Khoa Luật Thương mại
Lớp Luật Thương mại 44A
BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGỒI HỢP ĐỒNG
(PHẦN CHUNG)
Bộ mơn: Dân sự - pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG....................................................................1
Câu 1.1 Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (thiệt hại do người gây ra) trong BLDS 2015?...........................................1
Câu 1.2: Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?....................................................2
Câu 1.3: Trong bản án về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên, theo Tòa
án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội
đủ chưa? Vì sao?........................................................................................................4
Câu 1.4: Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá từng
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được đáp
ứng chưa)................................................................................................................... 5
VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH TỔN THẤT VỀ TINH THẦN ĐƯỢC BỒI
THƯỜNG............................................................................................................6
Câu 2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần
được bồi thường?.......................................................................................................7
Câu 2.2: Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có
được bồi thường khơng? Vì sao?...............................................................................8
Câu 2.3: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về tổn thất
tinh thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?......................................................8
Câu 2.4: Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Tịa án khơng áp dụng BLDS 2005
mà áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần?......9
Câu 2.5: Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về
sức khỏe vừa bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm?......................................................9
Câu 2.6: Theo Tòa án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau không?...10
Câu 2.7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số
31 về khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ thể
cùng bị xâm phạm....................................................................................................10
VẤN ĐỀ 3: THAY ĐỔI MỨC BỒI THƯỜNG ĐÃ ĐƯỢC ẤN ĐỊNH........11
Câu 3.1: Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường khơng cịn phù hợp
với thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế.. .11
Câu 3.2: Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi
thường khơng cịn phù hợp với thực tế....................................................................11
Câu 3.3: Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía
bị thiệt hại có được chấp nhận khơng? Vì sao?........................................................12
VẤN ĐỀ 4: XÁC ĐỊNH NGƯỜI CĨ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
(CÙNG GÂY THIỆT HẠI)..............................................................................13
Câu 4.1: Trong phần “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS
trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp
nào?.........................................................................................................................13
Câu 4.2: Trong bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác
định chính xác được người người gây thiệt hại cho bà Khánh không?....................14
Câu 4.3: Đoạn nào của Bản án số 19, cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị
Hiền và anh Hải liên đới bồi thường?......................................................................14
Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách
nhiệm liên đới..........................................................................................................14
Câu 4.5: Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?...15
Câu 4.6: Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho
bà Hộ?...................................................................................................................... 15
Câu 4.7: Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu
tóm tắt tiền lệ đó......................................................................................................15
Câu 4.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm liên đới.................................................................................................16
Câu 4.9: Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?.................................................................................................................... 16
Câu 4.10: Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?.......16
Câu 4.11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh
Hải...........................................................................................................................17
1
VẤN ĐỀ 1: CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGỒI HỢP ĐỒNG
Tóm tắt bản án số 20/2018/DS-ST ngày 23/4/2018 về: “V/v Tranh chấp bồi
thường thiệt hạt do danh dự, uy tín bị xâm phạm” của Tịa án nhân dân Quận 2,
TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn là bà Ngọc, bị đơn là ông Huy. Khoảng 14 giờ ngày 03/3/2017 ơng
Huy đã đăng dịng trạng thái lên tài khoản facebook của cá nhân ông với nội dung cho
rằng đề thi văn đã bị lộ, ám chỉ bà Lẽ và bà Ngọc là những người làm lộ đề thi. Ông
Huy cũng đã gắn thẻ (tag) với một vài facebook khác có liên quan, làm xuất hiện
nhiều lời thiếu căn cứ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bà Ngọc. Bà Ngọc đã
khởi kiện yêu cầu ông Huy bồi thường thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm, số tiền bồi thường là 30.160.000 đồng, thi hành án một lần ngay khi án có
hiệu lực, xin lỗi công khai trên facebook và trước Hội đồng sư phạm Trường Trung
học phổ thơng Thủ Thiêm.
Tịa sơ thẩm cho rằng hành vi trái pháp luật của ông Huy (đăng các thông tin
chưa được kiểm chứng trên phương tiện thông tin được nhiều người truy cập gây ảnh
hưởng đến danh dự bà Ngọc và khiến cho người truy cập đưa ra nhận xét, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm bà Ngọc) dẫn đến hậu quả nên chấp nhận một phần yêu cầu của
bà Ngọc: Buộc ông Huy phải bồi thường 19.160.000 đồng và phải xin lỗi công khai bà
Ngọc trước trụ sở Trường Trung học phổ thông Thủ Thiêm.
Câu 1.1 Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (thiệt hại do người gây ra) trong BLDS 2015?
Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (thiệt hại
do người gây ra) trong BLDS 2015:
Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn
toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật
có quy định khác.
=> Có 3 căn cứ:
Căn cứ 1: Phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là điều kiện tiên quyết, nếu khơng có thiệt hại xảy ra thì khơng làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường.
2
+Thiệt hại về vật chất: quy định tại khoản 2 Điều 361 BLDS 2015: “2. Thiệt
hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản,
chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút.”
+Thiệt hại do tổn thất về tinh thần: khoản 3 Điều 361 BLDS 2015: “3. Thiệt hại
về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”.
Căn cứ 2: Hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông
qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Trường hợp hành vi gây ra thiệt hại tại khoản 2 của Điều 584 BLDS 2015 thì
khơng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Căn cứ 3: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành
vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Câu 1.2: Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?
Theo đó, BLDS 2015 có những điểm mới sau:
- Thứ nhất: Loại bỏ yếu tố “Lỗi”
Nếu như trong BLDS 2005, yếu tố lỗi (kể cả lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý) được sử
dụng như là căn cứ đầu tiên để xác định TNBTTH ngồi hợp đồng thì trong BLDS
2015, căn cứ xác định TNBTTH đầu tiên lại là hành vi xâm phạm của người gây thiệt
hại.
