Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.91 KB, 31 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN LẠC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ YÊN LẠC. CHUYÊN ĐỀ HSG MÔN: NGỮ VĂN. CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI. Giáo viên: Lê Thị Lan Tổ: Khoa học xã hội. Yên lạc, tháng 11 năm 2015.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ M. Go-rơ-ki nói “ Văn học là nhân học”. Văn học là cuốn sách về cuộc đời, phản ánh đời sống, số phận con người ở mọi thời đại. Văn học giúp con người có thêm niềm tin vào cuộc sống và hướng con người đến Chân - Thiện- Mĩ. Bởi vậy, trong quá trình giáo dục học sinh ở nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn có vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các tác phẩm văn chương, người giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức phong phú về xã hội, con người và cuộc sống…của dân tộc và nhân loại. Đồng thời thông qua các tác phẩm văn chương chúng ta còn đem đến cho học sinh những bài học đạo đức, nhân văn cao đẹp. Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc thì văn học trung đại từ thế X đến hết thế kỉ XIX có một vị trí quan trọng và giá trị to lớn. Nó đánh dấu sự ra đời của nền văn học viết Việt Nam và ghi dấu sự phát triển của văn học dân tộc.Đồng thời nó là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học hiện đại. “ Văn học là tấm gương phản chiếu lịch sử”. Văn học trung đại ra đời và phát triển trong khuôn khổ của xã hội phong kiến Việt Nam. Bởi vậy, thông qua các tác phẩm văn học thời kì này giúp chúng ta hiểu hơn về truyền thống dân tộc, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông. Trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở, văn học trung đại học sinh được học ở cả bốn khối 6,7,8,9 và số tiết dành cho phần văn học trung đại ở các khối lớp là tương đối. Với sự phân phối chương trình trên, người biên soạn muốn tạo điều kiện cho các em học sinh tìm hiểu về một thời đại văn học gắn liền với sự ra đời và phát triển xã hội phong kiến Việt Nam.Một thời đại văn học ghi dấu nhiều thành tựu mang tính nền móng cho văn học dân tộc. Đồng thời qua các tác phẩm văn học trung đại, các em có được niềm tự hào về truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta để lại. Hơn nữa, cảm hứng nhân đạo là một trong hai nguồn cảm hứng lớn của văn học tạo nên giá trị nội dung của tác phẩm văn học. Đây là nguồn cảm hứng thể hiện giá trị của một tác phẩm văn chương chân chính. Một thực tế mà chúng ta nhận thấy hiện nay là chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở các nhà trường còn hạn chế. Đặc biệt là phần văn học trung đại, nhiều giáo viên ngại dạy và học sinh ngại học vì bộ phận văn học này được coi là rất khó, kiến thức hàn lâm và tài liệu tham khảo thực sự bổ ích cho học sinh và giáo viên không nhiều. Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu và trao đổi chuyên đề “ Cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại”..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> PHẦN II: NỘI DUNG I. Vài nét về bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX gắn với sự ra đời, phát triển và suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam. Dân tộc giành được quyền độc lập tự chủ vào cuối thế kỉ X, lập nhiều kì tích trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược ( Chống quân Tống thời nhà Lý, chống quân Mông- Nguyên thời Trần, chống quân Minh thời Lê). Chế độ phong kiến Việt Nam nhìn chung đang ở thời kì phát triển đi lên. Bước sang thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã có những biểu hiện khủng hoảng dẫn đến nội chiến và đất nước bị chia cắt. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, đất nước có nhiều biến động dữ dội.Chế độ phong kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái. Bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra mà đỉnh cao là phong trào nông dân Tây Sơn của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến, đánh tan các cuộc xâm lược của quân Xiêm ở phía Nam, quân Thanh ở phía Bắc. Phong trào Tây Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế và đất nước nằm trước hiểm họa xâm lược của thực dân Pháp. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Xã hội Việt Nam chuyển dần từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến. “ Văn học là tấm gương phản chiếu lịch sử”. Trước hiện thực đời sống xã hội như vậy, nhiều nhà văn, nhà thơ cảm thông số phận con người, họ đã đứng trên lập trường nhân sinh để giải quyết các vấn đề xã hội. Đó là thái độ phê phán cái xấu, cái ác; bênh vực, cảm thông với những bất hạnh, đau khổ của con người…. Những nét trên của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn học đã làm nền cho cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại. II. Những nét khái quát về cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại việt Nam 1. Khái niệm giá trị nhân đạo.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người. - Nhà văn chân chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người. - Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống con người được miêu tả trong tác phẩm. Giá trị nhân đạo của tác phẩm văn học thể hiện cụ thể ở : lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người; đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người… - Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. 2. Cội nguồn và những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam * Văn học trung đại Việt Nam phát triển trong sự tác động mạnh mẽ của truyền thống dân tộc nên chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam vừa bắt nguồn từ truyền thống nhân văn của người Việt Nam từ cội nguồn văn học dân gian biểu hiện qua lối sống “ thương người như thể thương thân” trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Đặc biệt chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam chính là sự kế thừa và phát huy giá trị nhân văn trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Đó là tình yêu thương giữa con người với con người đặc biệt là những con người bất hạnh trong các truyện cổ tích như “ Sọ Dừa”, “Thạch Sanh”, “ Chử Đồng Tử”….. Đồng thời, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật giáo ( sự từ bi, bác ái), Nho giáo( là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân), Đạo giáo( là sống thuận theo tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên). * Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại rất phong phú , đa dạng: - Trước hết, yêu nước là một phương diện quan trọng của cảm hứng nhân đạo: khi đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, nhân dân bị lâm vào cảnh khốn cùng thì yêu nước gắn liền với tấm lòng thương dân. -Tấm lòng cảm thông, xót thương của nhà văn trước nỗi thống khổ của con người. - Thái độ lên án, tố cáo những thế lực tàn ác chà đạp lên vận mệnh con người. - Trân trọng ngợi ca, thể hiện niềm tin vào vẻ đẹp của con người.