ và không tuân thủ khoảng cách an tồn, xét thấy việc khơng
tn thủ này của ơng Dũng có mối quan hệ trực tiếp đến việc anh Bình bị thương và vì
anh Bình khơng có lỗi cố ý, thiệt hại này xảy ra khơng hồn tồn do lỗi của anh Bình, nên
theo khoản 3 Điều 627BLDS 1995 thì ông Khánh và ông Dũng phải có trách nhiệm bồi
thường cho anh Bình.Nếu trong vụ việc này, chỉ có ơng Dũng và ơng Khánh gây ra thiệt
hại cho anh Bình thì hai người phải liên đới bồi thường tồn bộ, vì có căn cứ cho rằng
hậu quả xảy ra có nguyên nhân từ việc không tuân thủ luật ATGT của hai ơng. Nhưng vì
trong vụ việc này anh Khoa cũng có một phần lỗi, nhưng vì anh Bình khơng kiện đòi bồi
13
thường từ anh Khoa, nên dù bị anh Bình yêu cầu địi bồi thường thì hai người cũng có thể
chỉ phải bồi thường phần thiệt hại ứng với mức độ lỗi của mình, hoặc có thể bồi thường
tồn bộ, nhưng sau đó có quyền u câu anh Khoa hồn trả lại 1 phần ứng với lỗi của anh
Khoa.
Câu 2.18: BLDS và Nghị quyết số 03 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không?
BLDS và Nghị quyết số 03 khơng có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại.
Tuy nhiên, ta vẫn có thể vận dụng một số chế định khác trong phần này như: Bồi
thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra (Điều 622), bồi thường thiệt
hại do người của pháp nhân gây ra (Điều 618), bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức
gây ra (Điều 619),… để cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ (nếu thuộc trường
hợp mà điều luật quy định) yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong
việc gây thiệt hại hoàn trả khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại.
Câu 2.19: Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại khơng? Đoạn nào
của quyết định cho câu trả lời?
Tịa giám đốc thẩm đã theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền
mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại.
Đoạn của quyết định cho câu trả lời: “Đồng thời, Tịa án các cấp khơng dành cho
ơng Khánh quyền khởi kiện yêu cầu anh Khoa bồi thường cho ông Khánh số tiền mà ông
bồi thường cho anh Bình do lỗi của anh Khoa, nếu ông Khánh và ông Khoa không tự
thương lượng giải quyết được là không đảm bảo quyền lợi cho ông Khánh”.
Câu 2.20: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép
chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị
thiệt hại.
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp lý trong vụ án
14
được đề cập. Tuy nhiên, nhìn chung, hướng giải quyết này chỉ hợp lý trong trường hợp
người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc gây thiệt hại.
Mặc dù, như đã nêu ở trên, trong phần chế định bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra khơng có quy định về trách nhiệm hồn trả của người sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ nhưng trong đa số các trường hợp người sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ là người làm công hoặc người của pháp nhân,… Do đó, việc vận dụng kết
hợp cả hai chế định là hợp lý và cũng không vi phạm quy định nào khác. Nếu người sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì họ cũng nên chịu trách
nhiệm về hành vi có lỗi của mình, tức là hồn trả cho chủ sở hữu khoản tiền mà chủ sở
hữu đã bỏ ra để bồi thường thiệt hại. Điều này giúp bảo vệ tốt quyền lợi của chủ sở
hữu.Ngược lại, nếu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi hoàn
toàn khơng có lỗi thì khơng phải hồn trả cho chủ sở hữu.
15
VẤN ĐỀ 3: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HAY NGOÀI HỢP ĐỒNG
Tóm tắt quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/06/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao
Nguyên đơn là ông Nghinh, vay số tiền 2 triệu đồng của bị đơn là Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai - Chi nhánh Yên Đỗ lãi suất 2.5%/tháng và
thế chấp căn nhà để đảm bảo việc trả nợ. Khi hết thời hạn trả nợ, Ngân hàng tổ chức bán
đấu giá căn nhà trên để thu hồi nợ, ông Nghinh khởi kiện vì cho rằng Chi nhánh ngân
hàng đã tự ý phát mãi căn nhà mà không thông báo cho ông biết theo quy định của pháp
luật.
Quyết định của tịa sơ thẩm: đình chỉ vụ án về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”. Quyết định của tòa phúc thẩm: Giữ nguyên quyết định của tòa phúc
thẩm
Quyết định của tòa giám đốc thẩm: Xác định thời gian ông Nghinh khởi kiện vẫn
nằm trong thời hạn khởi kiện, kiểm tra q trình phát mãi nhà đất có đúng pháp luật
khơng, khi phát mãi gia đình ơng Nghinh có biết khơng, giảo vụ án cho Tịa án nhân dân
thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo quy định.
