TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KẾ TOÁN KIỂM TOÁN
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC- LENIN
Đề tài: Quan điểm của triết học Marx Lênin về con người và vấn đề xây dựng
nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay
Họ và tên: Nguyễn Hương Giang
Lớp: Anh 12- KTKT- K59
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán
Giảng viên hướng dẫn: Gv Nguyễn Thị Tùng Lâm
QUẢNG NINH – THÁNG 6 NĂM 2021
MỤC LỤC:
Lời mở đầu
Chương I : Lý luận của chủ nghĩa Mác-LêNin về con người
I.1 Bản chất con người
I.2 Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin về con người
Chương II : Vấn đề con người trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nươc ta
hiện nay.
II.1 Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
II.2 Mục tiêu con người trong Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa
II.3 Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nguồn lực cho con người ở nước
ta hiện nay
Chương III : Tổng kết
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề con người là nội dung cơ bản trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lêninnói chung và Triết học Mác - Lênin nói riêng. Con người trong tư tưởng
của chủnghĩa Mác – Lênin vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã
hội.Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong tiến trình lãnh đạo cách
mạngViệt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu
sắc hơnvề nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước,
coi trọngviệc phát huy tối đa sức mạnh con người nhằm tạo động lực để giải
phóng xãhội, giải phóng con người.
Phát triển con người tồn diện, đây chính là động lực và cũng là mục tiêu
nhân đạo của sự nghiệp CNH, HĐH mà nước ta đang tiến hành. Ta khơng thể
phủ nhận vai trị quan trọng của nguồn lao động nước ta trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, theo cơ chế thị trường. Nghị quyết ĐH Đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Thực tế đã chứng tỏ rằng nếu
khơng có nguồn nhân lực chất lượng cao thì nên kinh tế của chúng ta chưa thế
thoát ra khỏi sự nghèo nàn và lạc hậu. Tuy nhiên với nền kinh tế của chúng ta
hiện nay thì khó có thể xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
những yêu cầu thiết yếu để xây dựng đất nước. Để thốt khỏi vịng luẩn quẩn
này thì khơng thể khơng xây dựng một tầm nhìn chiến lược về con người, nâng
cao chất lượng của người lao động, trong đó, tư tưởng Mác-LeeNin chính là
nền tảng xây dựng nên tầm nhìn chiến lược đó.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài tiểu
luận: “Quan điểm của Mác-LêNin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực
con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.”
Chương I : Lý luận của chủ nghĩa Mác-LêNin về con người.
1.
a.
Bản chất con người.
Các quan điểm về con người của các nhà Triết học trước Mác.
Từ xưa đến nay, trong những vấn đề được bàn cãi nhất trong giới triết học
nói riêng và trong nghiên cứu khoa học nói chung thì vấn đề con người luôn
được đưa lên hàng đầu. Không những thế, đề tài con người được các nhà
nghiên cứu đặc biệt chú ý. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là
do con người là sinh vật cao cấp và phát triển nhất trên trái đất. Trong quá
trình lâu dài gần 5 tỉ năm của trái đất thì con người mới xuất hiện được khoảng
gần 300000 năm trước, tuy nhiên trong khoảng thời gian đó con người với sự
phát triển vượt bậc so với các lồi sinh vật khác và nhanh chóng trở thành kẻ
thống trị của thế giới.