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Đề cao khát vọng của con người về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa. - Đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa con người với con người. - Đưa ra những giải pháp giúp con người thoát khỏi những bi kịch, bế tắc. Có thể thấy những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo nói trên qua các tác phẩm văn học Phật giáo thời Lí ( “ Cáo tật thị chúng”- của thiền sư Mãn Giác, “ Ngôn hoài”- thiền sư Không Lộ), qua các sáng tác của Nguyễn Trãi, sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm , sáng tác của Nguyễn Dữ. Cảm hứng nhân đạo đặc biệt nổi bật ở các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa cuối thế kỉ XIX như: Chinh phụ ngâm khúc- Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm dịch, Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia Thiều, Thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… III. Biểu hiện của cảm hứng nhân đạo qua một số tác phẩm văn học trung đại 1. Đồng cảm, xót thương với số phận bi kịch của con người (nhất là người phụ nữ) a. Trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ Nguyễn Dữcảm thương cho số phận khổ đau, bất hạnh, oan khiên, nghiệt ngã của Vũ Nương: Vũ Nương là một cô gái nết na , thùy mị nhưng có số phận bất hạnh. Nàng chính là nạn nhân của chế độ nam quyền, của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Mở đầu cho những bất hạnh đời nàng chính xuất phát từ cuộc hôn nhân không bình đẳng “ Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Rồi đến khi lấy chồng, nàng phải đằng đẵng mòn mỏi chờ chồng đi chiến trận “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trờikhông thể nào ngăn được”. Khi Trương Sinh trở về, vốn tính đa nghi, hồ đồ, độc đoán lại tin lời nói ngây thơ của con trẻ Trương Sinh đã nghi ngờ lòng chung thủy của vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương, không cho nàng phân trần biện bạch. Trong cơn đau khổ, tuyệt vọng khi bị dồn đến đường cùng, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và trẫm mình ở bến Hoàng Giang để bảo toàn danh dự. Hành động của nàng không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận mà là hành động có sự chỉ đạo của lí trí. Chỉ vì sự hiểu lầm và thói ghen tuông ích kỉ của người chồng mà nàng đã phải chịu nỗi đau đớn về tinh thần, thậm chí phải tự kết liễu cuộc đời mình, mặc dù nàng đã cố gắng hết sức để giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình. Một con người như Vũ Nương lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn thì lại phải chết một cách oan khốc, đau đớn. b. Với “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tác giả Mộng Liên Đường bình luận “ Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiếnai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột…”. Thật vậy, “ Truyện Kiều” là tiếng nói tha thiết bảo vệ quyền sống con người. Trong vô số nạn nhân của xã hội cũ, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng, xót thương cho số phận bất hạnh của người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh. Tấm lòng của ông trước hết dành cho Đạm Tiên- một người con gái tài sắc: Nổi danh tài sắc một thì Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh Nhưng đau đớn thay, cuộc đời nàng lại là cuộc đời của một ca nhi ê chề, đau đớn: Sống làm vợ khắp người ta Khéo thay thác xuống làm ma không chồng! Khi mất, nấm mồ của nàng chỉ là nấm mồ vô chủ, hoang lạnh không hương khói, không người viếng thăm ngay trong ngày lễ tảo mộ Sè sè nấm đất bên đường Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Đặc biệt nhân vật Thúy Kiều- nhân vật mà Nguyễn Du dành nhiều tình yêu thương. Khóc thương cho Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nối đau lớn của con người khi tình yêu tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đọa đày. Nguyễn Du như hóa thân vào nàng Kiều trong từng trang viết để cùng đau với nỗi đau của nhân vật trong kiếp đoạn trường lưu lạc: Tai họa ập đến với gia đình, Kiều phải hi sinh chữ “tình” để làm tròn chữ “hiếu”. Nhưng chỉ có Nguyễn Du mới hiểu được nỗi đau đớn của Kiểu khi phải trao duyên cho Thúy Vân, nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim Ôi Kim Lang hỡi Kim Lang! Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây! Còn gì đau xót hơn khi mối tình đầu Kim- Kiều vừa chớm nở đã ly tan. Lời thề với Kim Trọng vừa trao thì Kiều phải bán mình để cứu gia đình. Khóc cho tình cốt nhục lìa tan, nhà thơ đồng cảm với cảnh kẻ đi người ở trong ngày chia ly gia đình: Đau lòng kẻ ở người đi, Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm Từ đây,tài sắc vẹn toàn, tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều phải chịu sự chà đạp , xúc phạm ghê gớm.Tài sắc của nàng bị đem ra mua bán, cò kè mặc cả như món hàng giữa chợ: Đắn đo cân sắc, cân tài, Ép cung cầm nghuyệt thử bài quạt thơ..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Rồi từ một tiểu thư đài các, Kiều trở thành một kĩ nữ lầu xanh, bị tước đoạt quyền làm người, quyền sống, quyền hạnh phúc. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Cuộc gặp gỡ với Thúc Sinh đã không đem lại kết quả như ý. Kiều đã bị Hoạn Thưvợ cả của Thúc Sinh hành hạ trong cơn ngứa ghẻ hờn ghen và rơi vào cảnh trớ trêu: Cùng trong một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm! Đau đớn cùng cực, Kiều tìm cách thoát khỏi nhà Hoạn Thư , định nương nhờ cửa phật nhưng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh và bị bán vào lầu xanh lần thứ hai. Ở đây, Kiều đã gặp Từ Hải- người anh hùng “ Đầu đội trời, chân đạp đất” tưởng đời Kiều sẽ rực sáng nhưng nàng lại mắc lừa Hồ Tôn Hiến và vô tình giết chết Từ Hải để rồi phải chịu cảnh “ Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan”. Hồ Tôn Hiến đã bắt nàng hầu đàn, hầu rượu trong tiệc mừng công của hắn rồi hắn lại ép gả nàng cho viên thổ quan.Tủi nhục, bế tắc, Kiều đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nguyễn Du không cầm được nỗi xót thương vô hạn: Thương thay cũng một kiếp người, Hại thay, mang lấy sắc tài làm chi! Bằng trái tim tràn đầy yêu thương, Nguyễn Du đã xót thương cho kiếp đoạn trường của những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Đó là sự thương cảm cũng là sự xót đau của nhà thơ cho số phận con người trước sự bất công của xã hội. c. Trong “ Chinh phụ ngâm khúc”- của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm dịch Người phụ nữ trong tác phẩm là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Có thể nói tác phẩm “ Chinh phụ ngâm khúc” là tiếng kêu khắc khoải của người vợ trẻ có chồng bị cuốn vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Người chồng ra trận đối đầu với cái chết. Người vợ ở nhà thì buồng cũ chiếu chăn, sống cảnh đơn độc, vò võ mòn mỏi chờ mong , lo âu phấp phỏng: lo cho chồng nơi chiến địa, lo cho tuổi xuân của mình lặng lẽ trôi qua: “ Thiếp rầu thiếp, lại rầu chàng chẳng quên”. Nỗi cô đơn gặm nhấm dần tuổi trẻ, người chinh phụ không khỏi lo lắng cho sự tàn tạ của mình: “ Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng”..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Nàng khao khát gặp lại chồng, dù chỉ một lần thôi, song , chiến tranh đẩy họ ra xa nhau, mỗi người một phương biền biệt. “ Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” Nỗi sầu chia li nặng nề tưởng như phủ lên màu biếc của trời mây, trải vào màu xanh của ngàn núi.Họ chia li về hình hài thể xác, nhưng tình thương và nỗi nhớ, sự gắn bó thì không chia li, rời cắt. Họ cố dõi theo nhau, tìm nhau để mãi mãi thấy nhau. Vậy mà càng cố gắng, họ càng tuyệt vọng: “ Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai,” Từ “sầu” trong câu thơ như đúc kết lại tất cả những cung bậc tình cảm.Nỗi buồn li biệt đã nhân lên, dâng trào, trở thành một khối sầu thương, trĩu nặng trong tâm hồn người chinh phụ. Nỗi sầu chia li giày vò, người chinh phụ chỉ còn biết tìm chút hạnh phúc trong mộng mị: Duy còn hồn mộng được gần Đêm đêm tìm đến giang tân tìm người…. Còn chiến tranh, người phụ nữ còn phải chịu nhiều đau khổ. d. Trong thơ Hồ Xuân Hương Trong đội ngũ những nhà thơ nữ của thời kì văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được coi là nhà thơ tài hoa và độc đáo nhất. Tuy cuộc đời gặp nhiều éo le ngang trái, nhưng tác phẩm thơ ca của bà vẫn thấm đẫm tình thương con người, ngời sáng niềm tin yêu và trân trọng đối với con người, trước hết là đối với người phụ nữ. Trong nhiều bài thơ của mình bà đã thể hiện tấm lòng thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tiêu biểu là bài thơ “ Bánh trôi nước”. Trong bài thơ, bà đã sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian để nêu rõ cuộc đời long đong, vất vả, chìm nổi của người phụ nữ “ Ba chìm bảy nổi với nướcnon”. Hình ảnh “nước non” cho ta hiểu số phận , cuộc đời người phụ nữ bấp