Tóm tắt Quyết định 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tịa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh
Ngun đơn: Bà Võ Thi Yến Phi. Bị đơn: Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại vì đã gây ra cái chết của
ông Bá (chồng nguyên đơn) với chứng cứ là những kết luận của cơ quan Thanh tra Bộ Y
tế tiến hành thanh tra sau khi ông Bá chết. Bên phía Bệnh viện khơng đồng ý với u cầu
của khởi kiện của bà Phi vì cho rằng đó khơng phải là lỗi của bệnh viện. Q trình điều
tra xét nghiệm nguyên nhân tử vong đã có kết luận khoa học nhưng hội đồng cảm thấy
nên khám nghiệm tử thi. Tuy nhiên phía ngun đơn khơng đồng ý. Do đó với kết quả
của các văn bản xét nghiêm thì nguyên nhân tử vong của ông Bá không phải do lỗi của
các bác sĩ và ê kíp phẫu thuật.
Bà Phi cho rằng ê kíp phẫu thuật gây nê cái chết của ông Bá nhưng không chứng
minh được, nên không thể kết luận ê kíp mổ đã có hành vi vi pham hoặc có lỗi (kể cả lỗi
vơ ý) gây nên cái chết của ông Bá. Như vậy, những người trực tiếp chữa trị cho bệnh
16
nhân Bá hồn tồn khơng có lỗi mà theo quy định của pháp luật thì khơng có lỗi của
người gây thiệt hại thì khơng có cơ sở để giải quyết bồi thường.
Luật sư phía nguyên đơn nêu ý kiến tuy nhiên Luật sư khơng chứng minh được
phía Bệnh viện có lỗi và có hành vi vi pham trong q trình phẫu thuật.
Tịa quyết định: khơng chấp nhân u cầu kháng cáo của nguyên đơn. Không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phi yêu cầu Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí
Minh bồi thường thiệt hại. Khơng chấp nhận yêu cầu của Bệnh viện đòi lại số tiền mà bà
Phi đã nhận.
Câu 3.1: Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh khi một bên vi phạm một phần hoặc nhiều phần
được quy định trong hợp đồng và việc phạt vi phạm đã được quy định trong hợp đồng.
Khi hành vi vi phạm này xảy ra nhưng chưa gây thiệt hại thì người vi phạm chưa phải bồi
thường, mà chỉ chịu trách nhiệm phạt vi phạm (nếu trong hợp đồng có thỏa thuận). Theo
hợp đồng, các bên có quyền đặt ra điều kiện phát sinh. Người vi phạm vẫn chịu trách
nhiệm ngay cả khi khơng có lỗi. Mức bồi thường có thể thấp hoặc cao hơn mức thiệt hại
xảy ra theo thỏa thuận đã nêu trong hợp đồng. Như vậy, một hành vi vi phạm những thỏa
thuận đã có trong hợp đồng, gây ra thiệt hại sẽ chịu trách nhiệm bồi thường dù chứng
minh mình có lỗi hay khơng. Mức bồi thường dựa theo thỏa thuận đã kí kết trong hợp
đồng.
Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khơng quy
định trong hợp đồng phát sinh khi một cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi gây thiệt hại và
có lỗi. Nghĩa là, nếu bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại đó chứng minh thiệt hại này
khơng phải do lỗi của mình, thì sẽ khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường, điều này là
khác biệt thứ nhất đối với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Câu 3.2: Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và
bên yêu cầu bồi thường thiệt hại khơng? Vì sao?
Ở vụ việc thứ nhất, Quyết định số 451/2011/DS-GĐT có tồn tại quan hệ hợp đồng
giữa bên bị thiệt hại và bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hợp đồng được các bên xác
lập ở đây là hợp đồng vay giữa Ngân hàng và ông Nghinh với số tiền 2.000.000 đồng, lãi
suất 2.5%/tháng, thời hạn 8 tháng, thời hạn trả cuối cùng 22/6/1995. Ngoài ra còn 1 hợp
đồng khác được ký kết là hợp đồng thế chấp của ông Nghinh cho Ngân hàng căn nhà số
13, phường Yên Đỗ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai để đảm bảo cho việc trả nợ.
17
Còn trong vụ việc thứ hai, Bản án số 750/2008/DSPT, khơng có quan hệ hợp đồng
tồn tại trong trường hợp này, việc ơng Trương Hồng Bá chết khơng nằm trong dự liệu
của bệnh viện, ê kíp mổ cũng như người nhà bệnh nhân, khơng có sự thỏa thuận hay ký
kết bất cứ hợp đồng nào trước đó.
Câu 3.3: Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?