Lĩnh vực Triết học là một trong những mơn khoa học đầu tiên của lồi
người, tuy nhiên, bản thân triết học luôn luôn thay đổi và đấu tranh khơng
ngừng, chính vì vậy mà ln ln có nhiều hướng giải quyết cho cùng một vấn
đề. Do đó, vấn đề con người từ xưa đến nay theo từng thời kì, từng các nhân
mà có rất nhiều quan điểm khác nhau. Theo phân tích của những nhà Triế học
cổ đại thì con người là vật cao quý nhất trong trời đất, trong vũ trụ, là chua tể
của muôn loài và chỉ đứng sau thần linh. Chủ nghĩa duy tâm và tơn giáo thì lại
cho rằng: Phần hồn trong con người là do thượng đế sinh ra, quy định và điều
khiển mọi hành động của thể xác, linh hồn tồn tại mãi mãi, khi thể xác mất đi
thì hồn lại nhập vào thể xác khác và tiếp tục điều khiển thể xác đó. Ngược lại
với ý kiến trên thì chủ nghĩa duy vật lại coi phần xác là pần quyết định và chi
phối phần hồn, tất nhiên là chẳng có linh hồn nào bất tử cả. Đó chỉ là một số
trong rất nhiều nhận thức về con người. Theo thời gian thì các nhận thức về
con người ngày càng phát triển hơn và các nhà triết học đã ngày càng hoàn
thiện nhận thức về bản chất con người, phát triển và khắc phục những điểm
bất hợp lí của các lí luận trước đó . Đến thế kí XV – XVIII thì những quan điểm
triết học về con người trên cơ sở tự nhiên đã bắt đầu phát triển và chiếm ưu
thế. Tuy nhiên những nhà triết học cổ điển Đức từ Carter đến Hegel (Hê –
gehen) đã xây dựng quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ
nghĩa duy tâm. Trong đó Hegel quan niệm con người là hiện thân của ý niệm
tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét về
mặt tinh thần. Tuy nhiên Hegel cũng chính là người đầu tiên thơng qua việc
xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về
sự phát triển của đời sống tinh thần và cá nhân.
Đến thời Feuerbach thì ơng lại phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác
trong quan điểm của Hegel. Theo quan điểm của Feuerbach thì con người
chính là một sản phẩm của tự nhiên và có bản năng tự nhiên, ông
đã dùng những thành tựu của khoa học để chứng minh mối liên hệ của tư duy
với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người. Tuy nhiên sai lầm
của Feuerbach là khi ơng giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì
Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Nói chung lại từ Carter đến Feuerbach đã có một bước tiến dài trong việc
tìm ra bản chất của con người. Tuy nhiên trong lí luận của họ cịn rất nhiều hạn
chế, những quan điểm về con người còn chưa đầy đủ và chặt chẽ, mang xu
hướng duy tâm cá nhân khá nhiều. Sau này, chủ nghĩa Mac đã kế thừa và khắc
phục những hạn chế đó, xây dựng một hệ thống quan niệm đầy đủ nhất về bản
chất con người, vai trò của của con người trong xã hội.
b.
chất của con người trong tự nhiên và xã hội.
Theo khoa học hiện nay đã chứng tỏ rằng con người là một sản phẩm của
tự nhiên theo q trình tiến hóa mà phát triển như ngày nay. Tuy con người đã
vượt xa so với những lồi sinh vật cịn lại nhưng con người vẫn không thể lột
bỏ hết được những cái tự nhiên để tách biệt hoàn toàn với tổ tiên, với những
loài sinh vật khác. Trong con người vẫn tồn tại những cái thú tính hoang dại của
tổ tiên mình, những cái đó thuộc về bản năng của con người, những bản năng
gốc mà chính nhờ nó con người đã sống và phát triển đến ngày hôm nay.
Điều giống nhau và cũng là điểm khác nhau giữa con người với những sinh
vật khác chính là sự phát triển về nhận thức và ý thức của con người. Lao động
là phương thức tồn tại của con người. Con người tồn tại được chỉ khi tiến hành
lao động sản xuất của cải vật chất để phục vụ cho chính cuộc sống của mình.