bênh, chìm nổi, xuống ghềnh, lên thác vì chồng,vì con, vì non sông, đát nước. Thật đáng cảm thương và trân trọng! Không chỉ có số phận long đong, người phụ nữ trong xã hội phong kiến còn bị phụ thuộc. Câu thơ “ Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” đã hình tượng hóa cuộc đời không được làm chủ, không được tự quyết định tương lai hạnh phúc của người phụ nữ xưa. Hai từ “rắn”, “nát” đọc lên nghe thật tội nghiệp, thân phận con người ngỡ như một vật dụng nhỏ nhoi, tầm thường nhất. 2. Lên án, tố cáo những thế lực chà đạp lên thân phận con người. Qua bi kịch thân phận của người con gái trong thơ Hồ Xuân Hương, của Thúy Kiều, Vũ Nương, Đạm Tiên… các tác giả văn học trung đại đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Trước hết, đó là cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm bao gia đình rơi vào cảnh li tán: mẹ mất con, vợ lìa chồng: a. Trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ: Nhân vật Trương Sinh phải đầu quân đi lính để lại quê hương mẹ già, vợ dại, con thơ. Và mọi bi kịch của gia đình Trương Sinh được bắt đầu từ đây. Người mẹ Trương Sinh vì nhớ và lo lắng cho con mà sinh ốm đau bệnh tật rồi mất. Người vợ trẻ của Trương Sinh là Vũ Nương ở nhà một mình thay chồng gánh vác công việc gia đình. Thật trớ trêu, vì xa cách bởi binh lửa chiến tranh nên khi vợ chồng Vũ Nương đoàn tụ cũng là ngày tai họa ập xuống. Trương Sinh vốn tính đa nghi lại tin lời con nhỏ thơ ngây nên đã một mực nghi oan cho Vũ Nương không chung thủy rồi mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Không thể thanh minh biện bạch, Vũ Nương đã tự tìm đến cái chết để chứng minh phẩm hạnh. Như thế, chiến tranh phong kiến chính là nguyên nhân gián tiếp đẩy Vũ Nương đến cái chết oan uổng và cũng là nguyên nhân chính gây ra tai họa cho gia đình Trương Sinh. Để rồi Trương Sinh cũng phải sống cả cuộc đời trong đau khổ, day dứt. b.Trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm dịch. Chiến tranh phong kiến chính là tội ác đẩy đôi vợ chồng trẻ vào cuộc chia ly ai oán. Người chồng ra trận đối mặt với cái chết, người vợ ở nhà sống trong nỗi sầu thương khắc khoải: lo cho chồng nơi chiến địa, lo cho tuổi xuân của mình lặng lẽ trôi qua. Nỗi sầu chia ly của người chinh phụ lúc tiễn chồng ra trận như nhuốm cả vào mây trời, núi non cảnh vật. Cuộc sống của người chinh phụ trong tác phẩm chính là lời tố cáo đanh thép chiến tranh phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi của con người.Tác phẩm trở thành bản cáo trạng kết án chiến tranh phong kiến phi nghĩa chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. “ Chinh phụ ngâm khúc” không trực tiếp miêu tả chiến tranh với toàn bộ sự khốc liệt gian khổ của nó. Tác giả chỉ gợi lại cả một thời loạn lạc trong một câu mở đầu khúc ngâm “ Thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Hình ảnh chiến trường trong tác phẩm cũng chỉ là hình ảnh tưởng tượng của người chinh phụ.Toàn bộ khúc ngâm là tâm trạng người chinh phụ.Trong những ngày chia li dằng dặc, tâm trạng ấy diễn biến phức tạp, là một chuỗi những lưu luyến, sầu nhớ, chờ đợi, lo lắng.Thế nhưng, người đọc vẫn thấy rõ sự phi lí, tàn nhẫn của chiến tranh.Chiến tranh đối lập với hạnh phúc, phá hoại hạnh phúc. Bởi vậy, toàn bộ khúc ngâm trở thành bản cáo trạng lên án chiến tranh phong kiến, đòi quyền hạnh phúc cho con người. Nguyện vọng sum họp, hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ thống nhất với nguyện vọng của đông đảo nhân dân đang.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> phản đối và chán ghét nội chiến phong kiến. Điều đó làm nên một phần quan trọng giá trị của tác phẩm. Không chỉ có chiến tranh phong kiến gây tội ác cho con người mà tư tưởng trong nam khinh nữ trong xã hội phong kiến cũng gây bao đau khổ cho người phụ nữ. Tư tưởng “ Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của xã hội phong kiến đã khiến bao số phận người phụ nữ rơi vào tấn bi kịch cuộc đời. Trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, Vũ Nương là nạn nhân của tư tưởng này. Tư tưởng đề cao vai trò của người đàn ông trong gia đình đã tạo cho Trương Sinh cái thế của kẻ có tiền và có quyền nên Trương – một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên gái trị nhân phẩm của người vợ hiền thục, nết na. Xét trong quan hệ gia đình, thái độ và hành động của Trương Sinh chỉ là sự ghen tuông mù quáng, thiếu căn cứ.Nhưng xét trong quan hệ xã hội, hành động ghen tuông của Trương Sinh không phải là một trạng thái tâm lí bột phát trong cơn nóng giận bất thường mà là hệ quả của một loại tính cách- sản phẩm của xã hội đương thời. Tuy nhiên, nếu Trương Sinh là thủ phạm trực tiếp gây nên cái chết của Vũ Nương thì nguyên nhân sâu xa lại do chính xã hội phong kiến bất công- xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể tự đứng ra để bảo vệ cho giá trị nhân phẩm của mình. Hay trong thơ Hồ Xuân Hương chúng ta thấy rất rõ sự đả phá mạnh mẽ vào xã hội phong kiến đầy bất công. Vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, số phận của người phụ nữ luôn bị vùi dập vào vũng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi cái xã hội bất công nam quyền độc đoán, sống dưới chế độ phong kiến ấy, Hồ Xuân Hương cũng là một nạn nhân của xã hội. Đời bà luôn gặp những khổ đau lận đận, tình duyên trắc trở, phải chịu một cuộc đời làm lẽ, nhưng bà vẫn đứng vững trên lập trường nhân sinh để bênh vực và đề cao phụ nữ; mặt khác bà lớn tiếng đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến bằng những vần thơ Nôm của mình. Cho nên đã có ý kiến cho rằng “ Thơ Xuân Hương bộc lộ rõ con người Xuân Hương, tự tin, đa tài, đa tình nhưng éo le, hẩm hiu đường duyên phận. Nữ sĩ tha thiết cảm thông, bênh vực cảnh “bảy nổi ba chìm” của khách má hồng và lên tiếng công khai giễu cợt kẻ tầm thường kém cỏi về tài đức”. Thật vậy! Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ giàu tình cảm, nhưng số phận hẩm hiu, thân thế long đong cho nên thơ bà và cả số phận của bà có thể được coi là tiêu biểu cho bao nỗi đắng cay, dằn vặt, bao phản kháng và bất bình, cùng bao khát vọng thường tình nhưng hết sức bức thiết của người phụ nữ. Vì thế thơ của bà thường là những vần thơ mạnh bạo, biểu cảm cả hai mặt trong ý tưởng từ ngữ, hình ảnh và vần điệu.bằng những hình ảnh tượng.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> trưng và cặp quan hệ từ kết hợp với thành ngữ trong Bánh trôi nước, Hồ Xuân Hương đã nói lên được cái bất công của xã hội. Đó chính là cảnh ngộ của người con gái giàu sức sống và hết sức tài hoa nhưng cuộc đời thật bất hạnh, số phận thật lận đận, gian truân: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. Càng bênh vực người phụ nữ, thơ của Hồ Xuân Hương càng khẳng định rõ cái vai trò của người phụ nữ. Càng cảm thông với cảnh “bảy nổi ba chìm” của khách má hồng, Hồ Xuân Hương càng đả kích chế độ nam quyền, thần quyền, nói lên tiếng nói phản kháng mãnh liệt đối với cái chế độ đã gây cho bà và những người phụ nữ khác bao nỗi bất hạnh khổ đau. Đặc biệt kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, tác phẩm giống như ngọn roi quất thẳng vào những bất công, độc ác, đê hèn của giai cấp thống trị trong xã hội cũ từ bọn quan lại đến sai nha đến bọn buôn thịt bán người không từ một thủ đoạn nào chỉ vì đồng tiền. Bọn chúng mỗi tên một vẻ, không ai giống ai nhưng có chung một hành động là xô đẩy Thúy Kiều vào con đường cùng của cuộc đời. Viên quan thứ nhất xử vụ việc gia đình Kiều bị tên bán tơ vu oan. Sau khi đã cho bọn sai nha “ Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” đẩy gia đình Vương viên ngoại vào cảnh khánh kiệt đồng thời dùng vũ lực để chà đạp họ, Rường cao rút ngược dây oan Dẫu là đá cũng nát gan lọ người! thì thần công lí chỉ dụi cơn thịnh nộ khi thấy có mùi tanh tưởi của đồng tiền Tính bài lót đó luồn đây, Có ba trăm lạng việc này mới xong. Bởi vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính viên quan đầu tiên này đã đẩy Thúy Kiều từ một cô gái trong trắng vào nhà chứa. Viên quan thứ hai xử vụ Thúc Ông kiện Thúy Kiều. Việc xử kiện của quan mới lạ kì làm sao Một là cứ phép gia hình, Hai là lại cứ lầu xanh phó về! Đó là một tên quan vô trách nhiệm trước số phận và tính mạng của con người.Vì đồng tiền mà mất hết lương tri. Luật pháp ở đây rõ ràng có tính chất trả thù, lăng nhục chứ không có tính giáo huấn..