Với quy định của BLDS 2005 thì yếu tố “lỗi” là một trong những điều kiện bắt
buộc để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều này gây
bất lợi cho người bị thiệt hại. Trong thực tiễn xét xử, Tòa án nước ta đã theo hướng
người điên cũng phải bồi thường khi gây ra thiệt hại (như làm chết người). Ở góc độ
văn bản, Luật Thương mại năm 2005 đã bỏ đi yếu tố lỗi nhưng việc bỏ này khơng gây
khó khăn mà cịn tạo ra sự thuận lợi trong việc vận dụng. Luật Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước cũng theo hướng này: Điều 6 về “căn cứ” xác định
trách nhiệm bồi thường nhấn mạnh yếu tố “trái pháp luật” và không đề cập đến yếu tối
“lỗi”. Ở góc độ so sánh, Pháp trước đây đã từ rất lâu theo hướng người điên gây thiệt
hại (tức khơng có lỗi) vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Do đó, BLDS 2015 đã thay đổi theo hướng chỉ cần tồn tại yếu tố có thiệt hại
xảy ra trên thực tế, có hành vi trái pháp luật (xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của
người khác mà khơng thuộc trường hợp không chịu trách nhiệm bồi thường (BLDS
2015 đã bổ sung trường hợp hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại nhưng không chịu
3
trách nhiệm bồi thường1)) và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại thực tế xảy ra thì đã làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Yếu tố lỗi
dùng để xem xét mức độ thiệt hại được bồi thường. 2
- Thứ hai: Bổ sung căn cứ “tài sản gây thiệt hại”
BLDS 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chưa
hợp lý: đối với loại tài sản gây thiệt hại, BLDS 2005 theo phương pháp liệt kê và chưa
quy định về các loại tài sản khác gây ra thiệt hại 3; đối với từng loại tài sản được liệt kê
thì BLDS 2005 thường có phạm vi điều chỉnh hẹp.4
BLDS 2015 đã khắc phục các nhược điểm nêu trên: Theo khoản 3 Điều 584
BLDS 2015: “Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Với quy định nói trên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được ghi nhận cho “tài sản” nói chung nên có thể được áp dụng cho
mọi loại tài sản gây ra thiệt hại và “quy định chung này chỉ được áp dụng đối với
trường hợp không được quy định tại các quy định cụ thể về thiệt hại do tài sản gây
ra.”5
- Thứ ba: Mở rộng phạm vi áp dụng
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “1. Người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Đối với cá nhân BLDS 2005 có phạm vi điều chỉnh rất rộng nhưng pháp nhân
thì hẹp hơn nên BLDS 2015 đã quy định theo hướng khái qt hơn, khơng cịn chia ra
trường hợp cá nhân và pháp nhân hoặc chủ thể khác như BLDS 2005 nữa. “Người
khác” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả cá nhân, pháp nhân hoặc
chủ thể khác và như vậy đã bao hàm được tất cả các loại chủ thể được BTTH như quy
định tại BLDS 2005 trước đây. Phạm vi áp dụng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người gây ra được mở rộng và pháp nhân được đối xử như cá nhân. 6
1 Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015: “2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
2 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, tr. 475.
3 BLDS 2005 chỉ quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra tại Điều 623, Điều 625, Điều 626, Điều 627.
4 Ví dụ, Điều 626 chỉ đề cập đến trường hợp thiệt hại do cây cối đổ, gẫy gây ra và chưa đề cập đến trường hợp
khác. Theo Đỗ Văn Đại trong Luật Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt Nam thì “có trường hợp cây không
đổ, gẫy nhưng vẫn gây ra thiệt hại như trường hợp cây có rễ phát triển mạnh làm hỏng đường, hỏng tường, hỏng
sân của chủ thể liền kề…”
5 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, Sđd, tr. 478.
6 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, Sđd, tr.476.
4
- Thứ tư: Mở rộng phạm vi chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
BLDS 2005 quy định người nào thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, BLDS 2015 lại quy
định thêm trường hợp ngoại lệ, đó là “trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”. Đây là một quy định rất phù hợp, theo ngun tắc thì người nào
có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường tuy nhiên có
trường hợp người có hành vi gây ra thiệt hại nhưng người khác phải chịu trách nhiệm
bồi thường (người chịu trách nhiệm bồi thường có thể là cha, mẹ, người giám hộ, …). 7
Câu 1.3: Trong bản án về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên, theo
Tòa án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?
Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
hội đủ:
Thứ nhất, về thiệt hại trên thực tế, Tòa án cho rằng: “Xét thấy việc ông Huy
đăng các thông tin chưa được kiểm chứng trên phương tiện thông tin được nhiều
người truy cập đã gây ảnh hưởng danh dự của bà Ngọc. Chẳng những vậy, từ những
thông tin do ông Huy đăng tải về việc lộ đề thi, những người truy cập thông tin đã đưa
ra ý kiến nhận xét, trong sơ đó có những ý kiến nhận xét, trong số đó có những ý kiến
có tính chất phê phán.” Đã làm ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của bà Ngọc.
Thứ hai, về hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Tòa án cũng đã
nêu ra: “Xét về mặt nội dung, ông Huy không chỉ đăng tải thông tin về việc đề thi bị
lộ, mà còn khẳng định bà Lẽ và bà Ngọc đã cho học sinh của mình chép đề và lời giải
phần Đọc - Hiểu trong đề thi vào 2 ngày trước thi. Từ cách sử dụng câu chữ của ông
Huy đủ để người đọc hiểu rằng chí bà Lẽ và bà Ngọc là những người làm lộ đề thi.