Cũng chính nhờ lao động mà con người hình thành được ý thức. Mặt khác,
trong các mối quan hệ xã hội thì quan hệ trong sản xuất lao động xuất hiện đầu
tiên và trở thành quan hệ nền tảng cho sự xuất hiện của các mối quan hệ xã hội
khác trong các lĩnh vực đời sống và tinh thần của con người.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, con người sản xuất ra của cải vật chất,
tác động vào tự nhiên để làm thay đổi tự nhiên, do đó con người chính là chủ
thể cải tạo tự nhiên. Tuy nhiên con người sống phụ thuộc vào thiên nhiên. Do
đó con người được tự nhiên sinh ra, vừa bị phụ thuộc và vừa tác động vào
thiên nhiên, Con người tác động vào thiên nhiên theo cách không tự nhiên, bắt
thiên nhiên phải phục vụ cho con người. Bằng hoạt động lao động sản xuất,
con người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hóa vật chất, tinh thần. Cũng như trong
hoạt động kinh tế thì vai trị của con người đóng góp quan trọng nhất, do đó,
để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì hiểu rõ bản chất con người, xây dựng một nguồn lực vững
mạnh là một yêu cầu thiết yếu.
2.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người.
a. Quan điểm của Mác về con người.
Như ta đã biết, các nhà Triết học cổ đại đều thần thánh hóa hình tượng con
người, các nhà Triết học cổ điển Đức thì đã có bước tiến xa hơn đó là đã định
nghĩa được con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên các triết gia đã rơi
vào lập trường chủ nghĩa duy tâm trong khi phân tích bản chất của con người
trong các mối quan hệ xã hội. Mác đã khắc phục những điểm yếu trong lí luận
của các nhà Triết học cổ điển Đức để xây dựng một cách hoàn thiện nhất khái
niệm và bản chất của con người.
Theo Mác thì bản chất con người gồm có 2 phần:
•
Thứ nhất : Phần sinh học
Đó là phần cấu tạo cơ thể và cơ thế sinh hoạt. Con người là kết quả tiến hóa
và phát triển lâu dài của tự nhiên. Điều này không thể phủ nhận bởi sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên đã chứng minh điều đó. Với
học thuyết tiến hóa của Darwin đã chứng minh được rằng mọi loài sinh vật đều
có nguồn gốc chung và đều là sản phẩm của tự nhiên. Điều này đã bác bỏ mọi lí
luận rằng con người là sản phẩm của Thượng Đế tạo ra. Đàn ông được nặn từ
đất sét và đàn bà được làm ra từ chiếc xương sườn của đàn ơng.
•
Thứ hai : Phần ý thức.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên va đồng thời giới tự nhiên cũng
là “ thân thể vơ cơ của con người”. Do đó những biến đổi của tự nhiên và các
tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hay gián tiếp đến sự tồn tại của con
người và xã hội loài người. Điều đó tương tự như sự trao đổi vật chất giữa sinh
vật và môi trường. Ở đây là sự vất chất của con người với môi trường. Khi môi
trường tác động đến con người thì đồng thời con người cũng tác động ngược
lại thiên nhiên, làm biến đổi thiên nhiên hình thành mối quan hệ hai chiều.
Một điểm khác biệt rõ ràng giữa con người với các loài sinh vật khác chính
là bản năng của con người đã phát triển lên mức cao hơn và được xã hội hóa.
Con người không chỉ biết làm ra công cụ lao động mà còn biết cải tạo tự nhiên,
biến đổi thiên nhiên theo mục đích của mình. Trong những luận điểm về con
người của chủ nghĩa Mac về con người thì luận điểm xem con người là sinh vật
biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu, điển hình cho
sự khác biệt của con người và các loài sinh vật khác.
Về mặt xã hội, mỗi người là một phần tử của xã hội, tập hợp con người với
nhau ta được một tập gọi là xã hội trong đó các cá nhân liên hệ với nhau bằng
các mối quan hệ đặc biệt. Đó gọi là quan hệ xã hội. Từ quan hệ xã hội sẽ nảy
sinh những mối quan hệ khác.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, con người
còn đóng vai trị là chủ thể hoạt động của q trình lịch sử. Thơng qua hoạt
động sản xuất mà con người sáng tạo ra lịch sử của mình. Dựa vào đó Mac
khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa quyết định đến sự
phát triển phong phú bản chất con người. Do đó, ta có thể nhận định rằng mục
tiêu cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện , nâng
cao nặng lực và phẩm giá của con người.