Ở cả hai vụ việc thì Tịa án đã giải quyết theo hướng áp dụng quy định về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Ở Quyết định 451/2011/DS-GĐT, Tòa án cho rằng việc phát mãi nhà đất trong
trường hợp này nằm ngoài phạm vi hợp đồng mà trước đó các bên đã kí kết nên xác định
tranh chấp trên là tranh chấp bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
Ở bản án 705/2011/DSPT, Tịa xác định khơng có sự tồn tại của hợp đồng để ràng
buộc mối quan hệ giữa các bên, cho nên không áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng mà sử dụng chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết
tranh chấp.
Câu 3.4: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc
trên về vấn đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi
thường giữa các bên.
Về vụ việc thứ nhất - Quyết định số 451/2011/DS-GĐT, Tòa đã xác định quan hệ
pháp luật ở đây là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” nhưng không đưa ra
lập luận, căn cứ rõ ràng, không thuyết phục. Cụ thể, căn nhà (tức tài sản bị thiệt hại) là
đối tượng trong hợp đồng thế chấp giữa các đương sự, đồng thời cũng liên quan đến hợp
đồng vay của các bên. Vậy, mối liên hệ giữa hợp đồng và căn nhà là gì? Nếu ơng Nghinh
đã khơng vi phạm hợp đồng vậy Ngân hàng có được coi là vi phạm khi phát mãi căn nhà?
Tại sao không được áp dụng chế định về bồi thường vi phạm trong hợp đồng khi căn nhà
là đối tượng trong hợp đồng mà các bên đã ký kết? Tóm lại, Tịa án cần phải có sự giải
thích hợp lý, chi tiết hơn về điều này để làm rõ vấn đề, nhanh chóng giải quyết được vụ
việc.
Về vụ việc thứ hai - Bản án số 750/2008/DSPT, hướng giải quyết của Tòa án là
hợp lý, Tòa đã xác định đúng bản chất pháp lý của trường hợp này, do đã không tồn tại
hợp đồng giữa các bên nên xác định tranh chấp là trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng
phù hợp với quy định của pháp luật. Ngồi ra, Tịa Phúc thẩm cũng đã có căn cứ xác định
rõ trách nhiệm của các bên, đưa ra các quyết định chính xác, thuyết phục.
18
VẤN ĐỀ 4: BUỘC TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Tóm tắt Bản án số: 01/2010/DSST ngày 22/01/2010 về V/v: “Kiện tranh chấp hợp
đồng mua bán tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Krong Pắc.
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Phượng
Đồng bị đơn: ông Trần Duy Hữu và bà Trần Thị Thanh
Ông Trần Duy Hữu và bà Trần Thị Thanh xác lập 4 hợp đồng mua bán cà phê
nhân xô với bà Phượng. Bà Thanh, ông Hữu đã nhận của bà Phượng với tổng số tiền là
188.600.000 đồng, quy ra số lượng cà phê nhân xô đã quy chuẩn tại thời điểm nhận tiền
là 7.729,67 kg. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền, ông bà Thanh, Hữu đã không giao cà phê
cho bà Phượng đúng thời điểm giao hàng.
Xét ý kiến của bà Thanh và ơng Hữu cho rằng lí do chưa giao hàng cho bà Phượng
7.729,67 kg cà phê nhân xô đã quy chuẩn đúng thời hạn là vì làm ăn thua lỗ, hai ông bà
Thanh, Hữu xin giao trả số cà phê nói trên trong thời hạn nhiều năm.
Tịa chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phượng buộc ơng Hữu, bà Thanh
có trách nhiệm giao trả cho bà Phượng 7.729,67 kg cà phê nhân xô đã quy chuẩn.
Bác yêu cầu của ông Hữu, bà Thanh xin giao trả 7.729,67 kg cà phê nhân xô đạt
quy chuẩn cho bà Phượng trong thời hạn nhiều năm.
Tóm tắt Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 V/v: “Tranh chấp về
hợp đồng chuyển nhượng tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất” của Tịa kinh tế
Tịa án nhân dân tối cao.
Cơng ty TNHH Damool VINA (sau đây viết tắt là Công ty VINA) (bị đơn) có ký
hợp đồng với Cơng ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương (sau đây viết tắt là Công ty Hồng
Hà) (nguyên đơn) về việc chuyển nhượng tài sản và nhà xưởng gắn liền với quyền sử
dụng đất của cơng ty VINA. Trong q trình thực hiện hợp đồng, công ty VINA vi phạm
hợp đồng nên công ty Hồng Hà khởi kiện yêu cầu buộc công ty VINA nếu khơng thực
hiện hợp đồng thì phải thanh tốn cho công ty Hồng Hà tiền phạt theo thỏa thuận.