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Viên quan thứ ba là tên tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến- một tên quan bất tài nhưng tráo trở độc ác và đê tiện. Biết Từ Hải là đấng anh hùng, hắn đã tìm cách mua chuộc Thúy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng rồi đẩy Từ vào chỗ chết Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên binh hậu,khắc cờ tập công. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, Lễ nghi dàn trước, vác đồng phục sau. Đê tiện hơn, sau khi giết Từ Hải, hắn còn bắt Thúy Kiều hầu đàn hầu rượu trong tiệc mừng công của hắn.Cuối cùng vì sĩ diện cá nhân, vì ghen ghét hắn đã ép gả Kiều cho viên thổ quan, để nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Gia đình Hoạn Thư là gia đình quan lại duy nhất trong tác phẩm được Nguyễn Du miêu tả.Điều đáng lưu ý là trong gia đình ấy, bao giờ cũng có một bầy côn quang, để khi cần thì đốt nhà, bắt người về để hành hạ mà không sợ gì đến pháp luật.Đối với gia đình Hoạn Thư, chính quyền không được động đến, nhà chùa cũng phải sợ, nhà buôn cũng phải nể, một uy thế nghiêng cả thiên hạ. Có thể nói, bọn quan lại đã dùng thế lực, quyền hành để chà đạp những người lương thiện, dồn đẩy họ vào cảnh ngộ thương tâm. Và bọn tay sai được quan thầy dung túng mà trở thành công cụ gây tội ác cho dân. Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao. Người nách thước kẻ tay đao, Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. Xã hội trong Truyện Kiều, sau thế lực quan lại là thế lực đồng tiền, đồng tiền tác oai tác quái trong xã hội, đổi trắng thay đen. Trong tác phẩm, nhiều lần Nguyễn Du đã lên án sức mạnh của nó: Định ngày nạp thái vu quy, Hay: Trong tay sẵn có đồng tiền, Dẫu rằng đổi trắng thay đen khó gì. Bên cạnh đó, tác phẩm còn lên án thế lực lưu manh côn đồ bất lương. Vì tiền mà chúng không từ một thủ đoạn nào, thậm chí cả việc bán linh hồn cho quỷ.Bọn chúng là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh. Chỉ bằng vài nét vẽ, Nguyễn Du đã khắc họa được không chỉ ngoại hình mà cả tính cách đê tiện của những kẻ quen kiếm ăn miền nguyệt hoa. Đó là tên mã Giám Sinh:.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Hay mụ Tú Bà: Thoắt trông lờn lợt màu da, Ăn chi to lớn đẫy đà làm sao. Hay tên Sở Khanh- một kẻ chuyên lừa đảo: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào. Có thể nói, Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép với tất cả những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Tác phẩm là tiếng nói của một tâm hồn cao cả, một trái tim chứa chan tình nhân đạo, đau xót vì số phận con người. 3. Ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của con người. Có thể nói đây là cảm hứng lớn trong văn học trung đại.Bằng tấm lòng nhân ái, các tác giả đã phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ. a.Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ nương. Xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng ở Vũ Nương đã hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam theo quan điểm Nho giáo (đủ tam tòng tứ đức). Đặc biệt, tác giả đã đặt nhân vật trong các mối quan hệ để làm toát lên vẻ đẹp ấy. Với chồng, nàng là người vợ hiền thục, luôn biết “ giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ choongfphair đến thất hòa”. Với con, nàng là người mẹ dịu dàng, đầy tình yêu thương( chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng chính xuất phát từ tấm lòng người mẹ: để con trai mình bớt đi sự thiếu vắng tình phụ tử). Với mẹ chồng, nàng làm tròn bổn phận của một người con dâu hiếu thảo( thay chồng chăm sóc mẹ, động viên khi mẹ buồn nhớ con, thuốc thang khi mẹ ốm, lo ma chay chu đáo khi mẹ qua đời). Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ nương còn thể hiện ngay cả khi nàng sống dưới thủy cung( sẵn sàng tha thứ cho Trương Sinh; một mực nhớ thương chồng con nhưng không trở về vì nặng ơn nghĩa với Linh Phi). Thậm chí, Vũ Nương còn sẵn sàng chết để minh oan cho mình khi bị chồng nghi oan. Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc học thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> b.Trong thơ Hồ Xuân Hương, chúng ta luôn thấy ngời sáng niềm tin yêu trân trọng đối với con người, trước hết là đối với người phụ nữ. Trong bài thơ “ Bánh trôi nước”: Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Hồ Xuân Hương không chỉ ca ngợi nhan sắc, vẻ đẹp bên ngoài mà còn trân trọng cả tâm hồn, đức hạnh, cách nói năng ứng xử khiêm nhường duyên dáng của chị em. Rõ ràng, người phụ nữ Việt Nam đã vượt lên chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận để giữ vững phẩm chất tấm lòng nhân hậu thủy chung với cuộc đời, với con người. c.Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm tôn vinh những vẻ đẹp nhân bản của con người, thể hiện niềm trân trọng, ngợi ca, ngưỡng mộ của nhà thơ với vẻ đẹp hình thể, tài năng và tâm hồn của con người. Dưới ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du hình ảnh người phụ nữ, văn nhân, võ tướng trong “ Truyện Kiều” hiện lên thật đáng trân trọng. Trước hết là bức chân dung của Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ trong văn học cổ để khắc họa vẻ đẹp toàn bích toàn mĩ của hai kiều. Thúy Vân được miêu tả với một vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn: Vân xem trang trọng khác vời. Khuôn trăng đày đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp phúc hậu, cao sang quý phái, vẻ đẹp khiến người ta kính nể, chấp nhận một cách êm đềm và tạo hóa cũng nâng niu, nhường nhịn. Với Thúy Kiều- nhân vật chính, Nguyễn Du đã dành nhiều tình cảm cho nhân vật. Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước là muốn dùng Vân làm nền cho vẻ đẹp của Thúy Kiều tỏa sáng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự kết hợp của sắc- tài- tình- mệnh. Về nhan sắc, Nguyễn Du chỉ tập trung miêu tả vẻ đẹp của đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ, sự mặn mà của tình cảm: Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hớn kém xanh..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Gợi tả vẻ đẹp của giai nhân, tác giả sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ “thu thủy” (làn nước mùa thu), “xuân sơn” (dáng núi mùa xuân). Hình ảnh ẩn dụ ấy thể hiện sự sống động của đôi mắt sáng long lanh, linh hoạt, và đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Nét vẽ thi nhân thiên về gợi và chủ yếu nói vè chiều sâu và sự lan tỏa của vẻ đẹp chứ không mang tính chất liệt kê, đã tạo một ấn tượng sâu đậm về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đó là vẻ đẹp rực rỡ, đằm thắm, hấp dẫn, duyên dáng của người con gái khiến tạo hóa phải ganh ghét, đố kị.Vẻ đẹp của Kiều như có một sức mạnh kì diệu làm khuynh đảo nhân tâm thiên hạ. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Về tài năng,nếu ở Thúy Vân, ta chỉ thấy tác giả gợi tả nhan sắc thì ở Kiều , Nguyễn Du dành tới hai phần miêu tả tài năng và tâm hồn. kiều là một cô gái đa tài, đủ cả cầm, kì, thi, họa. Tài năng của nàng đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến. tài nào cũng thành nghề riêng, đạt đến bậc thầy. Đặc biệt, tài đàn của Kiều là sở trường, là năng khiếu vượt trội hơn người: Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương. Không chỉ có sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, tài năng bẩm sinh hơn người, Kiều còn có một tâm hồn, một nhân cách đáng trân trọng. Trước hết, bản đàn “ Bạc mệnh” do Kiều sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Trong quan hệ với Kim Trọng, Kiều luôn thể hiện mình là một người yêu chung thủy. Trong suốt mười năm năm lưu lạc với bao biến cố, thăng trầm lớn lao nhưng mối tình với Kim Trọng vẫn là tình yêu đầu tiên, duy nhất và mãi mãi của nàng. Bởi vậy, trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, nàng đã quên đi nỗi đau của bản thân để nhớ về Kim Trọng trong sự mặc cảm bản thân vì nàng cho rằng mình là kẻ đã phụ tình chàng Kim: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trong quan hệ gia đình, nàng luôn là người con hiếu thảo: Trong khi gia đình gặp gia biến, bị thằng bán tơ vu oan rồi lâm vào cảnh cha và em trai bị bắt trói, tài sản bị “ sạch sành sanh vét”, Kiều đã tự nguyện hi sinh bản thân mình để cứu gia đình. Nàng đã hi sinh mối tình đầu vừa chớm nở với Kim Trọng để làm tròn chữ Hiếu. Lựa chọn ấy cũng là bởi nàng luôn nghĩ “ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Đến khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, tương lai mù mịt, cuộc sống trước mắt là địa ngục trần gian vậy mà nàng đã quên đi nỗi đau của mình để dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết về cha mẹ. Nhớ về cha mẹ, nàng đau đớn xót xa khi đạo làm con chưa vẹn toàn chữ Hiếu. Nàng xót xa khi cha mẹ già yếu mà nàng không được tự taysớm hôm chăm sóc. Nàng nghẹn lòng khi tưởng tượng sự đổi thay của quê nhà mà sự thay đổi lớn nhất là cha mẹ ngày một già yếu: Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc Tử đã vừa người ôm. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên đi cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Thật vô cùng xúc động trước tấm lòng thủy chung, hiếu thảo, vị tha đáng trọng của người con gái họ Vương. Trong quan hệ xã hội, Kiều cũng là người vô cùng trọng ơn nghĩa và nhân hậu.Chúng ta hẳn còn nhớ, khi được Từ Hải giúp đỡ, Kiều đã trả ơn những người đã giúp đỡ mình và người đàu tiên được nàng trả ơn là Thúc Sinh. Cho gươm mời đến Thúc Lang, Mặt như tràm đổ mình dường rẽ run. Gặp lại người xưa trong hoàn cảnh khác hẳn, nhất là thấy điệu bộ sợ hãi của Thúc Sinh, Kiều vừa xúc động và không khỏi cảm thương.Nàng nhắc lại quá khứ, những ngày tháng hạnh phúc êm đềm nhưng ngắn ngủi của hai người với tấm lòng trân trọng. Nàng khẳng định tình xưa nghĩa cũ nặng tựa nghìn ngọn núi. Nàng tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với Thúc Sinh và chàng đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, đã cho nàng được hưởng những ngày tháng êm ấm dưới mái ấm gia đình. Không chỉ vậy, nàng còn thấu hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh và nàng biết thủ phạm gây đau khổ cho nàng không phải là Thúc Sinh: Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Kiều sai ban thưởng cho Thúc Sinh “ Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”, nhưng nàng vẫn nghĩ bao nhiêu gấm vóc lụa là cũng không xứng với nghĩa nặng tình thâm và chưa thể trả hết ơn nghĩa mà chàng Thúc đã dành cho nàng trong buổi đoạn trường đầy éo le đau khổ. Còn với Hoạn Thư- người đã gây cho Kiều bao nhiêu đau khổ, nhục nhã. Trong màn báo ân báo oán, bao nhiêu oán giận và quyết tâm trả thù nhưng khi nghe Hoạn Thư bào chữa thì Thúy Kiều lại tha bổng ngay: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống, trướng tiền tha ngay. Việc Kiều tha bổng cho Hoạn Thư không phải do tài ăn nói của mụ mà xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của người con gái họ Vương. Kiều vốn có bản tính của con người nhân hậu, độ lượng, cũng là một con người thấu tình đạt lý, thông minh, sáng suốt. Bởi vậy, trong hoàn cảnh này tấm lòng vị tha của nàng thật đáng trân trọng.Đây là quan niệm sống nhân nghĩa đã trở thành truyền thống của dân tộc ta.Phải có tấm long nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Du mới có sự thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc và ngợi ca nàng Kiều như vậy. Trong “ Truyện Kiều” Kim Trọng cũng để lại ấn tượng đẹp đẽ với người đọc. Kim Trọng cũng là nhân vật được Nguyễn Du dành nhiều ưu ái và gửi gắm lý tưởng thẩm mĩ.Bởi vậy khi xây dựng nhân vật Kim Trọng, Nguyễn Du đã dành sự ngợi ca một bậc văn nhân tài tài tử hội tụ cả tinh hoa của thời đại. Kim Trọng xuất hiện trong buổi chiều khi chị em Thúy Kiều du xuân trở về với dáng vẻ khoan thai mà đĩnh đạc : Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng Nho nhã mà phóng khoáng: “ Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con.. Sự xuất hiện của chàng như xua đi âm khí nặng nề bên nấm mồ vô chủ, làm không gian như bừng sáng: Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. Ta có cảm giác Nguyễn Du vẽ bức hình Kim Trọng không phải bằng màu sắc mà bằng ánh sáng. Ánh sáng trong suốt và tinh khiết, lấp lánh sắc màu khi vầng dương dọi chiếu. Bức chân dung Kim Trọng tỏa hào quang khi vầng dương tình yêu trong lòng Kiều tỏa sáng. Không chỉ đẹp với vẻ ngoài, bức chân dung Kim Trọng còn thể hiện tính cách. Cái cốt cách của một chàng trai: “ Phong tư tài mạo tót vời,.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” Đó là vẻ đẹp hào hoa, phong nhã, lịch sự của một con người xuất thân trong một gia đình trâm anh thế phiệt.Có thể nói, Nguyễn Du đã dành cho Kim Trọng những tình cảm ưu ái nhất cũng như ông đã dành cho Thúy Kiều.Họ là cặp nhân vật “tài tử giai nhân” mà ông gửi gắm nhiều tình cảm.Kim Trọng là người có tình yêu sâu sắc và trọng tình nghĩa.Khi biết được hoàn cảnh phải bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, chàng vô cùng đau đớn, xót xa. Và dù đã kết duyên với Thúy Vân theo nguyện ước của Kiều, nhưng không lúc nào Kim Trọng nguôi nhớ người xưa. Đến khi đỗ đạt làm quan rồi chàng vẫn dò la tin tức của Kiều và đi tìm nàng khắp nơi. Đáng quý hơn nữa là tấm lòng nhân ái của nàng, khi gặp lại Thúy Kiều sau mười năm năm lưu lạc, khi nghe Kiều thổ lộ: Thiếp từ ngộ biến đến giờ, Ong qua, bướm lại đã thừa xấu xa. Chàng Kim đã nói: “ Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Đó là cái nhìn đày sự hiểu biết, cảm thông và đày nhân văn của Kim Trọng bởi chàng hiểu với Thúy Kiều nàng đã lấy hiếu làm trinh.Đó cũng là cái nhìn đầy tiến bộ của Nguyễn Du vượt ra khỏi quan niệm hẹp hòi của chế độ phong kiến. Trong Truyện Kiều nếu Kim Trọng mang vẻ đẹp của một bậc văn nhân tài tử thì nhân vật Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp của một bậc anh xuất chúng, tướng mạo uy nghi: Râu hùm hàm én mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Có tài năng xuất chúng “ Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.” Bằng tấm lòng hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và giúp nàng báo ân báo oán làm bớt đi phần nào tủi cực ê chề trong mười năm năm lưu lạc. Từ Hải là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng tự do. Chàng tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tối tăm của cuộc đời Kiều. Như vậy, bằng ngòi bút tài hoa và tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Du đã ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải. Đó là biểu hiện của cảm hứng nhân văn trong “ Truyện Kiều”. 4. Đồng tình với những ước mơ, khát vọng chân chính của con người. a. Trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ Với đặc trưng của riêng của thể loại truyện truyền kì, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu truyện. Vũ Nương đã không chết, hay nói đúng hơn nàng đã.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> được Linh Phi cứu giúp và được sống một cuộc sống khác bình yên và tốt đẹp ở dưới thủy cung. Có thể thấy rõ ước mơ của người xưa( cũng là của tác giả) về một xã hội công bằng, tốt đẹp mà ở đó, con người sống và đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, ở đó nhân phẩm của con người được tôn trọng đúng mức. oan thì phải được giải, người hiền lành lương thiện như Vũ Nương phải được hưởng hạnh phúc. b.Trong thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là một phụ nữ độc đáo, một con người có bản lĩnh cứng cáp.Càng bênh vực phụ nữ, thơ của Hồ Xuân Hương càng khẳng định rõ cái vai trò của người phụ nữ.Họ có thể làm nên sự nghiệp lớn hơn đấng mày râu.