Nghiên cứu về con người, Mac lấy đối tượng nghiên cứu là con người vơ
sản là chủ yếu. Điều đó có thể dễ hiểu là do Giai cấp vô sản là giai cấp duy nhất
có thể đáp ứng đẩy đủ những quy luật của cuộc sống và phục tùng được lòng
dân. Theo Mac, con người vô sản là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã
hội tuy nhiên họ lại là giai cấp bị bóc lột trong xã hội. Một luận điểm nữa của
Mac cho rằng, người vô sản là những người tiêu biểu cho phương thức sản
xuất xã hội mới, đó là những người có khả năng giải phóng xã hội, xây dựng
một xã hội mới tốt đẹp hơn. Trong xã hội đó con người làm theo năng lực và
hưởng theo nhu cầu. Điều đó khơng xảy ra ở các nước tư bản chủ nghĩa hay đa
số các nước xã hội chủ nghĩa mà chỉ xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa tiêu
biểu như Liên Xô. Như ta đã biết, Liên Xô đã tan rã cách đây gần 2 thập kỉ và
đến nay tư tưởng đó của Mac cũng gần như khơng thể thực hiện. Lí do đưa ra
là đa phần xã hội hiện nay không thể tồn tại những con người chỉ biết “làm
thoe năng lực, hưởng theo nhu cầu” .
b.
Vai trò của chủ nghĩa Mac trong xã hội nước ta hiện nay.
Nước ta là nước đang phát triển do đó, Đảng và nhà nước ta đã rất quan
tâm đến vấn đề con người trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Muốn xây
dựng một đất nước phát triển về nhiều mặt, trong đó đặc biệt là lĩnh vực kinh
tế, ta cần phải đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy chủ nghĩa Mac
lenin làm cơ sở. Đặc biệt trong khi nên kinh tế đang rơi vào khủng hoảng, nước
ta ít nhiều chịu ảnh hưởng thì việc xây dựng một đội ngũ nhân lực giỏi để có
thể vực dậy nền kinh tế của nước ta là một điều vô cùng cần thiết. Hơn bất cứ
một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất
của toàn dân, đưa chúng đến một thời kì mới, mở ra nhiều khả năng tìm ra
những con đường tối ưu để phát triển đất nước. Với khả năng của tư tưởng
Mac lenin chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào con đường phát triển con người
để phát triển đất nước của Đảng và nhà nước đề ra. Thực tế đã chứng minh tư
tưởng Mac – Lenin đã vạch ra nhiều con đường đúng đắn trong lịch sử cho đất
nước ta. Đó là cách mạng tháng tám năm 1945 hay chiến thằng Hồ Chí Minh
lịch sử giải phóng đất nước. Tư tưởng Mac Lenin hay sau này được chủ tịch Hồ
Chí Minh vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh của đất nước và được
biết với cái tên tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống tư tưởng Mac Lenin đã trở
thành hệ thống tư tưởng chính thống của tồn xã hội , làm thay đổi nhanh
chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Bằng hệ thống giáo dục
với các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh
thần chủ nghĩa cơ bản của chủ nghĩa Mac Lenin đã hình thành những lớp người
lao động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chun mơn ngày càng cao. Ngày
nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hóa khoa học cơng nghệ với trình
độ lý luận và quản lí tốt đồng đều trong cả nước.
Chỉ trong một thời gian ngắn tư tưởng Mac Lenin đã thể hiện xu hướng của
mình đối với nền văn hóa dân tộc, xóa bỏ dần sự thống trị của các tư tưởng tự
phát lạc hậu ở nước ta. Với sức mạnh hùng hồn cùng những dẫn chứng khoa
học có cơ sở, học thuyết Mac Lenin đã vạch rõ được những yếu tố phi khoa
học, phi nhân đạo của các tư tưởng nhân đạo. Hơn thế, chủ nghĩa Mac Lenin
còn thể hiện tính ưu việt so với các tư tưởng tư sản đang dần dần làm lệch
hướng đi của người trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn. Với một nước
cịn nhiều khó khăn, trong hồn cảnh những tư tưởng lạc hậu thì Chủ nghĩa
Mac Lenin là ngọn đèn soi sáng cho con đường của đất nước và cũng là người
dẫn đường cho đảng và chính phủ cũng như hơn 80 triệu dân Việt Nam. Vì vậy
trong sự phát triển của đất nước, tiến trình CNH HĐH cần yếu tố hàng đầu là
phát triển con người, trong đó, chủ nghĩa Mác Lenin chính là nền tảng của sự
phát triển đó.
Chương II : Vấn đề con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nươc ta
hiện nay.
1.
Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Hồn cảnh.
Đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường được gần 20 năm, sau khi
chế độ bao cấp được xóa bỏ, trong khoảng thời gian đó, thực hiện mục tiêu
“dân giàu nước manh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” đất nước ta đã có
nhiều khởi sắc về nhiều mặt, trong đó, lĩnh vực kinh tế đã có những bước nhảy
tột bậc, tham gia vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên trong những năm gần đây,
nền kinh tế thế giới đang có những dấu hiệu khủng hoảng. Điều đó ảnh hưởng
khơng nhỏ đến một nền kinh tế con non trẻ ở nước ta. Trong khi ở nước ta, sự
nghiệp CNH HĐH cịn chưa hồn thành thì việc thúc đẩy q trình này sẽ nhanh
chóng làm cho nền kinh tế của chúng ta phục hồi.
b.
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp CNH HĐH, sự quan trọng
của phát triển con người
Ở các nước khác trên thế giới thì CNH HĐH là xu hướng tất yếu. Đây không
chỉ là cơng cuộc xây dựng kinh tế mà nó cịn làm biến đổi sâu sắc tới các lĩnh
vực đời sống xã hội. Q trình phát triển kinh tế đều có 3 giai đoạn, đầu tiên là
nền kinh tế nông nghiệp, sau đó là nền kinh tế cơng nghiệp và cuối cùng là nền
kinh tế dịch vụ. Nước ta là nước có nền kinh tế nơng nghiệp lâu đời, và q
trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa xảy ra là điều tất yếu. Sự phát triển của CNH
HĐH yêu cầu nhiều yếu tố như mơi trường chính trị ổn định, vốn tài nguyên, cơ
sở vật chất. Các yếu tố đó đều tham gia vào quá trình CNH HĐH tuy nhiên với
một vai trị khơng giống nhau, trong đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất.
Nguồn nhân lực phải đủ về số lượng và cả chất lượng. Nói cách khác nguồn
nhân lực phải là động lực thúc đẩy quá trình CNH HĐH. Điều đó được thể hiện
ở các lí do sau đây:
•
Đầu tiên: Ngoại trừ yếu tố con người thì các yếu tố còn lại như vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, vị trí địa lí chỉ tồn tại ở dạng tiềm
năng, khơng thể có tác dụng ngay được. Các yếu tố đó chỉ có thể phát
huy được tác dụng khi chúng dưới điều khiển và sử dụng của con người.
Nguyên do cũng dễ hiểu là do con người là nguồn lực duy nhất có thể tư
duy, có trí tuệ và ý chí biết khai thác. Vì vậy, trong các yếu tố cấu thành
nên lực lượng sản xuất để có thể thúc đẩy q trình CNH HĐH thì người
lao động chính là yếu tố quan trọng nhất.
•
•
•
2.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt do khai thác và
do thời gian. Tuy nhiên nguồn lực con người lại là vô hạn. Ngồi về mặt
sinh học con người có khả năng sinh sản thì con người khơng ngừng phát
triển về mặt trí tuệ và khơng ngừng học hỏi. Do đó, con người góp phần
cải tạo, nâng cấp những nguồn lực khác. Khơng những thế con người có
khả năng sáng tạo vơ tận, do đó con người có thể tìm ra, phát minh ra
những yếu tố khơng có trong tự nhiên.
Thứ ba : Theo Mac thì trí tuệ con người có một sức mạnh vơ cùng to lớn
khi nó được vật thể hóa và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong
thời đại hiện nay, khi trình độ khoa học đang phát triển như vũ bão dẫn
đến các nền kinh tế của các nước cơng nghiệp phát triển vận động theo
hướng trí thức. Ở các nước này, nguồn lợi thu được từ tri thức có thể
chiếm một nửa tổng giá trị tài sản quốc gia, ở các nước đang phát triển
như Việt Nam, nguồn lợi từ chất xám không nhiều mà hầu hết bắt nguồn
từ việc sản xuất thủ công. Ngày càng có nhiều nhân tài bỏ nước sang các
nước phát triển, mất đi một lượng nhân tài lớn. Điều đó được gọi là chảy
máu chất xám. Ở nước ta, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra khơng
q nhiều nhưng nó đang âm thầm mang đi rất nhiều những con người
tài giỏi đến những nước khác. Dó đó, việc nâng cao chất lượng con người
cần đi đơi với việc tránh tình trạng chảy máu chất xám để chúng ta có thể
xây dựng một nguồn lực chất lượng nhất, toàn tâm toàn ý phục vụ cho
đất nước.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn đã chứng minh sự
nghiệp CNH HĐH cịn phụ thuộc vào kế hoạch đường lối chính sách của
của Đảng và nhác nước và phụ thuộc rất nhiều vào ý thức và năng lực
nhận thức của mỗi người.
Mục tiêu con người trong Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa.
Trong quá trình CNH- HĐH hiện nay ở nước ta hiện nay, chúng ta cần phải
đạt được những mục tiêu sau :
CNH HĐH khơng chỉ là một tiến trình đổi mới, hơn thế nó cịn là một cuộc
cách mạng vì con người và do con người. Khi ta nói những lợi ích và ưu việt của
chủ nghĩa xã hội mang đến cho nước ta thì những điều đó khơng phải do ai
đưa đến mà đó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của nhân dân
ta. Điều đó là khơng thể phủ nhận, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định rằng :” con
người là vốn quy nhất, chăm lo cho hạn phúc con người là mục tiêu phấn đấu
cao nhất của chế độ ta” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói :” Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” . Qua đó ta có thể thấy được đường
lối đúng đắn của Đảng ta khi đặt mục tiêu lâu dài vào con người. trong thực tế
trong suốt những năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiêu việc theo hướng đó. Với tư cách là
Đảng cầm quyền, ngay từ đầu những chính sách, đường lối của Đảng đều quán
triệt việc chăm sóc và phát huy nhân tố con người. Việc đẩy mạnh cơng cuộc
CNH HĐH đất nước địi hỏi chúng ra phải nhận thức một cách đầy đủ những giá
trị và những ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Nền cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa vì mục tiêu phát triển con người tồn diện, ta khơng chỉ hiểu con
người ở đây với tư cách là người lao động sản xuất mà là cịn là một cơng dân
trong xã hội, một cá nhân trong gia đình, tập thể, là một thành viên trong trong
cộng đồng dân tộc. Đó khơng chỉ là những con người lao động chân tay bình
thường mà cịn là nhứng người làm việc bằng trí óc, đó là những những nhà
kinh tế, những doanh nhân hay quản lí… Khơng chỉ thế, đó là cịn là lớp người ý
thức được cuộc sống, nhận thức được thực trạng của đất nước để cùng nhau
hợp tác, cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung của đất nước.