Căn cứ văn bản 27/GĐT-TRH ngày 26/01/2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành
phố Hồ Chí Minh và các tài liệu, chứng cứ khác mà Tòa án nhân dân quận 2 thu thập
được, có cơ sở để xác định khơng có sự việc lộ đề kiểm tra giữa học kỳ II môn Ngữ
Văn tại Trường Trung học phổ thông Thủ Thiêm. Xét thấy việc ông Huy đăng các
7 Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà cịn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu
tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản
đó để bồi thường phần cịn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình;
nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần cịn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi
thường; nếu người được giám hộ khơng có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình khơng có lỗi trong việc giám hộ
thì khơng phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
5
thông tin chưa được kiểm chứng trên phương tiện thông tin được nhiều người truy cập
đã gây ảnh hưởng danh dự của bà Ngọc.” Hành vi gây thiệt hại của ông Huy là đăng
các thông tin chưa được kiểm chứng là hành vi trái pháp luật.
Thứ ba, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ra thiệt hại và thiệt hại trên
thực tế, Tòa án cũng nêu rõ rằng: “Rõ ràng hành vi pháp pháp luật của ông Huy chính
là nguyên nhân dẫn đến hậu quả làm tổn hại đến danh dự và uy tín của bà Ngọc.”
Câu 1.4: Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá
từng điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
được đáp ứng chưa).
Trong vụ việc trên, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng đã hội tụ đủ. Vì:
Thứ nhất, trong vụ việc trên về căn cứ có thiệt hại xảy ra trên thực tế, rõ rằng
bà Ngọc là người đã bị thiệt hại về danh dự và uy tín một cách nghiêm trọng.
Thứ hai, hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Trong vụ việc trên,
ơng Huy đã có hành vi đăng tải thơng tin sai sự thật và chưa được kiểm chứng, mang
tính vu khống bà Ngọc lên phương tiện thông tin được nhiều người truy cập là trang
facebook cá nhân của mình, đây là hành vi trái pháp luật.
Thứ ba, đối với điều kiện phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ra
thiệt hại và thiệt hại trên thực tế. Trách nhiệm bồi thường chỉ được áp dụng khi xác
định chính xác hành vi gây ra thiệt hại là nguyên nhân của thiệt hại. Căn cứ vào bản
án trên, ta thấy rằng thiệt hại về danh dự và uy tín của bà Ngọc là do hành vi của ông
Huy khi đăng tải thông tin sai sự thật về việc bà Ngọc làm lộ đề thi lên Facebook, kéo
theo sự chú ý, bình luận, chia sẽ thơng tin sai sự thật làm ảnh hưởng khơng tốt đến
danh dự và uy tín của bà Ngọc. Nếu ông Huy không thực hiện hành vi đó thì sẽ khơng
gây ra thiệt hại cho bà Ngọc.
Ngoài ra, nếu căn cứ vào Nghị quyết số 03/2006 của Hội đồng Thẩm phán về
“Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng thì căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngồi hợp
đồng” cịn có yêu cầu về yếu tố lỗi cố ý hay vô ý của người gây ra thiệt hại. Nếu xem
xét đến yếu tố lỗi như trên thì ơng Huy là người có đủ khả năng nhận thức về hành vi
của mình sẽ làm ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của bà Ngọc, nhưng ơng vẫn cố ý
thực hiện thì đây là lỗi cố ý.
6
VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH TỔN THẤT VỀ TINH THẦN ĐƯỢC BỒI
THƯỜNG
Tóm tắt bản án số 08/2017/DS-ST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia
Grai tỉnh Gia Lai.
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Nhị. Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Ngọc
Quang.
Bị đơn: Anh Vũ Minh Hiếu. Người đại diện hợp pháp: Ông Vũ Kim Dư và bà
Nguyễn Thị Huyền.
Anh Hiếu đánh bà Nhị gây ra thương tích nên bà yêu cầu anh Hiếu bồi thường
thiệt hại, trường hợp anh Hiếu khơng đủ tài sản để chi trả thì người đại diện hợp pháp
sẽ thay phần anh Hiếu chi trả. Anh Hiếu, ông Dư và bà Huyền không đồng ý bồi
thường vì anh Hiếu khơng đánh bà Nhị.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của bà Nhị bao gồm buộc anh Hiếu
phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bà Vũ Thị Nhị về các khoản
trong phần quyết định. Với tổng số tiền bồi thường thiệt hại là 80.440.000 đồng.
Trong trường hợp anh Hiếu khơng đủ tiền để chi trả cho bà Nhị thì người đại diện hợp
pháp của anh Hiếu đó là bố mẹ của anh sẽ phải chịu trách nhiệm. Bao gồm khoản tiền
đền bù về sức khỏe và tinh thần.
Tóm tắt Bản án số 26/2017/2017 ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc.
Ngày 23/10/2016, bị cáo Nguyễn Văn A xuất phát từ việc bị hại là Chu Văn D
lấy 1 chiếc quần cộc của G, A đã dùng chân đá vào ngực của D khiến D bất tỉnh, vì
sức khỏe yếu nên D đã tử vong tại bệnh viện sau đó. Hành vi của A đã phạm vào tội
“Cố ý gây thương tích” theo BLHS 1999, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe tính mạng
của người khác nên phải bồi thường cho gia đình người bị hại, đồng thời có nghĩa vụ
cấp dưỡng người con chưa thành niên của D là Chu Đức P cho đến khi đủ 18 tuổi.
Theo luật định, Tòa án quyết định tuyên bị cáo A tội “Cố ý gây thương tích”,
buộc bị cáo bồi thường cho gia đình người bị hại và phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho P.
Tóm tắt Bản án số 31/2019/HS-PT ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên.
Bị cáo là Ksor Y Ký, bị hại là Kpá Hờ Miên. Khoảng 20 giờ ngày 25/02/2018,
khi đang trên đường về nhà thì K pá Hờ Miên bị Ksor Y Ký hiếp dâm, sau khi xong
việc Ký cịn đe dọa Miên khơng được nói với ai, nếu khơng thì sẽ có chuyện. Ngày
26/02/2018, gia đình bà Miên biết và đã làm đơn tố cáo hành vi của Ký. Sau khi bị bắt
Ký đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tịa sơ thẩm đã tun Ký phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, phạt 07
năm 06 tháng tù và phải bồi thường thiệt hại cho bị hại 71.100.000 đồng về khoản bồi
thường thiệt hại sức khỏe do bị xâm phạm.
7
Ngày 11/3/2019, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin giảm mức bồi
thường thiệt hại.
Tòa phúc thẩm đã xác định về bồi thường thiệt hại: bị cáo phải bồi thường thiệt
hại do hành vi vi phạm của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe (Điều 590 BLDS 2015)
và danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị hại (Điều 592 BLDS 2015). Và nhận thấy
khơng cịn căn cứ để giảm nhẹ hình phạt và mức bồi thường thiệt hại nên đã giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Câu 2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần
được bồi thường?
Có 5 điểm mới:
Thứ nhất, đối với các trường hợp được bồi thường:
- BLDS 2005 dùng phương pháp liệt kê để ghi nhận các trường hợp được bồi
thường khi có tổn thất về tinh thần là khi sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,
uy tín và thi thể bị xâm phạm.
- BLDS 2015 đã bổ sung thêm khả năng được bồi thường tổn thất về tinh thần
đối với trường hợp tài sản bị xâm phạm và mồ mả bị xâm phạm.
Thứ hai, xét về mặt chủ thể, người bồi thường ở BLDS 2005 là “người xâm
phạm” đã được thay bằng “người chịu trách nhiệm bồi thường”. Sự thay đổi này đã
mở rộng các đối tượng phải bồi thường, bao hàm cả các đối tượng không phải là
người xâm hại nhưng lại là đối tượng phải chịu trách nhiệm bồi thường trên thực tế.
Ví dụ như việc cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường cho con cái chưa thành niên, mất
năng lực hành vi dân sự (Điều 606 BLDS 2005, Điều 586 BLDS 2015) hoặc trong
trường hợp pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi
đang thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao (Điều 618 BLDS 2005, Điều 597
BLDS 2015). Đặc biệt, sự thay đổi này còn bao hàm cả vấn đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tổn thất tinh thần được gây ra khi chủ thể gây thiệt hại không phải “người
xâm phạm” mà là do tài sản, vật ni, cây cối, cơng trình xây dựng, nguồn nguy hiểm
cao độ,… thì chủ sở hữu là người phải chịu trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do
tổn thất về tinh thần.
Thứ ba đối với thời hiệu khởi kiện:
- BLDS 2005 quy định là 2 năm.
- BLDS 2015 quy định tăng lên 3 năm.
Thứ tư, so với BLDS 2005 thì ở BLDS 2015, mức phạt bồi thường thiệt hại ở
các trường hợp đều có chiều hướng tăng lên nhằm nâng cao sự mạnh mẽ và tính răn
đe của pháp luật. Cụ thể, ở các trường hợp có quy định bồi thường tổn thất về tinh
thần, mức phạt bồi thường khi các bên khơng có sự thỏa thuận có sự thay đổi như sau:
- Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm
được nâng lên từ “mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định” đến “mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định”;
8
- Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về tính mạng bị xâm phạm
được nâng lên từ “mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định” đến “mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm khơng quá một
trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”;
- Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm hại được nâng lên từ “mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quy định” đến “mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm khơng q mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
Thứ năm, đối với người được bồi thường:
- BLDS 2005 về mồ mả bị xâm phạm thì quy định người được bồi thường là
những người thân thích.
- BLDS 2015 đã mở rộng hơn theo hướng theo thứ tự thừa kế của người chết.
Câu 2.2: Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm
có được bồi thường khơng? Vì sao?
Theo quy định hiện nay, tại Điều 589 BLDS 2015 quy định về thiệt hại do tài
sản bị xâm hại:
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm
sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.
Quy định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm chỉ liệt kê thiệt hại vật chất không đề
cập tới tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều trường hợp tồn tại tổn
thất về tinh thần trong những trường hợp trên cần được xem xét bồi thường.
Đối với thiệt hại về tài sản, tổn thất về tinh thần khơng hồn tồn bị loại trừ khi
tài sản bị xâm phạm. Có thể là tổn thất về tinh thần đối với các trường hợp tài sản bị
xâm phạm có giá trị lớn hay những vật có giá trị quan trọng như đồ gia bảo,… Do
vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà chúng ta chấp nhận sự tồn tại tổn thất về tinh thần
và cho người bị thiệt hại được quyền yêu cầu bồi thường.
Câu 2.3: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về tổn
thất tinh thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?
Các đoạn cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về tổn thất tinh thần của
BLDS 2015 về vụ việc trên:
Bản án số: 08/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Ia Grau tỉnh Gia Lai có
đoạn: “Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 156 của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật
Dân sự 2015 để xác định mức bù đắp tổn thất về tinh thần”.
9
Bản án số: 26/2017/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc của đoạn: “Về
trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự năm 1999; Các Điều 548; Điều
591 Bộ luật Dân sự năm 2015 buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải bồi thường chi phí mai
táng, phí bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần cho gia đình người bị hại…”
Bản án số: 31/2019/HS-PT của Tịa án nhân dân tỉnh Phú n có đoạn: “Trong
trường hợp này, theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì người gây
thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại các khoản, gồm: Chi phí hợp lý cho
việc chữa trị, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe. Chi phí hợp lý và phần thu thập thực tế bị
mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; và một khoản tiền
khác để bù đắp tổn thất về mặt tinh thần mà người bị hại gánh chịu”.
Câu 2.4: Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Tịa án khơng áp dụng BLDS 2005
mà áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần?
Tịa án khơng áp dụng BLDS 2005 mà áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc
trên liên quan tới tổn thất tinh thần là bởi:
Thứ nhất, theo BLDS 2015, mức bồi thường tối đa cho một người có sức khỏe
bị xâm phạm khơng quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều
590 BLDS 2015; mức cũ tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy
định (Điều 609 BLDS 2005); BLDS 2015 quy định cao hơn so với BLDS 2005 đến 20
tháng. Bởi lẽ, những mất mát về tinh thần tùy theo mức độ tổn hại mà đưa ra mức phạt
phù hợp, áp vào BLDS 2015 là phù hợp hơn, ở mức 30 tháng lương tối thiểu vẫn chưa
thể bù đắp được những tổn hại về tinh thần do những người bị tổn hại.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 156 của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng
một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy
định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Vì vậy đối với cùng một vụ việc
liên quan tới tổn thất tinh thần mà BLDS 2005 quy định khác với BLDS 2015 thì áp
dụng BLDS 2015 là hợp lý.
Thứ ba, khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra, việc gây ra những tổn thương
về tinh thần là điều khơng tránh khỏi, thậm chí cịn có thể gây ra những tổn thương
nghiêm trọng và lâu dài. Đó là lý do một số Tòa án chấp nhận các khoản bồi thường
thiệt hại về tinh thần trong các dạng hợp đồng như vậy cho dù pháp luật khơng có quy
định về điều này. Vì vậy, nếu áp dụng BLDS 2015, với mức 50 lần mức lương cơ sở,
thì sẽ tạo điều kiện hơn cho bên yếu thế để nhận được mức đền bù xứng đáng hơn.
Câu 2.5: Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về
sức khỏe vừa bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm?
Trong Bản án số 31, đoạn dữ liệu cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về
sức khỏe vừa bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm nằm trong phần nhận định của Hội
Trong Bản án số 31, đoạn dữ liệu cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về
sức khỏe vừa bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm nằm trong phần nhận định của Hội
đồng xét xử:
10
Về hình phạt: Hành vi của bị cáo khơng chỉ xâm phạm trực tiếp đến sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm của người bị hại; mà còn gây ảnh hưởng
đến q trình phát triển sinh lí tự nhiên của trẻ em…
Và đoạn:
Mặt khác, ngoài quy định mức bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm
phạm tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 như trên, bị cáo còn phải
bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cho
người bị hại một khoản tiền tại Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định, nhưng không quá mười lần mức lương cơ sở.
Câu 2.6: Theo Tòa án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau khơng?
Theo Tịa án, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm bị xâm phạm được kết hợp với nhau.
Có thể thấy trong Bản án số 31, việc Tòa án viện dẫn Điều 590 BLDS 2015 về
“Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” và Điều 592 BLDS 2015 về “Thiệt hại do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm” cho thấy Tòa án đã theo hướng cho kết hợp việc
bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và việc bồi thường thiệt hại do nhân
phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm. Cụ thể, mức bồi thường tổn thất tinh thần do sức
khỏe bị xâm phạm cho bị hại Kpá Hờ Miên được hưởng không quá 50 lần mức lương
cơ sở tại thời điểm xét xử, còn mức bồi thường tổn thất tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm thì khơng q 10 lần mức lương cơ sở tại thời điểm xét xử.
Câu 2.7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án
số 31 về khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một
chủ thể cùng bị xâm phạm.
Nhóm đồng tình với hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số 31 về
khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ thể cùng bị
xâm phạm.
Quy định của pháp luật hiện hành chưa có quy định nào thể hiện việc khi nhiều
yếu tố nhân thân của một chủ thể bị xâm phạm thì các đối tượng này có được kết hợp
với nhau hay không, tuy nhiên, “thiệt hại do xâm phạm tới hai đối tượng trên độc lập
với nhau và khơng có quy định nào loại trừ khả năng kết hợp nên khơng có lý do nào
loại trừ việc kết hợp hai loại thiệt hại này; khi cả hai đối tượng này cùng bị xâm phạm
thì chúng ta khai thác cả hai nhóm quy định này cùng một lúc nên hồn tồn có thể kết
hợp với nhau”8. Việc kết hợp thiệt hại khi các yếu tố nhân thân của một chủ thể bị xâm
phạm có thể giúp cho nạn nhân bị tổn thất về tinh thần, về vật chất v.v trong các vụ án
xâm hại tình dục được bồi thường số tiền bù đắp tổn thất cao hơn, giúp họ có thể dùng
nó để chữa trị những chấn thương tâm lý của mình, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của
người bị thiệt hại.
8 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb. Hồng Đức,
năm 2016, tr.609.
11
VẤN ĐỀ 3: THAY ĐỔI MỨC BỒI THƯỜNG ĐÃ ĐƯỢC ẤN ĐỊNH
Tình huống: Nghĩa vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho bà Muối. Sau khi thương lượng khắc phục hậu quả với số
tiền 60.000.000đ, phía bị thiệt hại đã cam kết “bãi nại về dân sự không yêu cầu thắc
mắc khiếu nại gì về sau”, “khơng u cầu khiếu nại gì về sau”. Tuy nhiên, nay phía bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường them 70.000.000đ, chi phí điều trị phát sinh phải thay
khớp.
Câu 3.1: Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường khơng cịn phù
hợp với thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS 2005 về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, và theo Điều 585 BLDS
2015 quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, một số điểm khác biệt cơ bản giữa
thay đổi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế và giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế là:
Với thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế: Nghị quyết 03 nhắc đến cụm từ
“trước mắt và lâu dài”, có nghĩa là việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại ảnh
hưởng đến khả năng kinh tế khơng chỉ có ở trước mắt mà cịn trong tương lai. Vì thế
trong BLDS 2015 cụm từ trên đã bị loại bỏ. Tức là thiệt hại chỉ cần lớn hơn khả năng
kinh tế tại thời điểm giải quyết vấn đề bồi thường thi mức bồi thường đã có thể được
giảm. Điều này là phù hợp vì việc xác định khả năng kinh tế ở một thời điểm trong
tương lai của người gây thiệt hại là khơng thể và khó xác định.
Với mức bồi thường thiệt hại thực tế còn xét đến những yếu tố khác như: sự
thay đổi tình hình kinh tế - xã hội, sự biến động về giả cả mà mức bồi thường đang
được thực hiện khơng cịn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, sự biến động về giá
cả mà mức bồi thường đang được thực hiện khơng cịn phù hợp trong điều kiện đó. Do
có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho
nên mức bồi thường khơng cịn phù hợp với sự thay đổi đó. Cịn với thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế thì khơng.
Câu 3.2: Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi
thường khơng cịn phù hợp với thực tế.
Vì việc thay đổi mức bồi thường- Có sự thay đổi về kinh tế - xã hội, biến động
thị trường khiến giá cả thay đổi làm cho giá cả mà mức bồi thường thực hiện khơng
cịn phù hợp trong điều kiện đó.
khơng phù hợp với thực tế phải căn cứ từ hồn cảnh thực tế có sự thay đổi
khiến cho mức bồi thường khơng cịn phù hợp. Điều này xuất phát từ nguyên tác thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy
nhiêu, việc xác định thiệt hại phải đặt trong mối quan hệ không gian và thời gian. Căn
cứ vào khoản 3 Điều 585 BLDS 2015 và điểm d mục 2.2 Chương I NQ 03/2006/NQHĐTP, chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại do:
12
- Có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt
hại bị giảm sút hoặc mất khả năng lao động nên mức bồi thường thiệt hại khơng cịn
phù hợp với sự thay đổi.
- Sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại.
Câu 3.3: Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của
phía bị thiệt hại có được chấp nhận khơng? Vì sao?
Mức bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại về sức khỏe của bà Muối do hành vi
trái với quy định pháp luật của Nghĩa gây ra đã được hai bên thỏa thuận và được Tịa
án ghi nhận, đồng thời đã có hiệu lực pháp luật. Bên bị thiệt hại cũng đã có đơn “cam
kết bãi nại về dân sự, không yêu cầu thắc mắc khiếu nại gì về sau”, “khơng u cầu
khiếu nại gì về sau”. Tuy nhiên, mức bồi thường đã khơng cịn phù hợp với thực tế vì
phát sinh chi phí điều trị do phải thay khớp, xuất phát từ vết thương do hành vi trái với
quy định pháp luật của Nghĩa gây ra cho bà Muối và đây được xem là một trường hợp
“mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế” tại Điều 585 BLDS 2015.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 585 BLDS 2015 và trường hợp ngoại lệ được quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS thì Luật cho phép bên bị thiệt hại được
yêu cầu thay đổi mức bồi thường đã được ấn định và Tịa án có thẩm quyền giải quyết
u cầu này.
Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại của bà
Muối.
13
VẤN ĐỀ 4: XÁC ĐỊNH NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
(CÙNG GÂY THIỆT HẠI)
Tóm tắt bản án: 19/2007/DS-ST ngày 16/04/2007 về vụ việc “Yêu cầu bồi thường
thiệt hại do tài sản bị xâm phạm – Tòa án nhân dân, Thành phố Pleiku, tỉnh Gia
Lai.
Đại diện nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Khánh, bị đơn là vợ chồng anh Ngô
Văn Lễ và anh Nguyễn Nam Hải. Vụ việc xảy ra vào ngày 23/02/2001 sau khi vợ
chồng anh Lễ đi làm về và yêu cầu chị Tám dọn rác và không được bán trước cửa nhà
anh vì xả rác bừa bãi, hai bên có xảy ra giằng co, lời qua tiếng lại nhưng sau đó ai về
nhà người nấy. Một lúc sau, anh Hải là em vợ của anh Lễ tới và xảy ra xô xát và giằng
co, đã làm bể một số trứng và gãy hai chiếc ghế gỗ của bà Khánh. Sau đó chị Hiền đã
vào viện điều trị, đồng thời tiếp tục điều trị tại nhà. Chị Hiền yêu cầu anh Lễ, chị Hà
và anh Hải phải có trách nhiệm bồi thường, ngoài ra bà Khánh cũng yêu cầu những
người nói trên bồi thường thiệt hại về tài sản trong q trình xơ xát. Tịa sơ thẩm quyết
định bác toàn bộ yêu cầu bồi thường của chị Hiền đối với vợ chồng anh Lễ và anh Hải
về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, bác ý kiến của bà Khánh khi yêu cầu anh Hải
phải bồi thường luôn số tiền cịn lại.
Tóm tắt Quyết định số 226/2012/DS-GĐT ngày 22/5/2012 Về vụ án “Bồi thường
thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại” của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là bà Hộ khởi kiện 9 bị đơn (bà Lan và ơng Bảo là liên quan
chính) yêu cầu bồi thường tiền thuốc và các chi phí liên quan vì bà Lan đã có hành vi
đánh vào mặt khiến bà Hộ bị hư một mắt.
Tòa tối cao theo hướng: bà Hộ chửi gia đình bà Lan khơng phải là lỗi gây ra
thiệt hại về thương tích của bà Hộ; việc ông Bảo kêu các con đánh bà Hộ là hành vi
trái pháp luật và làm cho bà bị chấn thương mắt trái nên ông Bảo cũng phải chịu trách
nhiệm liên đới cùng bà Lan bồi thường thiệt hại cho bà Hộ; bản liệt kê chi phí điều trị
bệnh của bà Hộ đưa ra khơng có tên bệnh nhân và một số thông tin cần thiết, cần phải
xem xét cụ thể từng hóa đơn và tính hợp pháp của các chứng từ.
Quyết định của Tòa án: chấp nhận kháng nghị của Chánh án tòa án nhân dân
tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 4.1: Trong phần “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của
BLDS trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những
trường hợp nào?