Hướng giải quyết của Tòa án: hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số
21/2010/KDTM-PT; công ty VINA đã vi phạm hợp đồng nên phải chịu đền bù 5% giá trị
hợp đồng.
19
Câu 4.1: Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa
phương đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?
“...Trước và trong q trình giải quyết vụ án, Cơng ty VINA đều từ chối việc thực
hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 và đồng ý chịu phạt 5% giá trị hợp đồng. Vì vậy Tịa án
cấp sơ thẩm và Tịa án cấp phúc thẩm buộc Cơng ty Hồng Hà Bình Dương và Công ty
VINA tiếp tục thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 là khơng đúng.”
Câu 4.2: Hướng của Tịa án địa phương có được Tịa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Hướng giải quyết của Tịa án địa phương khơng được Tịa án nhân dân tối cao
chấp nhận.
“...Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Cơng ty Hồng
Hà Bình Dương và Cơng ty VINA tiếp tục thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 là
khơng đúng.” và đoạn
“Ngồi ra, trong vụ án này, nguyên đơn và bị đơn tranh chấp "Hợp đồng nguyên
tắc chuyển nhượng tài sản và nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất số
007/09/DMVN-HHDT ngày 10/10/2009”, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
lại xác định là tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất" là
khơng đúng.”
Câu 4.3: Vì sao tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết
định cho thấy câu trả lời?
Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên sở dĩ là vì: Cơng ty VINA đã vi phạm
hợp đồng nguyên tắc số 007, nên phải chịu đền bù 5% giá trị hợp đồng theo như hai bên
đã thỏa thuận. Thêm và đó, trước và trong q trình giải quyết vụ án, công ty VINA đều
từ chối việc thực hiện hợp đồng và đồng ý chịu phạt 5% giá trị hợp đồng.
Đoạn trong Quyết định cho thấy câu trả lời:
“Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc cơng ty Hồng Hà Bình
Dương và Cơng ty VINA tiếp tục thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 là không đúng.”
Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
Theo nhóm, hướng giải quyết của Tịa là hợp lý. Bởi lẽ, yêu cầu của nguyên đơn là
buộc công ty VINA nếu khơng thực hiện hợp đồng thì phải thanh toán cho nguyên đơn
tiền phạt theo thỏa thuận. Và bị đơn đã chấp nhận chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và từ
chối việc thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007. Vì vậy, việc buộc hai bên tiếp tục thực
hiện hợp đồng là không cần thiết.
20
Câu 4.5: Đối với vụ việc trong Bản án số 01, bên bán có vi phạm nghĩa vụ giao cà
phê khơng? Vì sao?
Đối với vụ việc trong Bản án số 01, bên bán có vi phạm nghĩa vụ giao cà phê.
Bởi lẽ: việc ông bà Thanh Hữu đã không giao cà phê cho bà Phượng đúng thời
điểm giao hàng là vi phạm Điều 430 BLDS 2015 quy định về Hợp đồng mua bán tài sản
và khoản 1 Điều 434 BLDS 2015 quy định về Thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán:
“1. Thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán do các bên thỏa thuận. Bên bán
phải giao tài sản cho bên mua đúng thời hạn đã thỏa thuận; bên bán chỉ
được giao tài sản trước hoặc sau thời hạn nếu được bên mua đồng ý.”
Do vậy, bên bán đã vi phạm nghĩa vụ giao cà phê.
Câu 4.6: Tòa án có buộc bên bán phải tiếp tục giao cà phê khơng?
Tịa án có buộc bên bán phải tiếp tục giao cà phê.
Đoạn trong Bản án cho thấy điều đó:
“Căn cứ điều luật nêu trên, xét thấy việc chậm thực hiện nghĩa vụ giao hàng
của ông Hữu bà Thanh đã xâm hại đến quyền lợi của bà Phượng. Vì vậy,
HĐXX tuyên buộc bà Trần Thị Thanh và ông Trần Duy Hữu có trách nhiệm
giao trả cho bà Nguyễn Thị Phượng 7.729,67 kg cà phê nhân xơ đã quy
chẩn là hồn tồn thỏa đáng.”
Câu 4.7: Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc bên bán phải
tiếp tục giao cà phê không? Nêu rõ cơ sở văn bản khi trả lời.
Trên cơ sở văn bản, quy định cho phép Tòa án buộc bên bán phải tiếp tục giao cà
phê là:
Điều 352. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
“Khi bên có nghĩa vụ thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình thì bên có
quyền được u cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.”
Trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ: Với trách nhiệm này, bên vi phạm
hợp đồng phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên kia. Quy định này được
áp dụng cho tất cả các nghĩa vụ, theo đó bên có quyền có thể áp dụng để buộc bên có
nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ.