Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

SK một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp một ở tiểu học qua hoạt động trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.42 MB, 27 trang )

SÁNG KIẾN
ĐỀ TÀI: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một
ở Tiểu học qua Hoạt động trải nghiệm.”
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong giáo dục tiểu học, kỹ năng sống được hiểu cụ thể là tập hợp những kỹ năng
được rèn luyện để đáp ứng được những tình huống khác nhau trong cuộc sống và học tập
như ứng xử với thầy cô, bạn bè, cách giao tiếp, diễn đạt, kỹ năng tổ chức, quản lý đồ đạc,
chuẩn bị thức ăn, vệ sinh…Tại Việt Nam, kỹ năng sống đang ngày càng được quan tâm
nhưng hầu như chỉ tập trung vào kỹ năng học tập chứ chưa đi đúng bản chất của nó.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo
dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ” để
học sinh được phát triển tồn diện đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội . Rèn luyện kỹ
năng sống ở bậc Tiểu học không chỉ giúp trẻ hình thành nên những hành vi tích cực và
khả năng thích nghi với mọi hồn cảnh sống, tạo nên bản lĩnh của người thành công sau
này, mà còn giúp trẻ cảm thấy tự tin hơn để khám phá và tận hưởng cuộc sống một cách
trọn vẹn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng
là giáo dục lớn của dân tộc. Người đã để lại cho chúng ta nhiều quan điểm giáo dục có
giá trị, trong đó quan điểm “Học đi đôi với hành” là cơ sở khoa học, phương pháp luận
biện chứng và là qui luật của sự phát triển toàn diện nhân cách con người, phát triển nền
giáo dục Việt Nam hiện đại, tương lai. Vì thế đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị của quan
điểm đó có ý nghĩa sâu sắc và hết sức quan trọng định hướng lý luận cũng như chỉ đạo
thực tiễn giáo dục, đào tạo hiện nay.
Quan điểm “Học đi đơi với hành” có quan hệ chặt chẽ với quan điểm “Lý luận gắn
liền với thực tế”. Người chỉ ra: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm
vào lý luận. Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục,
Nghị quyết Đại hội XI Đảng đã xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi
mới cơ chế quản lý. Hoạt động trải nghiệm là một hoạt động giáo dục được Bộ Giáo dục
và Đào tạo xây dựng và đưa vào chương trình GDPT mới 2018, đây là một chương trình


1
Trang


giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, ở tiểu học gọi là Hoạt động trải nghiệm, ở Trung
học cơ sở và trung học phổ thông gọi là Hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp.
Hoạt động trải nghiệm là một nội dung chương trình GDPT mới 2018 được cho các
trường đăng ký nội dung thực hiện trong năm học 20202021. Nhà trường đang thực hiện
chương trình GDPT mới 2018 tiết học có sự tham gia của cộng đồng, cha mẹ học sinh
cùng tham gia các tiết học để giúp học sinh cùng cha mẹ đưa nội dung các tiết học sát với
thực tế hơn. Nhưng các tiết học mới chỉ áp dụng trong nhà trường chưa tổ chức ở ngoài
trường học, vậy làm thế nào để tổ chức cho học sinh trải nghiệm học các kiến thức ở môi
trường bên ngoài trường học đạt hiệu quả. Đây là nội dung chương trình mới địi hỏi phải
bỏ nhiều cơng sức nghiên cứu thực hiện. Việc rèn kỹ năng sống ở bậc tiểu học là một
nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm. Với cương vị
là người giáo viên, tôi hết sức băn khoăn và trăn trở, nhiều đêm luôn tự đặt câu hỏi: Làm
thế nào để nâng cao kỹ năng sống cho học sinh qua hoạt động trải nghiệm? Làm thế nào
để học sinh biết cách vận dụng kĩ năng sống vào trong cuộc sống hằng ngày? Với mong
muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, vì vậy tơi chọn đề tài: “Một số
biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một ở Tiểu học qua Hoạt động
trải nghiệm”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học
và Hoạt động trải nghiệm.
Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, các em
hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử văn hóa,
hiểu biết và chấp hành pháp luật…
Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc
lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho
các em những kỹ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng để tìm ra biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh thông qua các môn học và Hoạt động trải nghiệm lớp Một Trường Tiểu học Chi
Lăng.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
2
Trang


Tìm hiểu những cơ cở lí luận, cơ sở thực tiễn, những thuận lợi và khó khăn trong
việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kỹ năng sống.
Đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và
Hoạt động trải nghiệm.
Rút ra kết luận và bài học kinh nghiệm sau khi áp dụng đề tài.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Các tiết học hàng ngày, các tiết sinh hoạt, hoạt động ngoại khoá và Hoạt động trải
nghiệm,.…khối lớp Một Trường Tiểu học Chi Lăng.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp thực hành.
Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục.

3
Trang


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO

DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trong luật giáo dục Việt Nam năm 2005 điều 2 chương 3 đã quy định “Mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người phát triển tồn diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Trong đó, học để cùng chung sống được coi là một trụ cột quan trọng, then chốt của
giáo dục hiện đại, giúp con người có được thái độ hịa bình, khoan dung, hiểu biết và tôn
trọng lịch sử, truyền thống và những giá trị văn hóa tinh thần, bảo vệ mơi trường và tài
ngun thiên nhiên…
Cuộc sống hiện đại đã thúc đấy mọi hoạt động của con người trở nên gấp gáp hơn,
làm việc trong hối hả, nghỉ ngơi trong rộn ràng, thần kinh luôn căng thẳng và đặc biệt
chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường. Để sống, hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần tích
cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, con người nói chung và học sinh
nói riêng khơng thể khơng quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng sống nhằm thích ứng với
mọi biến động phức tạp của hoàn cảnh.
Thực hiện quyết định của Bộ GDĐT, các Sở GDĐT trong cả nước đã chỉ đạo các cơ
sở giáo dục, các trường học tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, tăng cường
nguồn lực trong và ngoài nhà trường cho giáo dục đạo đức, hình thành các chuẩn đạo
đức, chú ý giáo dục giá trị gia đình, văn hóa gia đình bên cạnh giáo dục lịng u nước và
truyền thống văn hóa dân tộc. Tập trung rèn luyện cho học sinh ý thức kỷ luật, tác phong
nhanh nhẹn, gọn gàng, ngăn nắp, tăng cường giáo dục kỹ năng tự phục vụ, thói quen vệ
sinh tốt, kỹ năng tự bảo vệ an toàn bản thân, mạnh dạn trong giao tiếp, thân thiện với bạn
bè, lễ phép với người lớn…
4
Trang



Kỹ năng sống được chia thành hai loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao. Kỹ
năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy…Kỹ năng
nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nó
bao gồm: Các kĩ năng tư duy lơgic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp,
so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi…
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được thể hiện qua các cách thức: Tích hợp
vào nội dung các bài học ở các môn học trên lớp. Thực hiện thông qua các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Ở lứa tuổi của các em nếu chỉ dạy kỹ năng sống thông qua các mơn học, qua lý
thuyết sng thì chưa đủ. Hãy gắn các em vào những hoạt động bổ ích, những việc làm
phù hợp với những hình thức linh hoạt, sáng tạo để thu hút trẻ.
Ở tiểu học nội dung chương trình Hoạt động trải nghiệm tập trung nhiều hơn vào
các hoạt động phát triển bản thân, kỹ năng sống, quan hệ với bạn bè, thầy cô và người
thân trong gia đình. Bên cạnh đó các hoạt động lao động và hoạt động xã hội và làm
quen với một số nghề gần gũi cũng được tổ chức thực hiện.
Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ
chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong
nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục. Qua đó
phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực và tích luỹ kinh
nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân.
Khái niệm này khẳng định vai trò chủ đạo của nhà giáo dục đối với hoạt động này;
tính tham gia trực tiếp, chủ động tích cực của học sinh; phạm vi các chủ đề hay nội dung
hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và tiềm năng sáng tạo và
hoạt động là phương thức cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Hoạt động trải nghiệm tạo cơ hội học sinh huy động tổng hợp kiến thức; kĩ năng
các môn học và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống gia đình,
nhà trường và xã hội tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động từ thiết kế hoạt
động đến chuẩn bị, thực hiện đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm, bày tỏ quan điểm, ý
tưởng sáng tạo, lựa chọn ý tưởng hoạt động, thể hiện và tự khẳng định bản thân, đánh giá
và tự đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm và của các bạn dưới sự hướng

5
Trang


dẫn, tổ chức của các nhà giáo dục, qua đó hình thành và phát triển những phẩm chất và
năng lực của học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm có vai trị, trách nhiệm quan trọng trong việc tổ chức các
hoạt động giáo dục để rèn kỹ năng sống cho học sinh vì giáo viên chủ nhiệm vừa là
người xác định mục tiêu, hướng đi cho các hoạt động giáo dục để đảm bảo đúng yêu cầu
cấp học, vừa là người đề ra kế hoạch tổ chức các hoạt động cho phù hợp với điều kiện cụ
thể, đáp ứng nhiệm vụ giáo dục trọng tâm của từng năm học và nhiệm vụ chính trị của
nhà trường và cũng là người tổ chức chỉ đạo thực hiện các hoạt động, chịu trách nhiệm
chủ đạo trong việc đánh giá rút kinh nghiệm, điều chỉnh các hoạt động sau này.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Khảo sát tài liệu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp Một.
Căn cứ nhiệm vụ năm học 2020 - 2021 của ngành, của trường về việc chú trọng
cho các học sinh mỗi tuần học 1 tiết kỹ năng sống chủ yêú rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống chủ yếu đang ở dạng tích hợp, lồng ghép trong một số mơn
cho nên chưa có nhiều thời gian để học sinh vận dụng nhiều. Các hoạt động tập thể về
giáo dục kỹ năng sống cơ bản mới bảo đảm được chiều rộng, đó là cung cấp thơng tin, lý
thuyết mà chưa đi sâu vào các tình huống thực tế.
Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội,
các em khơng chỉ biết học giỏi về kiến thức mà cịn phải được rèn luyện những kỹ năng
sống qua đó tạo cho các em một mơi trường lành mạnh, an tồn, tích cực, vui vẻ để trang
bị cho các em vốn kiến thức, kỹ năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.
Một số gia đình hồn tồn phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có
những gia đình có điều kiện kinh tế, q chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo,
luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn. Mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng
không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình hoặc có trẻ được

chiều chỉ làm theo ý của mình chứ khơng làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các
mơn văn hố nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kỹ năng sống biết phân biệt
cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số
tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội.

6
Trang


Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kỹ năng làm việc nhà, kỹ năng tự phục
vụ, kỹ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp phịng ở của chính
mình, khơng giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngồi việc học. Phụ huynh vì bận nhiều cơng
việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt
rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò
chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em
xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ
năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích
kỉ, khơng quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu
học là ngồi những kiến thức phổ thơng về Tốn, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học
điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành cơng dân có ích cho cộng đồng. Vì
thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn trở.
III. MỘT SỐ KỸ NĂNG SỐNG CẦN THIẾT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC:
Đây chính là nền tảng giúp học sinh rèn luyện bản thân và
hiểu được những phẩm chất quý giá của dân tộc mình: yêu nước,
nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Đồng thời hình thành
và phát triển các năng lực thiết yếu cho học sinh để từ đó giúp học
sinh phát huy và vận dụng tối đa khả năng của mình vào thực tiễn
qua một số kỹ năng cơ bản:
-


Kỹ năng ứng xử nơi học đường với bạn bè, thầy cô hay bạn khác lớp.

-

Các nghi thức giao tiếp căn bản và kỹ năng tạo dựng các mối quan hệ.

-

Kỹ năng trình bày và chia sẻ thơng tin.

-

Kỹ năng kể chuyện, thực hành kể chuyện.

-

Kỹ năng học trên lớp và tự học ở nhà để đạt hiệu quả tốt nhất.

-

Kỹ năng quản lý bản thân, tinh thần tự tôn và coi trọng giá trị của chính
mình.

-

Kỹ năng thích ứng với mọi môi trường, điều kiện sống khác nhau.

-

Kỹ năng đặt mục tiêu trong công việc, học tập và tạo động lực để đạt được.


-

Kỹ năng giải quyết vấn đề.

-

Kỹ năng làm việc đội nhóm, sinh hoạt tập thể.

-

Kỹ năng lãnh đạo và hành vi tích cực.

7
Trang


-

Tinh thần trách nhiệm và kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả.

-

Nhận thức giới tính và nhận thức cảm xúc học đường.

-

Kỹ năng tự phục vụ và chăm sóc bản thân.

8

Trang


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Hiện nay chúng ta trong thời đại Cơng nghệ 4.0, học sinh có những hiểu biết phong
phú nhờ truy cập Internet nhưng kỹ năng sống của các em còn nhiều hạn chế. Đa phần
các em học sinh ở trường tiểu học hiện nay đều thiếu kĩ năng sống, thiếu khả năng phân
tích và khả năng nhận thức đúng, sai các vấn đề dẫn đến lúng túng, khơng biết cách xử lý
các tình huống thường gặp trong cuộc sống.
* Đối với giáo viên:
Giáo viên thường tập trung lo lắng cho những em có những vấn đề về hành vi và
khả năng tập trung kém. Những học sinh này thường khơng có khả năng chờ đến lượt,
không biết chú ý lắng nghe và không biết làm việc theo nhóm, điều này làm cho học sinh
khơng thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất
nhiều thời gian đầu tư để giúp học sinh có được những kĩ năng sống cơ bản ở trường, ở
lớp.
* Đối với học sinh:
Để có cơ sở cho mục đích nghiên cứu đề tài, tơi đã chọn đối tượng nghiên cứu là
học sinh khối lớp Một, cụ thể là lớp Một 4 Trường tiểu học Chi Lăng do tôi chủ nhiệm.
Lớp Một 4 mà tôi nghiên cứu gồm có 46 học sinh. Vào đầu năm học, tôi đã tiến
hành trải nghiệm bằng cách đưa ra một số tình huống trong thực tế để các em tham gia
giải quyết xử lý tình huống (cá nhân, thảo luận nhóm). Qua quan sát tơi nhận thấy có
khoảng 50% học sinh mạnh dạn nêu ý kiến, 35% hợp tác làm việc nhóm, cịn lại đa phần
là các em ngồi nghe bạn mình nói. Bên cạnh đó, một bộ phận học sinh học tập thụ động,
chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cơ giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt
động và không tự tin phát biểu vì sợ mình trả lời sai.
Học sinh chỉ trú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong
cuộc sống kém, tính tự tin ít, ít nói, thường hay đánh bạn, gây gổ lẫn nhau.
Kỹ năng giao tiếp hạn chế, vẫn cịn hiện tượng nói tục, chửi bậy ở một số học sinh.
* Đối với phụ huynh:

Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng thực
hành xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho rằng con em mình
chỉ cần học giỏi kiến thức. Có phụ huynh nóng vội trong việc dạy con, họ chỉ chú trọng
9
Trang


đến việc dạy con mình biết đọc, biết viết, hoặc biết làm tốn mà khơng cần quan tâm đến
việc con học được kĩ năng sống nào khi đến trường.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm tịi kiến thức mà quên hướng cho
con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình.
Một bộ phận phụ huynh giao tiếp trong gia đình vẫn cịn hạn chế, xưng hơ chưa
chuẩn mực nên các em bắt chước xưng hô chưa đúng.
Đồng thời có phụ huynh chiều chuộng con cái khiến trẻ khơng có kỹ năng tự phục
vụ, phụ huynh chỉ chú ý đến khâu chăm con ăn uống mà không chú ý đến dạy con mình
cần ăn, uống như thế nào, sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống thế nào cho
đúng? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
* Đối với mơi trường địa phương:
Đa số học sinh nhà ở gần trường, kể cả hai cơ sở. Phụ huynh đi làm xa, công việc
rất bận rộn, thời gian làm việc thường tăng ca nhiều nên khơng có điều kiện đưa đón các
em. Nhiều học sinh phải ở nhà với ông bà nên thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Đây
chính là điều kiện tốt để các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các em nếu khơng có sự quản lý
tốt của nhà trường - gia đình - xã hội.
Từ những thực trạng trên đây, thì việc rèn kỹ năng sống cho học sinh qua Hoạt động
trải nghiệm là một việc làm vô cùng cần thiết để giúp cho các em say mê, hứng thú trong
học tập, các em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong việc thể hiện
những năng lực của bản thân.
Từ thực tiễn quá trình dạy học tơi đã tìm ra một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh qua Hoạt động trải nghiệm có hiệu quả cao nhất mà có thể đạt được.


10
Trang


CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Kỹ năng sống được giáo dục ở nhà và ở trường trong các môn học chính khóa và
ngoại khóa. Giáo dục kỹ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản
nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp dụng một số biện
pháp sau:

I. Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh lớp Một ở Tiểu học qua Hoạt động trải nghiệm.
Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp
sinh lớp Một ở Tiểu học qua Hoạt động trải nghiệm”. Trong việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh bậc học tiểu học do Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa vào trong chương trình
GDPT 2018. Qua đó giúp tơi hiểu được rằng chương trình học chính khố thường cho trẻ
tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt
nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận
thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và
các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả
năng tập trung vào việc học văn hố một cách tốt nhất.
Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần,
tích cực của học sinh, cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở
mỗi học sinh. Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh để các em
cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
Cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một
cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh
vực: thể chất, ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mĩ. Phát huy tính tích cực
của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tịi, biết vận dụng vốn kiến
thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.

Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong
lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình
bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các
em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc các
em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay khơng đối với mọi người xung quanh, cũng như
11
Trang


việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho
học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta
không phải xấu hổ vì những hành vi khơng đẹp của các em.
Thường xun liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi
với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn
bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
II. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Giáo viên
gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh.
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần
phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp Một. Thực tế
kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào
thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm sốt,
tính tự tin, tự lập, tị mị, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kĩ năng
cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm
để dạy trẻ.
Mỗi thầy giáo, cơ giáo muốn hồn thành nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm
trước hết phải có tình u thương học trị, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải hiểu
về tâm lý lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm cần am hiểu và
biết cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối
quan trọng để kết nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương sáng

cho học sinh noi theo về lời ăn, tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình độ chun
mơn, quan hệ với trò như người thân để trò cảm thấy vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy, kiên
trì giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu. Giáo viên chủ nhiệm không chỉ làm
công tác chuyên môn mà cịn phải có tình cảm để giải quyết những tình huống phát sinh
của học sinh trong lớp. Vì thế ngồi việc phải đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp
dẫn, sáng tạo, mới mẻ, gây hứng thú học tập cho học sinh. Và điều không thể thiếu là
người giáo viên chủ nhiệm phải có tâm huyết với nghề và tình yêu thương đối với học
sinh.
Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua cơng tác chủ
nhiệm lớp thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần:
12
Trang


- Tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thơng qua các hình thức dạy học
của mình, qua các giờ sinh hoạt để giáo dục đạo đức và nhân cách cho học sinh.
- Xây dựng hành vi giao tiếp giữa “Thầy với trò” rèn luyện kỹ năng ứng xử văn
hoá, lên án mọi hành vi bạo lực học đường và xã hội.
- Thường xuyên liên hệ với cha mẹ học sinh, kịp thời nắm bắt thông tin, cùng kết
hợp với cha mẹ học sinh rèn cho học sinh kỹ năng ứng xử văn hố, rèn luyện sức khoẻ
phịng chống bạo lực.
- Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ phát huy được tính tích cực trong việc
rèn luyện kĩ năng sống của thầy cô giáo và học sinh. Giáo dục cho học sinh nhận biết
được lợi ích của việc rèn luyện kỹ năng về mọi mặt: cho bản thân, gia đình, xã hội và đất
nước. Đồng thời biết quan tâm chia sẻ đến mọi người.
- Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự đổi mới phương pháp trong việc thực hiện công
tác chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh rèn luyện và tự rèn luyện. Coi trọng tự rèn
luyện của học sinh và động viên kịp thời.
- Cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được
đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể

hiện hay khơng thích...
- Qua những tuần học sau, giáo viên chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học
tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù
hợp.
- Gần gũi, thương yêu, trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu
hướng sở thích của học sinh, giúp các em nêu ra điều em muốn nói.
- Giáo viên chủ nhiệm là bạn với học sinh. Giờ ra chơi giáo viên dành một ít thời
gian để nói chuyện tham gia hoạt động cùng học sinh như hướng dẫn các em giải Lê Quý
Đôn trên báo Nhi đồng, giải tốn Vioedu,…trị chuyện về sở thích, kể chuyện vui,…tạo
cho các em sự hứng thú. Bên cạnh đó, có thể giúp các em luyện tập để tham gia thi đấu
giải cấp trường, cấp huyện về các phong trào trên.
III. Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy học sinh:
Kĩ năng sống tự tin: Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm
là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai,
cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp
trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
13
Trang


Kĩ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ
học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh
lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các
bạn.
Kĩ năng thích tị mị, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ
năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Người
giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tị mị tự nhiên
của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư
liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đốn
trước được.

Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng
của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế
giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí
chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa
học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các
em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là
yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng học mọi thứ.
Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay
sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng
trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết
tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn,
không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Tương tác: Các kỹ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề … được hình
thành tốt trong quá trình học sinh tiếp xúc với bạn bè và những người xung quanh. Tạo
điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và xem xét ý kiến của người khác...
Do vậy giáo viên cần tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác trong các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp để giáo dục kĩ năng sống cho các em.

14
Trang


Trải nghiệm: Cần phải có thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
cho học sinh được hoạt động thực, có cơ hội thể hiện ý tưởng, có cơ hội xử lí các tình
huống cũng như phản biện… kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học trải
nghiệm qua thực tế và nó có kỹ năng khi các em được làm việc đó.
IV. Giáo dục kỹ năng sống qua việc tích hợp vào các mơn học.
Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi đã vận dụng lồng ghép vào

khi giảng dạy các tiết học chính khóa, nhất là các mơn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Tự
nhiên xã hội; Hoạt động trải nghiệm; Hoạt động ngoài giờ lên lớp .... để trong những giờ
học đó các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
Trong chương trình lớp Một, ở mơn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ
năng sống cho các em, đó là các kỹ năng giao tiếp xã hội, như: Học vần, Tập đọc, Kể
chuyện, Tự nhiên xã hội, Đạo đức... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Tơi
chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hồn tồn khơng gị bó áp đặt.
Bên cạnh đó, nhiều bài Kể chuyện mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kỹ năng giao
tiếp cộng đồng. Cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội
dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi
học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm,
phương pháp hỏi đáp,…Thơng qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn
kỹ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học sinh có được cơ hội rèn luyện,
thực hành nhiều kỹ năng sống cần thiết.
Các kỹ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài học
như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kỹ năng làm việc đồng đội. Giáo viên luôn tạo
khơng khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh
dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm.
Ví dụ khi dạy bài Học vần ăn, ăt, có bài Tập đọc “Ở nhà Hà”. Trong bài này dạy
cho học sinh biết được là ở nhà mỗi người đều có một việc trong ngày. Lịch làm việc
buổi sáng của mỗi người thế nào? Bố làm cái gì? Má làm gì? Hà giúp má làm gì? Bà đưa
ai đi nhà trẻ?

15
Trang


Giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Trong bài “Ở nhà Hà” em biết được thêm

đều gì? Gia đình của Hà có mấy người? Em hãy kể về gia đình của em có mấy người?
Mỗi người có một công việc, mỗi người được trải nghiệm khác nhau.
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm,
niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học
đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho
học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh;
quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trị chơi, đóng
tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh, …Sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học
tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trị chơi, …Và chính thơng qua việc
sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để
thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống
lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như
gọn gàng, ngăn nắp, nói lời hay, làm việc tốt, chăm sóc bố mẹ, ơng bà, hợp tác, giúp đỡ,
chia sẻ với bạn…
Ví dụ bài: “Tự giác làm việc của mình”. Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm,
chơi trị chơi “Nhìn hành động nhóm, đoán việc làm” thao tác khi thực hiện một việc gì
đó (qt nhà, rửa bát, lau bàn, lau bảng,…). Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em
nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã
tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích
cực vào q trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến
hay để giải quyết một vấn đề nào đó. Khơng nên ỷ lại vào nguời khác. Khi tự giác làm
việc của mình, em sẽ mau tiến bộ và được mọi người yêu quý.

Hoạt động “Em tập quét nhà”

16
Trang


Ví dụ mơn Tự nhiên xã hội có bài “An tồn trên đường”, giáo viên cho các em thảo

luận nhóm, chơi trị chơi về một số tình huống để đảm bảo an toàn trên đường và khi đi
đường phải đi sát phần lề đường để an toàn khi đi trên đường. Tôi đã giáo dục các em
thông qua các tiết học này hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thơng và các
thương tích khác bằng tồn cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí.
Ví dụ mơn Hoạt động trải nghiệm có bài “Em tự chọn trang phục và đồ dùng” khi
dạy bài này giáo viên sẽ hướng dẫn cho cách chọn trang phục phù hợp với thời tiết và
môi trường. Đồng thời, giáo viên cũng giáo dục các em phải biết tự bảo vệ bản thân khi
đi ra đường bằng cách mặc áo khoác, đeo khẩu trang, rửa tay sát khuẩn thường xuyên để
phòng chống dịch bệnh Covit. Luyện tập cho các em kỹ năng xếp áo quần và cất gọn
gàng, các em sẽ làm theo ý mình và được trải nghiệm sao cho gọn gàng.

Hoạt động “Em tự chọn trang phục và đồ dùng”

V. Giáo dục kỹ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động tập thể vui chơi
ngoài giờ lên lớp.
Để rèn kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả giáo viên cần vận dụng thơng qua
các hoạt động ngồi giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp. Thói quen
hành vi và kỹ năng chỉ được hình thành thuận lợi khi các em có điều kiện tham gia các
hoạt động. Trong khi tham gia các hoạt động các em sẽ gặp những tình huống cụ thể của
cuộc sống buộc phải tự tìm cách giải quyết bằng trí tuệ và sức lực của mình. Từ đó giúp
các em hiểu, biết cách làm và cách tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực.
Trong tiết sinh hoạt tập thể hàng tuần, tôi đã dành hẳn 35- 40 phút để tổ chức giờ
hoạt động trải nghiệm cho các em. Để thực hiện có hiệu quả tơi phải trang bị những hoạt
động đó cho phù hợp với từng chủ điểm. Ngồi những hoạt động trên tơi cịn đọc cho các
em nghe những mẫu chuyện hay trong sách, trên Báo Nhi đồng, truyện tranh, …tơi cịn

17
Trang



lồng ghép những mẫu chuyện, truyện tranh, có tính giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Các em rất hứng thú và đều mong đến tiết sinh hoạt tập thể để nghe, tham gia hoạt động.
Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11, Đội đã phát động phong
trào thi văn nghệ, làm thiệp, viết chữ đẹp giữa các lớp trong toàn trường. Giáo viên là
người hướng dẫn các em cùng sưu tầm tranh ảnh theo chủ đề để dán trang trí thiệp cho
đẹp. Hoạt động này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: sưu tầm, sắp xếp, trình bày, trang
trí,…Các em tham gia nhiệt tình, đồn kết và hợp tác rất tốt thảo luận và tìm tịi ra ý
tưởng trang trí thiệp sáng tạo theo đúng chủ đề chào mừng 20 /11.

Học sinh tham gia biểu diễn văn nghệ

Tổ chức cho các em tham gia lao động vệ sinh hàng ngày, hàng tuần, trồng và chăm
sóc tưới cây của lớp đồng thời trường còn phát động phong trào “trường học không rác,
lớp học không rác” để rèn các em thói quen giữ vệ sinh và qua đó tập cho các em tinh
thần ý thức trách nhiệm vì cơng việc chung. Đó là điều khơng thể thiếu để tạo sự hưng
phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kỹ năng bản
thân. Bên cạnh đó, để rèn kỹ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học
xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn các em
trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh hàng ngày.

18
Trang


Học sinh tham gia lao động vệ sinh vườn trường.

Bên cạnh đó, qua thực nghiệm (1 nhóm học sinh) cho thấy hoạt động trải nghiệm
làm nông dân cũng đem đến cho các em học sinh cơ hội học tập, khám phá cuộc sống và
tích lũy các kỹ năng sống cần thiết. Các em học sinh được giới thiệu và trực tiếp tham gia
vào các hoạt động hàng ngày của người nơng dân.


Thơng
hoạt
thực hoạt
tế này,
emngày
đã của
có cái
nhìn
cận
cảnh hơn về cuộc
Họcqua
sinhcác
tham
gia động
trải nghiệm
độngcác
hàng
người
nông
dân.
sống của người nông dân Việt Nam, hiểu thêm về mồ hôi, công sức lao động của người
nông dân để có được bữa cơm mà các em ăn mỗi ngày. Từ đó, các em biết quý trọng giá
trị sức lao động, biết trân trọng những gì mà gia đình và nhà trường đã và đang mang lại
cho mình. Những hoạt động sôi nổi trong một ngày trải nghiệm cũng đồng thời góp phần
giúp các em rèn luyện sức khỏe, phát huy tinh thần đồn kết, gắn bó và đặc biệt là có
thêm vốn kiến thức “nhà nơng” cực kì bổ ích.
Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh thông qua các Hoạt động trải
nghiệm để các em có thể vui chơi, thoải mái và học được nhiều điều hay.
VI. Giáo viên tuyên truyền đến phụ huynh học sinh tạo môi trường thực hiện nhiệm

vụ rèn kỹ năng sống:
Rèn kỹ năng sống được thực hiện mọi lúc mọi nơi, giáo dục kỹ năng sống được
giáo dục trong mọi mơi trường như gia đình, nhà trường, xã hội. Cần phải tạo điều kiện
tối đa cho học sinh tham gia vào các tình huống thật trong cuộc sống.
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử cơng bằng với
các em và đảm bảo an tồn cho các em. Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi. Giáo
viên, phụ huynh ln khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với
các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọ n của mình, cố
gắng khơng chỉ trích các quyết định của các em . Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm
sốt bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các buổi
19
Trang


thảo luận tại trường sau này. Giáo viên, phụ huynh giúp các em phát triển sở thích, ý
thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em
thực hiện ý thích đó.
Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh được thực hành kỹ năng sống. Bản
thân đã trang bị được những kiến thức vào đời cho các em vững vàng hơn, không cần lệ
thuộc vào, ba mẹ, tự giác làm việc của mình.
Ví dụ: Một số học sinh thích ca hát, nhảy múa thì phụ huynh cũng tạo điều kiện cho
các em được, thời đại công nghệ 4.0. Chỉ cần phụ huynh bật qua YouTube sẽ giúp các em
biết và thuộc lời những bài hát, múa, nhảy, vẽ,…để các em có thể tham gia các hoạt động
văn nghệ do trường, quận tổ chức.
Giáo viên, phụ huynh cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống. Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp
đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, khơng vội
vã, khơng khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu…
tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ
và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.

VII. Động viên, khen thưởng.
Trẻ em ln thích được khen, được thưởng, được động viên khuyến khích. Nắm bắt
được tâm lí đó nên với mỗi học sinh có tiến bộ trong học tập hay trong kỹ năng sống đều
được tôi khen ngay trước lớp và tôi cũng ln động viên khuyến khích các em khác noi
gương bạn. Vì thế nên ngày càng có nhiều học sinh phát triển theo chiều hướng tích cực.
Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng
những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi u cầu điều gì đó với học sinh. Để
động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kỹ năng, ngay từ buổi
họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp mình
phụ trách. Trao đổi với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp cùng phối hợp. Bản thân theo
dõi hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần
cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được tặng một bơng hoa chăm ngoan.
Vì vậy, các em thi đua nhau “Nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều
em được khen thưởng. Mỗi học kì, bản thân tổng kết để khen thưởng những em đã đạt
nhiều bông hoa chăm ngoan bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi
được tặng những bông hoa chăm ngoan và những món q của cơ giáo tặng. Vì thế các
20
Trang


em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cô giáo
thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ
nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc
sống.

Hình ảnh động viên, khen thưởng các em chăm ngoan.

Tóm lại, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, người giáo viên giữ một vai trò rất
quan trọng. Vai trò của giáo viên cũng như người làm vườn, trồng cây. Tuy khơng đúng
hồn tồn nhưng hoạt động của giáo viên gần như người trồng cây, chăm sóc, vun trồng

cây giống. Người làm vườn khơng thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc, tạo điều
kiện cho hạt giống nảy mầm. Cho nên, bản thân là một giáo viên tôi luôn tâm niệm dạy
dỗ giáo dục cho các em trở thành những con người hữu ích cho xã hội để xứng đáng với
những hình ảnh tốt đẹp mà xã hội ban tặng “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất
cả các nghề vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. Bằng nhiều hình thức khác
nhau, tơi ln cố gắng rèn cho học sinh những kỹ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ
nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người
lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp.

21
Trang


CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG
NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN
I. Kết quả thực hiện:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt
được một số kết quả trong việc dạy các kĩ năng sống cơ bản. Trong các tiết học trên lớp
các em hào hứng, tích cực hoạt động hơn, các em biết chăm chú lắng nghe, thực hành
một cách tương đối chính xác, mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Đặc biệt học sinh tự
tin cố gắng vươn lên trong học tập, rất nhiều học sinh tiến bộ một cách rõ rệt. Giáo dục
kỹ năng sống đã thay đổi thái độ, hành vi của học sinh như: Có kỹ năng ứng xử khéo léo,
sống và giao tiếp tự tin, có trách nhiệm bản thân, gia đình.
Bảng kết quả của học sinh tính đến thời điểm hiện tại (Cuối HKI)
ST
T

Nội dung


Đầu năm

HKI

1

Kỹ năng trình bày và chia sẻ
20/46 HS, đạt 43.4 %
thông tin.

30/46 HS, đạt 65.2 %

2

Mạnh dạn tự tin

30/46 HS, đạt 65.2 %

20/46 HS, đạt 43.4 %

22
Trang


4

Kỹ năng kể chuyện, thực hành
15 HS, đạt 32.6 %
kể chuyện.


25/46 HS, đạt 54.3 %

3

Kỹ năng hợp tác

19/46 HS, đạt 41,3 %

40/46 HS, đạt 86.9 %

4

Kỹ năng giải quyết vấn đề.

21/46 HS, đạt 45.6%

28/46 HS, đạt 60.8 %

5

Kỹ năng giao tiếp

22/46 HS, đạt 47.8 %

38/46 HS, đạt 82.6 %

6

Kỹ năng tự lập, tự phục vụ


25/46 HS, đạt 54.3 %

40/46 HS, đạt 86.9 %

7

Kỹ năng tự chăm sóc bản thân.

22/46 HS, đạt 47.8 %

32/46 HS, đạt 69.5 %

8

Kỹ năng thích khám phá học hỏi

19/46 HS, đạt 41.3 %

30/46 HS, đạt 65.2 %

9

Kỹ năng tự kiểm soát bản thân

25/46 HS, đạt 54.3 %

37/46 HS, đạt 80.4 %

10


Kỹ năng xã hội

20/46 HS, đạt 43.4 %

37/46 HS, đạt 80.4 %

II. Hiệu quả phổ biến:
Đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hiện nay về dạy kỹ năng sống cho học sinh qua
Hoạt động trải nghiệm.
Tạo mơi trường học tập thân thiện, thích thú.
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc phụ huynh đã giúp tôi
đã áp dụng sáng kiến vào học sinh khối 1 cụ thể là lớp Một 4 và đạt được kết quả trong
việc dạy các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả tốt.
III. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, đề nghị Phòng giáo dục tổ chức nhiều
buổi chuyên đề về tiết dạy lồng ghép giáo dục và dạy kỹ năng sống cho học sinh qua các
tiết hoạt động trải nghiệm, để giáo viên có điều kiện giao lưu, học hỏi, rút kinh nghiệm.
Nhà trường tạo điều kiện tốt về chính sách, cũng như cơ sở vật chất thuận lợi giúp
giáo viên có điều kiện tốt hơn trong cơng tác dạy kỹ năng sống cho học sinh qua hoạt
động trải nghiệm.

23
Trang


CHƯƠNG V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Với những kết quả đạt được, bản thân tôi chỉ muốn nêu lên những kinh nghiệm
chung nhất do nghiên cứu tài liệu. Do tích luỹ được trong suốt quá trình thời gian giảng

dạy với mong muốn gửi các đồng nghiệp, cha mẹ trẻ những thông điệp mang tính thuyết
phục với một số điều cần làm. Dạy kỹ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức
cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tơi
luyện những kỹ năng sống qua đó tạo cho các em một mơi trường lành mạnh, an tồn,
tích cực, vui vẻ. Việc giáo dục kỹ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để
trang bị cho các em vốn kiến thức, kỹ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời.
Chính vì vậy, các thầy cơ giáo tiểu học ln giữ vai trị vơ cùng quan trọng. Vì thế theo
bản thân để làm tốt việc rèn kỹ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải:
Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
24
Trang


Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy các kỹ năng
giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
Tập trung vào việc đầu tư sọan giảng, lồng ghép kỹ năng sống vào các môn học.
Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt các buổi
hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn
mực, phải hết lịng thương yêu, gần gũi với học sinh.
Hiểu được đặc điểm tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh.
Có kế hoạch nghiên cứu đặc điểm của từng gia đình và đặc điểm của từng học sinh
của lớp chủ nhiệm.
Cần năng động, sáng tạo, luôn cập nhật thông tin thường xuyên để có biện pháp
giáo dục phù hợp với từng giai đoạn hiện nay.
Tạo tiếng cười trong mỗi giờ học xố đi khơng khí căng thẳng. Khơng những thế,
tiếng cười cịn tạo ra sự hưng phấn để kích thích suy nghĩ. Những người thơng minh
thường có tính hài hước, chính sự hài hước lại tác động vào não để kích thích tư duy. Vì
vậy, trong q trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng tính hài hước để thu hút sự chú ý
của học sinh, làm tăng tính hấp dẫn của vấn đề cần truyền đạt, giúp quá trình hình thành

kiến thức diễn ra tự nhiên và nhẹ nhàng, đem lại kết quả cao. Bên cạnh đó, khơng khí lớp
học trở nên thân thiện hơn, có hứng thú để bắt đầu những tiết học khác, và để mỗi ngày
đến trường là một niềm vui.

CHƯƠNG VI. LỜI KẾT
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua Hoạt động trải nghiệm tạo mối quan
hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy, trò, sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập,
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định
được bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội. Giáo dục kỹ
năng sống cịn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của người thầy. Học sinh học
kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của người thầy. Vì vậy, trước hết “mỗi
thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận
động.
Kỹ năng sống và trải nghiệm cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung,
nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng
vẫn cần học kỹ năng sống. Rèn kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một
25
Trang


×