Qua đó, ta có thể khẳng định rằng bước sang thời kì CNH HĐH theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, theo nền kinh tế thị trường thì chúng ta cần phải lấy
việc phát triển con người là mục tiêu trọng tâm, là yếu tố cơ bản cho việc phát
triển nhanh, bền vững của nền kinh tế đồng thời phát triển mọi mặt của xã hội
như văn hóa, giáo dục…Nếu CNH HĐH là vị sự nghiệp phát triển con người thì
con người phải được coi là giá trị tối cao.
CNH HĐH ở Việt Nam có thành cơng hay thất bại phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó quan trọng nhất là yếu tố con người phải được đáp ứng. Để đáp
ứng được điều đó thì chúng ta phải càng đầu tư hơn nữa trong việc nghiên cứu
con người. Nghiên cứu con người để phát triển con người, phát triển con
người để đáp ứng những sự phát triển khác. Yếu tố hang đầu của nguồn lực
con người trước hết phải là trí tuệ. Nó được biểu hiện ở khả năng áp dụng
những thành tựu khoa học để sang chế ra những kỹ thuật tiên tiến, sự nhạy
bén, thích ứng nhanh và làm chủ được được kĩ thuật, cơng nghệ hiện đại, có kĩ
năng lao động nghề nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách và lựa chọn giải
pháp và tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên CNH HĐH khơng phải khơng có mặt trái của nó. CNH HĐH đụng
chạm đến vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm trong mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối
với sự tồn tại của con người trên trái đất, Do đó, đi kèm với CNH HĐH phải là
trách nhiệm trước vấn đề môi trường, không thể chỉ quan tâm đến phát triển
kinh tế mà quên bảo vệ môi trường.
Sự nghiệp CNH, HĐH không chỉ đặt lên vai những con người lao động, trên
vai của chính phủ và nhà nước mà đây là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, kể cả
những học sinh, sinh viên đang học tập. Điều mà chúng ta phải học tập theo
những nước đã phát triển hơn chúng ta một bước là việc coi trọng giáo dục, coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Việc coi thường giáo dục, tài năng, thờ ơ trước
tương lai của thế hệ trẻ sẽ là lực cản rất lớn đến q trình cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa.
3. Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nguồn lực cho con người ở nước ta
hiện nay.
a. Thực trạng
Nhìn vào thực trạng của nguồn lao động của nước ta, ta có thể thấy bên
cạnh những ưu thế sẵn có của nguồn lao động Việt Nam như nguồn lao động
dồi dào, con người Việt Nam cần cù chịu khó, thơng minh chịu khó sáng tạo,
nhanh chóng tiếp thu được những thành tựu mới thì cịn có rất nhiều hạn chế.
Trong số hơn 65 triệu lao động ở VN thì số lao động được đào tạo bài bản
chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Số cịn lại hầu như khơng được đào tạo bài bản, chủ yếu là
nguồn lao động thủ công. Vấn đề phân bố lực lượng lao động còn rất nhiều vấn
đề. Ở thành phố là nơi tập trung đơng lao động, rất nhiều lao động có tay nghề
nhưng lại khơng có việc làm trong khi ở những làng quê, vùng núi thì lại thiếu
lao động trầm trọng. Một điều đáng nói nữa là theo thói quen của người VN thì
rất nhiều người có tác phong làm việc khơng cao, khơng có năng suất. Ngồi
việc hạn chế về thể lực, trí thức, nhiều lao động lại thiếu những kĩ năng cần
thiết về văn hóa, giao tiếp. Tình trang thừa thầy thiếu thợ vẫn còn phổ biến.
