Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Chuyen de HSG Van9 Viet van nghi luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.29 KB, 36 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Phßng GD&§T VÜnh Têng Trêng thcs thîng trng. Chuyên đề bồi bồi dỡng học sinh giỏi THCS M«n: Ng÷ v¨n. “RÌn kÜ n¨ng viÕt kiÓu bµi nghÞ luËn v¨n häc cho häc sinh giái líp 9” GV : Lª ThÞ Minh HuÖ. N¨m häc: 2015 - 2016 ================== A.. Chuyên đề “Rèn kĩ năng viết kiểu bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi lớp 9”.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Người viết: Lê Thị Minh Huệ - giáo viên trường THCS Thượng Trưng Đối tượng bồi dưỡng: học sinh giỏi lớp 9 Số tiết bồi dưỡng: 20 tiết Cấu trúc chuyên đề A. Đặt vấn đề B.Nội dung chuyên đề Phần I: Những vấn đề chung 1. Đặc trưng của bài nghị luận văn học. 2. Các dạng đề nghị luận văn học thường gặp trong đề thi HSG 3. Yêu cầu đối với học sinh giỏi khi viết bài nghị luận văn học Phần II. Rèn kĩ năng viết kiểu bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi lớp 9. 1. Kĩ năng chung cho các dạng đề học sinh giỏi thường gặp. 2. Kĩ năng viết bài cụ thể. Phần III. Một số đề luyện và đáp án gợi ý C. Kết luận. A. PHẦN MỞ ĐẦU Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Đặc biệt người giáo viên dạy Văn.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> càng thấm thía hơn sự “cao quý” ấy. Được mang tri thức, mang niềm vui, được dạy “lễ”, dạy “văn”, được khơi gợi trí tuệ, niềm yêu thích say mê…ở mỗi thế hệ học sinh thì còn gì cao quý, hạnh phúc hơn đối với người thầy. Quả thực, chẳng gì có thể diễn tả hết niềm vui sướng và tự hào của người giáo viên khi thành quả lao động của mình đạt kết quả cao, nhất là chất lượng mũi nhọn. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy học sinh nói chung, bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng, giáo viên luôn dày công, dốc sức tìm tòi sáng tạo không ngừng để có phương pháp và cách thức ôn luyện hiệu quả nhất. Sự gian nan ấy được khẳng định bằng kết quả của mỗi kì thi, mỗi điểm cao, giải cao mà các em đạt được. Những năm gần đây, hoà cùng dòng chảy đổi mới giáo dục, đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển toàn diện ở học sinh về kiến thức, kĩ năng, đề thi môn Văn lớp 9 nói chung, thi học sinh giỏi nói riêng có nhiều đổi mới. Kiểu bài nghị luận xã hội và nghị luận văn học thường chiếm ưu thế lớn( năm 2013 2014 chỉ có 2 câu dạng này). Với đặc điểm đề văn như vậy, giáo viên bồi dưỡng và nhất là học sinh gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ đây là 2 kiểu bài đòi hỏi cao sự hiểu biết về kiến thức, kĩ năng cả về văn học và xã hội trong một bài thi. Thực tế ấy đặt ra nhiều băn khoăn, trăn trở đối với giáo viên đứng đội tuyển. Trong nhà trường phổ thông, nghị luận văn học luôn chiếm vị trí quan trọng nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp với vai trò, vị trí môn học. Kĩ năng viết các kiểu bài nghị luận văn học đã được bàn luận đến rất nhiều trong các hội thảo, trên nhiều diễn đàn. Hơn nữa bồi dưỡng học sinh giỏi không có một giáo án, một mô típ chung nào mà hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, sự nỗ lực tìm tòi không ngừng của thầy cô. Hiểu được điều ấy cá nhân tôi rất phân vân khi đi sâu vào vấn đề này. Song qua thực tế trải nghiêm tôi thấy trong khi viết bài nghị luận văn học trong mỗi kì thi học sinh giỏi các em còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong chuyên đề, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp vấn đề “Rèn kĩ năng viết.