Theo Điều 587 BLDS 2015 quy định:
Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên
đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng
người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của
mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường
thiệt hại theo phần bằng nhau.
14
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nhiều người cùng gây thiệt hại là trách
nhiệm liên đới bồi thường của những người cùng gây thiệt hại đối với người bị thiệt
hại. Cơ sở để xác định trách nhiệm liên đới bồi thường khi nhiều người gây thiệt hại
đối với người bị thiệt hại là có hành vi cùng gây thiệt hại của những người gây thiệt
hại.
Nhiều người cùng gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường theo quy
định trên có thể xảy ra một trong hai trường hợp:
-
Nhiều người gây thiệt hại cho một người
-
Nhiều người gây thiệt hại cho nhiều người
Câu 4.2: Trong bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hồn cảnh nào? Có xác
định chính xác được người người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
Trong bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong lúc hai bên là anh Hải với chị
Tám và chị Hiền có xơ xát qua lại, giằng co giữa đơi bên. Trong hồn cảnh này, đều
khơng thể xác định được người gây thiệt hại là ai vì trong hồn cảnh xơ xát, cả hai bên
đều cùng gây thiệt hại nhưng khơng thống nhất ý chí chỉ có sự thống nhất về hành vi.
Câu 4.3: Đoạn nào của Bản án số 19, cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị
Hiền và anh Hải liên đới bồi thường?
Trong bản án có đề cập tới việc Tịa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền và anh
Hải liên đới bồi thường: “Xét thiệt hại về tài sản của bà Khánh do xô xát giữa chị Tám
và và chị Hiền với anh Hải đã dẫn đến là 02 chiếc ghế gỗ bị gãy chân và các loại bánh,
trứng tại qn bà Khánh bị đổ, bể…trong q trình xơ xát là có thật. Do vậy, cần buộc
những người này phải liên đới bồi thường cho bà Khánh…”
Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách
nhiệm liên đới.
Hướng giải quyết trên của Tịa án là hợp lý.
Vì theo khoản 1 Điều 288 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ
do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ”. Việc liên đới sẽ đảm bảo
được việc bồi thường vẫn diễn ra nếu như xảy ra các trường hợp như bên gây thiệt hại
bỏ trốn, bên gây thiệt hại chết nhưng khơng để lại tài sản thì người bị thiệt hại vẫn có
thể yêu cầu người gây thiệt hại cịn lại bồi thường tồn bộ.
Đồng thời theo Điều 587 BLDS 2015 quy định:
Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên
đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng
người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của
mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường
thiệt hại theo phần bằng nhau.
Tùy vào mức độ lỗi để yêu cầu từng người bồi thường, nhưng Tòa án hiện nay
vẫn nghiêng về phía bên bị thiệt hại liên đới bồi thường theo các phần bằng nhau.
15
Câu 4.5: Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
Trích đoạn trong Quyết định số 226: “Hành vi trực tiếp gây ra thương tích cho
bà Hộ là bà Nguyễn Huệ Lan, song cũng cần phải xem xét trách nhiệm dân sự của
người khởi xướng trong vụ án cố ý gây thương tích là ông Trần Thúc Bảo, người đã
kêu các con đánh bà Hộ bị thương tích dẫn đến hỏng mắt có quan hệ nhân quả của ơng
Bảo. Do đó cần buộc ông Bảo phải chịu trách nhiệm dân sự cùng với Nguyễn Huệ
Lan.”
Do đó người trực tiếp gây thiệt hại cho Hộ là bà Nguyễn Huệ Lan.
Câu 4.6: Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại
cho bà Hộ?
Trong Quyết định số 226, người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Hộ là
ông Bảo.
Đoạn trong quyết định cho thấy điều đó:
“Như vậy việc ông Bảo kêu các con đánh bà Hộ là hành vi trái pháp luật
và đã gây hậu quả là bà Hộ bị chấn thương mắt trái, nên ông Bảo cũng
phải chịu trách nhiệm liên đới cùng bà Lan bồi thường thiệt hại cho bà
Hộ”.
Câu 4.7: Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có,
nêu tóm tắt tiền lệ đó.
Hướng giải quyết trong Quyết định 226 đã có tiền lệ, đó là:
Quyết định số 114/2006/DS-GĐT ngày 26/5/2006 của Tòa án dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
Tóm tắt:
Nguyên đơn là anh Nguyễn Hiền khởi kiện bị đơn là ông Nguyễn Hữu Ân, yêu
cầu bồi thường thiệt hại vì đã gây thương tích cho anh. Cụ thể do xích mích với ơng
Nguyễn Mơng (bố anh Hiền) nên ông Ân đã chủ mưu, lôi kéo con và các cháu của
mình đến đánh ơng Nguyễn Mơng. Anh Hiền can ngăn thì bị con và các cháu của ơng
Ân khống chế và đánh bị thương phải điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi.
Hướng giải quyết của Tịa án: căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ
cơ sở kết luận ơng Ân là người chủ mưu, rủ rê con cháu cùng gây thương tích cho anh
Hiền. Theo quy định của BLDS thì ơng Ân là người có lỗi cố ý cùng gây thiệt hại nên
phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho anh Hiền.
Quyết định của Tòa án: hủy bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nguyên
đơn là anh Nguyễn Hiền với bị đơn là ông Nguyễn Hữu Ân; giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại theo quy định của pháp luật.
16
Câu 4.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm liên đới.
Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tịa án là hợp lý. Bởi lẽ:
Thứ nhất, trong tình huống trên mặc dù bà Lan là người trực tiếp gây thương
tích cho bà Hộ nhưng người chủ mưu, khởi xướng lại là ông Bảo, người đã kêu các
con đánh bà Hộ. Việc bà bị thương tích dẫn đến hỏng mắt có quan hệ nhân quả của
ơng Bảo. Do đó, ơng đã gián tiếp và có lỗi trong việc gây ra thương tích cho bà Hộ.