Những lao động được qua đào tạo thì lại thiếu rất nhiều kinh nghiệm về sản
xuất thực tiễn. Đặt ra môt vấn đề lớn trong giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Không ngoài quy luật chung ở những nước đang phát triển, nước ta cũng
phải đương đầu với vấn đề “ chảy máu chất xám”. Hiện nay, tình trang đó cơ
bản đã được giải quyết nhờ chính sách ưu tiên người tài của nhà nước. Tuy
nhiên, nếu không đáp ứng được những yêu cầu mà những người tài cần được
hưởng xứng đáng với cơng lao những gì họ làm được thì tình trạng trên khơng
thể ngừng lại hồn tồn.
b.Giải pháp
đáp ứng những yêu cầu cơ bản về con người trong CNH HĐH thì chúng ta
phải thực hiện một loạt những giải pháp nhằm phát triển tốt yếu tố con người
trong sự đi lên của đất nước.
Ngoài việc đào tạo, chăm sóc những nguồn lao động có trí thức, chúng ta
phải đào tạo cho họ những kĩ năng về văn hóa, những kinh nghiệm thực tiễn.
Chỉ có cách đó thì chúng ta mới có thể có những thế hệ người lao động hoàn
hảo về mọi mặt, đáp ứng những yêu cầu khắt khe của nguồn tuyển dụng lao
động, phục vụ tốt cho CNH HĐH.
Muốn có những con người đáp ứng được những yêu cầu trong sự nghiệp
CNH HĐH ở nước ta hiện nay,cùng với sự giáo dục nhà trường và xã hội, bên
cạnh đó là sự chăm sóc, bồi dưỡng và những ưu đãi của nhà nước, mỗi con
người chúng ta phải biết phấn đấu hết mình trong học tập, lao động, nâng cao
trí thức cá nhân, đồng thời học tập theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy
những phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam, cùng góp phần trong cơng
cuộc đổi mới đất nước
Chương III : Tổng kết.
Chủ nghĩa xã hội do con người và vì con người. Do vậy hình thành mối quan
hệ đúng đắn về con người trong vai trò của con người trong sự phát triển của
xã hội nói chung , xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề khơng thể thiếu
được trong lí luận tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lenin.
Ở nước ta, con đường CNH, HĐH là điều tất yếu để nước ta phát triển và
hội nhập với thế giới, đưa nước ta từ một nước kém phát triển đạt được
những thành tựu to lớn trên cả kinh tế và xã hội. Nhưng để CNH, HĐH thành
cơng thì chúng ta khơng thể phát triển nó trên những tư tưởng lí luận lạc hậu
và lỗi thời. Chúng ta cần một lí luận, một tư tưởng thơng suốt, phù hợp với
hồn cảnh Việt Nam và đáp ứng được điều đó thì chỉ có tư tưởng của Mac
Lenin là phù hợp với thực trang của nước ta hiện nay, qua những phân tích ở
trên chúng ta có thể thấy rằng Tư tưởng Mac Lenin hồn tồn có thể đáp ứng
mọi u cầu được đặt ra và nó cũng đã chứng tỏ qua những thành tựu đã đạt
được trong hơn 60 năm qua.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp phát triển đất nước nói
chung, tuy chúng ta đã được những thành tựu đáng kể song đời sống vật chất
và tinh thần của đại đa số người dân còn thiếu. Dó đó, việc áp dụng triệt để, coi
chủ nghĩa Mac Lenin là kim chỉ nam cho mọi sự phát triển của đất nước vừa là
mục tiêu vừa là nhiệm vụ đặt ra cho nhà nước, chính phủ và mọi cơng dân Việt
Nam. Chỉ có cách đó mới khiến chúng ta có thể hồn thành được cơng cuộc đổi
mới đất nước, đưa nước ta thoát khỏi ngèo nàn và lạc hậu, đưa nước ta đến
một tầm cao hơn, ngang tầm với những nước phát triển trên thế giới.
Tài liệu tham khảo:
•
•
Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mac Lenin – Nhà xuất
bản Chính trị Quốc Gia
Mác – Ăngghen (1987), Mác - Ăngghen tuyển tập, tập 1, Nhà xuất bản
Sựthật, Hà Nội