Đồng thời, bà muốn bày tỏ cái ước mơ được đổi đời của người phụ nữ trong cái xã hội trọng nam khinh nữ này. Đó chính là khát vọng bình đẳng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu? ( Đề đền Sầm Nghi Đống) Hơn thế, sống trong cái xã hội phong kiến đầy những hủ tục hà khắc dành cho người phụ nữ, vậy mà bằng bản lĩnh của mình, Hồ Xuân Hương đã dám nói lên cái vấn đề tình yêu nam nữ một cách cương quyết, đầy táo bạo trong cái xã hội mà người phụ nữ luôn bị tước đoạt quyền sống, bị xem thường và không coi trọng cái tôi của họ: Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá bạc như vôi. ( Mời trầu) Mời trầu nhưng thực chất lại là mời duyên.Phải chăng Xuân Hương đã mơ ước một hạnh phúc êm đềm ấm cúng cho mình nhưng chưa bao giờ được nên bà đã gợi ý cho người khách của mình chuyện tình duyên. Thơ Hồ Xuân Hương thường sử dụng các từ ngữ nhiều hàm nghĩa thật khéo léo để nói lên cái mong mỏi, ước mong của mình, của những người phụ nữ trong quan hệ tình yêu và hôn nhân. Chỉ bốn câu gói gọn ấy mà nó nói lên được cái tâm trạng, suy nghĩ của tác giả về cuộc đời, đặc biệt là mơ ước của Xuân Hương nói riêng của người phụ nữ nói chung về một tình duyên mặn nồng chung thủy. c.Trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm: Tâm trạng sầu bi, nỗi buồn chờ mong khắc khoải của người chinh phụ có chồng ra trận đã phủ lên màu biếc của trời, tỏa vào màu xanh của ngàn núi.Đó là khát vọng.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ đã được các tác giả cảm thông, đồng tình và bênh vực. d. Trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du Có thể nói tác phẩm là bài ca về tình yêu tự do và công lý. Quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những quyền lợi chính đáng của con người.Nhưng xã hội phong kiến lúc này không những không đáp ứng những điều ấy mà trái lại còn chà đạp lên quyền sống của con người. Nguyễn Du- một nhà nhân đạo chủ nghĩa đã lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ của mình về một tình yêu tự do, thủy chung trong sáng và sự công bằng xã hội. Mối tình Kim – Kiều là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu trai gái, nó vượt qua vòng cương tỏa khắt khe của lễ giáo phong kiến. Ngay từ phút đầu gặp gỡ trái tim KimKiều đã rung động xốn xang: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Kim Trọng cũng là một chàng trai đắm say và táo bạo. Sau buổi gặp gỡ với Thúy Kiều, chàng đã tìm mọi cách để được gặp Kiều, thuê trọ cạnh nhà Kiều, chờ đợi hàng tháng để được gặp Kiều. Nhân câu chuyện cành thoa, chàng đã chủ động bày tỏ tình yêu với Thúy Kiều và Kiều đã nhận lời Kim Trọng rồi cả hai cùng thề nguyền đính ước gắn bó trọn đời với nhau: Đã nguyền hai chữ đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Kiều đã tự tình với Kim Trọng trọn một ngày nhân cơ hội cha mẹ và hai em đi vắng. trời tối mới sực tỉnh, nàng vội vã về nhà nhưng cha mẹ và hai em chưa về nên lại “ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để trò chuyện thề nguyền cùng Kim Trọng. Bước chân xăm xăm của Thúy Kiều đến nay chúng ta còn thấy ngơ ngác cho sự táo bạo. Tình yêu Kim- Kiều là mối tình vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến đồng thời cũng là mối tình thủy chung bất diệt. Cùng với hạnh phúc lứa đôi là khát vọng công lí, khát vọng tự do trong Truyện Kiều. Nhân vật Từ Hải trong tác phẩm là hiện thân của công bằng chính nghĩa và khát vọng công lí , là nhân vật mà Nguyễn Du gửi gắm khát vọng về tự do, công bằng xã hội. từ là mọt bậc anh hùng trí dũng vô song, phóng túng, ngang tàng ngoài vòng cương tỏa của xã hội phong kiến: Giang hồ quen thói vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Từ Hải theo đuổi chí khí “ đội trời đạp đất”, thiết tha với lí tưởng anh hùng, tự chủ Thừa cơ trúc trẻ ngói tan, Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Không chỉ là con người của tự do, Từ Hải còn là người hào hiệp. Chính Từ Hải đã cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, đưa Kiều từ thân phận của một cô gái lầu xanh lên địa vị của một phu nhân ngồi ở ghế quan tòa để ân đền, oán trả. Nhờ Từ Hải mà lần đầu tiên cũng là lần duy nhất trong xã hội Truyện Kiều công lí được thực hiện không phải theo quan điểm của kẻ quyền thế, của giai cấp thống trị mà theo quan điểm của người bị áp bức, theo quan niệm của nhân dân. Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi. Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi, Điểm danh trước dẫn trực ngoài cửa viên. Từ rằng “ Ân oán hai bên, Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.” Từ Hải đã thiết lập một tòa án, một pháp trường để xét xử những kẻ gian xảo độc ác đã từng đày đọa Kiều. Phiên tòa ấy thể hiện khát vọng giải phóng con người, lẽ công bằng được thực thi, công lí sẽ chiến thắng. Việc làm cuarTwf Hải không phải xuất phát từ tình cảm cá nhân, tình chồng nghĩa vợ mà xuất phát từ đạo nghĩa ở đời, từ mong muốn xóa bỏ áp bức, bất công. Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha. Có thể nói, hình tượng có tính chất sử thi- Từ Hải là một thành công của bút pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Một anh hùng hảo hán có tài năng và sức mạnh phi thường, một mình chống lại cả xã hội bạo tàn. Từ Hải là khát vọng công lí của nhân dân, là biểu tượng của tự do, công bằng trong xã hội phong kiến. Có lẽ Truyện Kiều có được sức sống lâu bền vì đó là bản cáo trạng bằng thơ lên án chế độ phong kiến bạo tàn, đồng thời là một tuyên ngôn về quyền sống của con người với những khát vọng tự do công lí. IV. Nghệ thuật biểu hiện của cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại Như thế, cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại được biểu hiện ở nhiều tác phẩm có khi là những lời văn có tính chất triết lí “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Bình Ngô đại cáo). Có khi là lời thơ trữ tình mang tính khái quát cao.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> “ Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Có khi cảm hứng nhân đạo được biểu hiện bằng số phận của một nhân vật ( TruyệnKiều với nàng Kiều). Lại có khi chủ nghĩa nhân đạo được biểu hiện bằng cả một khúc ngâm ( Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc)…. *Phản ánh hiện thực là một thuộc tính của văn học.Văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã phản ánh chân thực xã hội phong kiến Việt Nam với nhiều biến động thăng trầm. Xã hội có nhiều biến động lớn lao, số phận con người( đặc biệt là số phận của người phụ nữ) bị ảnh hưởng lớn nhất từ bối cảnh ấy.Các tác giả văn học giai đoạn này tiêu biểu như Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương…qua các tác phẩm đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong xã hội đầy rối ren, li loạn; lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, ước mơ tự do và ý thức về cá tính, nhiều lúc vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến. Đây là những nội dung cốt lõi trong cảm hứng nhân đạo của văn học thời kì này. V. Đề bài vận dụng Đề 1: Bàn về giá trị nội dung của văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, có ý kiến cho rằng: “Văn học giai đoạn này đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong một xã hội đầy rối ren, li loạn. Nhiều tác phẩm đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước tự do và ý thức về cá tính, nhiều lúc đã vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến.” ( Ngữ văn 9,tập 2, NXB Giáo dục, 2005, trang 192). Dựa vào những hiểu biết của mình về một số tác phẩm tiêu biểu của văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Đề 2 “ Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài…” ( Hoài Thanh- Ý nghĩa văn chương).
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Chuyện người congái Nam Xương( tríchTruyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ), Bánh trôi nước ( Hồ Xuân Hương) và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ( Truyện Kiều- Nguyễn Du). Đề 3 “ Khả năng cảm thông sâu sắc khiến cho người nghệ sĩ đã hóa thân thành người trong cuộc, nhập thân thành người trong cuộc đến từng thoáng gợn mơ hồ nhất của xúc cảm để nói lên những tiếng nói sâu xa kín khuất nhất của cõi lòng.” ( Đỗ Ngọc Thống) Em hiểu ý kiến trên như thế nào?Qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.. GỢI Ý Đề 1: Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau trên cơ sở hiểu biết hoàn cảnh lịch sử của văn học và những tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XI, làm nổi bật được:Văn học giai đoạn này đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong một xã hội đầy rối ren, li loạn. Nhiều tác phẩm đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước tự do và ý thức về cá tính, nhiều lúc đã vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến. A. Phân tích đề 1. Xác định kiểu bài: Phân tích + chứng minh 2. Nội dung: Tư tưởng nhân đạo trong các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. 3. Tư liệu: - Truyện Kiều của Nguyễn Du - Thơ Hồ Xuân Hương - Sau phút chia ly (Trích Chinh phụ ngâm khúc) của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm B. Lập dàn ý I. Mở bài.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> - Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Cảm hứng nhân đạo trong văn học - Nêu vấn đề và trích ý kiến II. Thân bài 1. Khái quát chung - Bối cảnh lịch sử của văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. + Đây là giai đoạn lịch sử dân tộc có nhiều báo táp, phức tạp: chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, phong trào nông dân khởi nghĩa ở khắp nơi và đỉnh cao là phong trào nông dân Tây Sơn…Những sự kiện đó ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học. + trước hiện thực đời sống như vậy,các nhà thơ, nhà văn đã cảm thông cho số phận con người, họ đã đứng trên lập trường nhân sinh để giải quyết các vấn đề xã hội. Đó là thái độ phê phán cái xấu, cái ác; bênh vực, cảm thông với những bất hạnh, đau khổ của con người… -Tình hình văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Văn học có nhiều thành tựu và đạt đến những đỉnh cao nghệ thuật: Hoàng Lê nhấtthống chí (Ngô gia văn phái); Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ); Truyện Kiều ( Nguyễn Du); Chinh phụ ngâm ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm ); Cung oánngâm khúc ( Nguyễn Gia Thiều)…với các tác giả lớn như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm… 2. Chứng minh a. Luận điểm 1: Văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong xã hội rối ren,li loạn - Phản ánh hiện thực là một thuộc tính của văn học. Xã hội có nhiều biến động lớn lao, số phận con người( đặc biệt là số phận của người phụ nữ) bị ảnh hưởng lớn nhất từ bối cảnh ấy. - Từ những trang miêu tả hình ảnh người phụ nữ bị xã hội cũ dồn đẩy vào những tình huống oan trái, vọng lên cả tiếng lòng đau thương, đồng cảm của các tác giả: + Nguyễn Du hóa thân vào nàng Kiều để cùng đau buồn, cùng cất lên nỗi đau xé ruột với nàng của cuộc đời khổ ải mười năm năm lưu lạc: “ Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.” + Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm xót thương cho cảnh ngộ của người phụ nữ có chồng đi chiến trận luôn trong tâm trạng khắc khoải, đợi chờ, nhớ thương, vô vọng...
<span class='text_page_counter'>(25)</span> + Hồ Xuân Hương mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước để giãi bày cuộc đời chìm nổi của người phụ nữ. b. Luận điểm 2:Văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX là tiếng nói bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, ước mơ tự do và ý thức về cá tính. - Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du + Nhân vật Thúy Kiều dù tài sắc vẹn toàn song không tránh khỏi sự hà khắc của cuộc đời. Dù cho cuộc đời Kiều trải qua 15 năm dâu bể nhưng Nguyễn Du luôn ngợi catams lòng vị tha, thủy chung, hiếu nghĩa và đức hi sinh cao cả của nàng trong suốt 15 năm ấy. Khát vọng hạnh phúc trong tình yêu vượt khỏi sự khắt khe của tư tưởng, lễ giáo đương thời. + Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải thành hình ảnh lí tưởng cho khát vọng tự do và công lí. -Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói về nhân phẩm người phụ nữ, đồng thời thể hiện vấn đề về quyền sống với khát vọng bình đẳng. + Khẳng định cái “tôi” của người phụ nữ trước cuộc sống: Cái đẹp viên mãn, sắc đẹp trắng trong, nhân phẩm cao quý. + Dù cuộc đời ba chìm bảy nổi nhưng họ vẫn nguyên vẹn tấm lòng son -Tác phẩm của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm thể hiện qua đoạn trích Sau phút chia li: Đó là khát vọng hạnh phúc lứa đôi được thể hiện trong khung cảnh chia li và đặc biệt là tâm trạng mòn mỏi chờ chồng của người chinh phụ. 3. Đánh giá - Các tác phẩm giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong xã hội đầy rối ren, li loạn; lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, ước mơ tự do và ý thức về cá tính, nhiều lúc vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến. Đây là những nội dung cốt lõi trong cảm hứng nhân đạo của văn học thời kì này. - Muốn có được điều đó, cái gốc của nhà văn vẫn là tấm lòng. Vì thế trước hết nhà văn phải viết vì cuộc đời, vì con người, tức là phải là nhà nhân đạo chủ nghĩa. III. Kết bài -Khẳng định vấn đề : Tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong các sáng tác của các tác giả văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX - Thành công của văn học giai đoạn này. Đề 2.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> A. Phân tích đề 1. Xác định kiểu bài:Giải thích + Phân tích + chứng minh 2. Nội dung: Giá trị nhân đạo trong các tác phẩm văn học 3. Tư liệu: - Chuyện người con gái Nam Xương(Trích Truyền kì mạn lục-Nguyễn Dữ) - Bánh trôi nước -Hồ Xuân Hương - Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du B. Lập dàn ý I. Mở bài - Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Cảm hứng nhân đạo trong văn học - Nêu vấn đề và trích ý kiến II. Thân bài 1. Giải thích ý kiến - Hoài Thanh đã bàn về vấn đề quan trọng, bản chất của văn chương, được coi là nguồn gốc cốt yếu của văn chương: lòng thương người mà rộng ra là thương muônvật muôn loài. Lòng thương người, thậm chí thương cả muôn vật, muôn loài là tình cảm rộng lớn, cao cả mang tầm nhân loại. Tình cảm ấy không chỉ là cội nguồn của văn chương mà còn là thước đo giá trị của tác phẩm văn chương chân chính. Giá trị đó chính là giá trị nhân đạo, là những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. - Giá trị nhân đạo là một phẩm chất cao quý của tác phẩm văn học chân chính. Biểu hiện của giá trị nhân đạo rất đa dạng song thường tập trung vào những mặt cụ thể sau: lòng thương yêu, sự cảm thông, xót xa trước những hoàn cảnh, những số phận bất hạnh; lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người; nâng niu khát vọng sống, khát vọng tình yêu và hạnh phúc của con người. 2. Chứng minh giá trị nhân đạo qua tác phẩm Chuyện người con gái NamXương, Bánh trôi nước và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. - Tấm lòng yêu thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời + Số phận của Thúy Kiều bị rơi vào lầu xanh, rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích với bao nỗi cô đơn, buồn tủi, thương thân, xót phận “ Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. + Là tình cảnh oan khiên, nghiệt ngã của Vũ Nương đến mức nàng phải dùng cái chết để chứng tỏ tấm lòng trong trắng, tiết hạnh của mình..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> + Là số phận long đong, chìm nổi, bị phụ thuộc của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. -Qua bi kịch thân phận của người con gái trong thơ Hồ Xuân Hương, của Thúy Kiều và Vũ Nương, các tác giả đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người. Đó là chiến tranh phi nghĩa, là chế độ nam quyền (Chuyện người con gái Nam Xương, Bánh trôi nước),là bọn tham quan, bọn tay sai và lũ buôn thịt bán người không từ một thủ đoạn nào chỉ vì đồng tiền ( Truyện Kiều) - Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của họ truân chuyên, chìm nổi. Đó là lòng chung thủy, sự hiếu hạnh, giàu tình yêu thương, luôn sống vì người khác, nghĩ cho người khác của Kiều và Vũ Nương; đó là thái độ dứt khoát vươn lên mạnh mẽ để “giữ tấm lòng son” của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. - Trân trọng, đề cao những khát vọng chân chính của người phụ nữ: khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, phẩm giá, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy. 3. Đánh giá -Ý kiến của Hoài Thanh về nguồn gốc, phẩm chất của văn chương là ý kiến đúng đắn, khoa học bởi nó đã nói lên đặc trưng, thuộc tính quan trọng nhất của văn học: văn học là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc; văn học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc“ Văn học là nhân học” (M. Go- rơ- ki) - Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương(trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ, bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và đoạn trích Kiều ở lầuNgưng Bích(trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du được viết bằng những thể loại hoàn toàn khác nhau nhưng đã thể hiện rõ nét quan niệm văn học của Hoài Thanh. Bởi cả ba tác phẩm ấy đều là những sáng tác mang giá trị nhân đạo cao cả, hướng tới con người, vì con người. - Ba tác giả vừa kế thừa tư tưởng nhân đạo truyền thống, mặt khác lại có thêm những nét sâu sắc, mới mẻ. Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương xứng đáng là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.Họ đã làm phong phú thêm chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam. - Bài học sáng tạo nghệ thuật: Có được một giọng điệu riêng, phong cách độc đáo là rất khó, nhưng đó là điều kiện và yeu cầu của sáng tạo nghệ thuật. Muốn có được điều đó cần tạo ra được cách cảm và đặc biệt cách thể hiện khác nhau.Tuy nhiên cái gốc của nhà văn vẫn là tấm lòng “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” vì thế trên hết nhà văn phải viết vì cuộc đời, vì con người, tức phải là nhà nhân đạo chủ nghĩa..
<span class='text_page_counter'>(28)</span> III. Kết bài -Khẳng định vấn đề : Tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong các sáng tác của các tác giả - Suy nghĩ của bản thân. Đề 3 A. Phân tích đề 1. Xác định kiểu bài: Giải thích + Phân tích + chứng minh 2. Nội dung: Giá trị nhân đạo 3. Tư liệu: - Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du B. Lập dàn ý I. Mở bài - Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Cảm hứng nhân đạo trong văn học - Nêu vấn đề và trích ý kiến II. Thân bài 1. Giải thích ý kiến - Hóa thân thành người trong cuộc, nhập thân thành người trong cuộc đến từng thoáng gợn mơ hồ của xúc cảm: Nghĩa là nhà văn không phải là người chứng kiến, không phải là người tái hiện một cách khách quan mà phải thực sự đặt mình trong cảnh huống của nhân vật, thực sự hòa tâm hồn của mình vào tâm hồn nhân vật. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi nhà văn có sự đồng cảm lớn. - Nói lên những tiếng nói sâu xa kín khuất nhất của cõi lòng: Nghĩa là sự thấu hiểu của nhà văn phải thể hiện trên trang viết của mình không chỉ là nét tâm trạng dễ nhận thấy mà còn cả những gì thầm kín khuất lấp của nhân vật. Điều này chính là thử thách khó khăn nhất đối với nhà văn, nó không chỉ đòi hỏi Tâm mà còn cả Tài. - Đây là một nhận xét đúng đắn, có thể làm sấng tỏ qua nhiều tác phẩm lớn, đặc biệt là Truyện Kiều của Nguyễn Du. 2. Chứng minh qua đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” - Nguyễn Du đã nhập thân vào người trong cuộc để cảm thông với tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Kiều trước cảnh thiên nhiên vô cùng rộng lớn: Sự rợn ngợp của không gian qua các hình ảnh “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng”…khắc đậm cảm giác cô đơn của Kiều. Làm bạn với nàng chỉ có “ mây sớm đèn khuya”, không một bóng hình thân thuộc. Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối trong tâm trạng “bẽ bàng” tủi hổ xót xa “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, tâm trạng của Kiều rối bời, nỗi cô đơn vò xé ngổn ngang trước hoàn cảnh số phận nghiệt ngã..
<span class='text_page_counter'>(29)</span> - Nguyễn Du đãnhập thân vào người trong cuộc để thấu hiểu tâm tư và trân trọng những phẩm chất đẹp đẽ của Kiều. + Trân trọng tình yêu thủy chung của Kiều với Kim Trọng: Nỗi tiếc nhớ khôn nguôi về kỉ niệm buổi thề nguyền đính ước, nỗi thương nhớ người yêu đang ngóng trông, nỗi xót xa vì mặc cảm phụ bạc…Tất cả những điều đó là minh chứng cho tình yêu thủy chung của Kiều mà nhà thơ đã khẳng định, trân trọng, ngợi ca. + Trân trọng tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ: Nỗi xót thương, xót xa vì không trọn đạo làm con. Dù sống trong cảnh ngộ đáng thương nhưng nàng luôn nghĩ về người khác. Đó là phẩm chất vị tha của Kiều. -Nguyễn Du đã nhập thân vào người trong cuộc để cảm thông, xót xa cho thân phận bất hạnh của người con gái bơ vơ nơi góc bể chân trời. Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động (tám câu thơ cuối).Khúc ca khép lại đầy dư âm với hòa tấu của sóng biển, sóng lòng, sóng đời đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. - Đoạn thơ có giá trị nhân đạo sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau khổ của Thúy Kiều, một thiếu nữ tài sắc ven toàn nhưng bất hạnh “ Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”. Đoạn trích còn là một trong những đoạn thơ miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến trình độ bậc thầy.Ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ liên hoàn, đối xứng, sử dụng hình ảnh ước lệ, các biện pháp tu từ, dùng điển cố.Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn trích tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du 3. Đánh giá - Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn trích tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo và tái năng nghệ thuật của Nguyễn Du. Đoạn trích nói riêng và tác phẩm Truyện Kiều nói chung sẽ còn hấp dẫn bạn đọc nhiều thế hệ. Nguyễn Du quả là con người hội tụ đầy đủ cả tâm và tài - Lời nhận định có ý nghĩa sâu sắc , gợi nhiều bài học quý giá: + Về phía người sáng tạo: Văn học là nhân học. Một tác phẩm chỉ thực sự có chỗ đứng lâu bền trong trái tim bạn đọc khi nó là tiếng nói hiểu đời, hiểu con người..
<span class='text_page_counter'>(30)</span> Việc thể hiện sâu sắc, tinh tế nội tâm nhân vật là một đòi hỏi có ý nghĩa quan trọng với nhà văn. + Về phía người tiếp nhận: Thông qua bức tranh tâm trạng trong tác phẩm ta không chỉ hiểu nhân vật mà còn hiểu được tấm lòng, sự đồng cảm sâu sắc với con người của nhà văn. Quá trình tiếp nhận là quá trình cảm hiểu thế giới nghệ thuật nhưng cũng đồng thời là quá trình người đọc tri âm với nhà văn. III. Kết bài -Khẳng định vấn đề : Tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nguyễn Du, trong Truyện Kiều nói chung và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nói riêng. - Suy nghĩ của bản thân.. PHẦN III: KẾT LUẬN -Suốt mười thế kỉ, văn học trung đại Việt Nam đã phát triển trong sự gắn bó với vận mệnh đất nước, nhân dân. Cùng với văn học dân gian, văn học trung đại góp phần làm nên diện mạo hoàn chỉnh và đa dạng của văn học dân tộc ngay từ giai đoạn đầu, đồng thời tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển của văn học Việt Nam ở những giai đoạn tiếp theo. Khi làm chuyên đề Cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại vì thời gian và kinh nghiệm, cả kiến thức còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót. Vì vậy, với tinh thần cầu thị, tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của các thầy cô để chuyên đề của tôi được hoàn thiện và việc dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường THCS có hiệu quả ngày càng cao hơn..
<span class='text_page_counter'>(31)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, Ngữ văn 9 tập 1 và 2 – Nhà xuất bản giáo dục 2. Sách giáo viên Ngữ văn 7, Ngữ văn 9 tập 1 và 2 – Nhà xuất bản giáo dục 3. Bình giảng Ngữ văn 7, Ngữ văn 9 – Nhà xuất bản giáo dục 4. Bồi dưỡng Ngữ văn 7, Ngữ văn 9 – Nhà xuất bản giáo dục 5. Bồi dưỡng HSG Ngữ văn THCS quyển 2 và quyển 5 – Nhà xuất bản giáo dục 6. Bồi dưỡng Ngữ văn 10 – Nhà xuất bản giáo dục 7. Tuyển tập những bài văn hay lớp 10 – Nhà xuất bản giáo dục.
<span class='text_page_counter'>(32)</span>