Như vậy, việc Tịa án buộc ơng Bảo phải chịu trách nhiệm liên đới cùng bà Lan bồi
thường thiệt hại cho bà Hộ là thỏa đáng.
Thứ hai, căn cứ theo Điều 587 BLDS 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do
nhiều người cùng gây ra:
“Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải
chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm
bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng
với mức độ lỗi của mỗi người; nếu khơng xác định được mức độ lỗi thì
họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”
Điều luật này không chỉ quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm liên đới
mà còn chỉ rõ cách thức xác định mức bồi thường thiệt hại của các chủ thể trong trách
nhiệm liên đới là căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi người, nếu không xác định được thì
bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Theo đó, Tịa án đã xét theo tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo cũng là
mức độ lỗi đối với người bị thiệt hại để xác định số tiền phải bồi thường cho người bị
thiệt hại là hợp lý, không làm ảnh hưởng tới quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người
bị hại.
Thứ ba, Tòa án theo hướng giải quyết như trên là để bảo vệ người bị thiệt hại
do vậy trong trường hợp nhiều người gây hại không thống nhất ý chí, hành vi thì vẫn
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới.
Câu 4.9: Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai
bồi thường?
Trong bản án số 19, bà Khánh ban đầu yêu cầu bồi thường 324.000 đồng,
nhưng sau đó yêu cầu 800.000 đồng và yêu cầu anh Hải bồi thường.
Đoạn của Bản án cho thấy điều đó:
“Về phần thiệt hại tài sản, bà Khánh trước đây yêu cầu 324.000đ (ba
trăm hai mươi bốn nghìn đồng), nhưng sau đó u cầu 800.000đ (tám
trăm nghìn đồng) và u cầu anh Hải phải bồi thường cho bà toàn bộ số
tiền này.”
Câu 4.10: Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?
Trong bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường 267.000 đồng.
17
Đoạn trong bản án cho thấy điều đó:
“Do đó, cần buộc những người này phải liên đới bồi thường cho bà
Khánh, tuy nhiên bà Khánh chỉ khởi kiện yêu cầu đối với anh Hải, do đó
tịa án chỉ xem xét phần trách nhiệm của anh Hải phải bồi thường thiệt
hại về tài sản cho bà Khánh bằng 1/3 số tiền bà yêu cầu là 267.000đ (hai
trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).”
Câu 4.11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến
anh Hải.
Về hướng giải quyết của Tịa án liên quan đến anh Hải, Tịa có hai quyết định
đó là: Bác tồn bộ u cầu của chị Hiền về việc kiện đòi anh Hải, anh Lễ, chị Hà bồi
thường 13.200.000đ thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và bác yêu cầu của bà Khánh
về việc kiện đòi anh Hải bồi thường số tiền 533.000đ, buộc anh Hải bồi thường cho bà
Khánh 267.000đ do thiệt hại về tài sản.
Thứ nhất, về việc Tòa án quyết định bác tồn bộ u cầu của chị Hiền. Theo
nhóm, hướng giải quyết này của Tòa là hợp lý. Bởi lẽ, cả chị Tám và chị Hiền không
ai xác định được cụ thể ai là người trực tiếp đánh chị Hiền hoặc chị Tám. Hơn nữa, bà
Khánh (được chị Hiền ủy quyền) khơng xuất trình được các tài liệu, chứng cứ để
chứng minh chính anh Hải là người gây ra thương tích cho chị Hiền. Do đó, chị Hiền
khơng có cơ sở buộc anh Hải phải bồi thường thiệt hại cho chị Hiền. (Hành vi của anh
Hải khơng có mối quan hệ nhân quả với thương tích của chi Hiền).
Thứ hai, về việc Tòa án quyết định bác yêu cầu của bà Khánh và buộc anh Hải
bồi thường 267.000đ (1/3 số tiền bà Khánh yêu cầu) cho bà Khánh do thiệt hại về tài
sản. Theo nhóm, hướng giải quyết này chưa thực sự thỏa đáng. Bởi vì, trong tình
huống này vụ xô xát, giẳng co xảy ra giữa chị Hiền, chị Tám với anh Hải dẫn đến thiệt
hại về tài sản do vậy những người này phải liên đới bồi thường cho bà Khánh theo quy
định tại Điều 587 BLDS 2015. Tuy nhiên cần phải xác định mức độ lỗi của mỗi người
để có mức bồi thường tương ứng, khơng thể chia đều cho người bị hại như vậy được,
điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người chịu tổn thất là bà Khánh. Ngồi
ra, bà Khánh có thể yêu cầu anh Hải bồi thường toàn bộ thiệt hại, căn cứ theo khoản 1
Điều 288 BLDS 2015, bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có
nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Bộ Luật Dân Sự Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2015.
Bộ Luật Dân Sự Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2005.
2. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bản án số 20/2018/DS-ST ngày 23/4/2018 về: “V/v Tranh chấp bồi thường
thiệt hạt do danh dự, uy tín bị xâm phạm” của Tịa án nhân dân Quận 2, TP. Hồ
Chí Minh.
Bản án số 08/2017/DS-ST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai
tỉnh Gia Lai.
Bản án số 26/2017/2017 ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Bản án số 31/2019/HS-PT ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
Bản án: 19/2007/DS-ST ngày 16/04/2007 về vụ việc “Yêu cầu bồi thường thiệt
hại do tài sản bị xâm phạm – Tòa án nhân dân, Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Quyết định số 226/2012/DS-GĐT ngày 22/5/2012 Về vụ án “Bồi thường thiệt
hại do sức khỏe bị xâm hại” của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015.
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Bản án và bình luận
bản án, tập 1, Nxb. Hồng Đức, năm 2016.