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> kiểu bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi lớp 9” để mong tìm được giải pháp chung giúp học sinh viết bài tốt nhất, hiệu quả nhất trong mỗi kì thi.. B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ Phần I. Những vấn đề chung..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 1. Đặc trưng của bài nghị luận văn học. - Văn nghị luận là dùng ý kiến lý lẽ, dẫn chứng và cách lập luận để bàn bạc, phân tích, đánh giá một vấn đề nào đó. Vấn đề đó có thể là xã hội hoặc văn học. - Nghị luận văn học là một dạng nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn luận là các vấn đề về văn học: tác phẩm, tác giả, thời đại văn học,… - Yêu cầu bài văn nghị luận: Phải đúng hướng, phải trật tự, phải mạch lạc, phải trong sáng, phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo. - Những thao tác chính của văn nghị luận văn học: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bình giảng, so sánh,… - Khi hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận văn học cần chú ý các yêu cầu sau đây: + Củng cố kiến thức cơ bản ở mỗi tác phẩm văn học như: tác giả, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, … + Củng cố cho học sinh nắm chắc các thao tác nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, đoạn trích, tác phẩm văn xuôi. + Đối với thơ, cần chú ý đến hình thức thể hiện (hình ảnh, nhịp điệu, cấu trúc, biện pháp tu từ,..). + Đối với tác phẩm văn xuôi: chú ý đến cốt truyện, nhân vật, tình tiết, các dẫn chứng chính xác, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, tình huống truyện,… 2. Các dạng đề nghị luận văn học thường gặp trong đề thi HSG. Thông thường, nghị luận văn học có dạng cơ bản: nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ và nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Tuy nhiên, đối với học sinh giỏi đề không chỉ dừng lại ở đó mà thường gắn với các vấn đề sau: a. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học - Nghị luận về một giai đoạn văn học. - Nghị luận về một vần đề mang tính lý luận được đặt ra trong tác phẩm văn học..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học b. Nghị luận về một vấn đề mang tính chất so sánh đối chiếu trong văn học. 3. Yêu cầu đối với học sinh giỏi khi viết bài nghị luận văn học. Bên cạnh những yêu cầu kiến thức, kĩ năng cơ bản về viết bài văn nghị luận văn học đối với bất kì một học sinh nào thì học sinh giỏi cần thêm những yếu tố sau: a. Về kiến thức - Nắm chắc, hiểu sâu, thấu đáo và toàn diện kiến thức tác phẩm: kiến thức văn học sử, tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật… Điều này tưởng như đơn giản và thừa đối với học sinh giỏi. Song đôi khi do sự chủ quan cũng có học sinh nắm chưa chắc kiến thức nên dễ hiểu sai, hiểu chưa đúng những nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật mà tác giả thể hiện nên dễ suy diễn lệch lạc. - Tích luỹ kiến thức về lý luận văn học trong những buổi bồi dưỡng của thầy cô. Đối với đối tượng là học sinh giỏi, được trang bị kiến thức lý luận văn học giúp học sinh có những bình luận, đáng giá, nhận xét chuẩn xác hơn về một hiện tượng văn học nào đó, bài viết của các em trở nên sâu sắc hơn về ý tưởng, chặt chẽ hơn về lập luận, thuyết phục hơn khi đưa ra luận cứ. Thực tế các kỳ thi học sinh giỏi cho thấy đề thi có liên quan đến kiến thức lý luận văn học chiếm một tỉ lệ khá lớn, dù với những dạng khác nhau. Có những đề thi yêu cầu trực tiếp kiến thức lý luận để giải quyết vấn đề, giải quyết một hiện tượng văn học. Có những đề thi yêu cầu vận dụng một tỉ lệ kiến thức lý luận nhất định… Vì vậy trong quá trình giải quyết vấn đề cần có kiến thức này để cho bài văn thêm vững vàng về luận điểm, chặt chẽ trong lập luận, từ đó sẽ có sức thuyết phục hơn. - Biết so sánh đối chiếu nét tương đồng và khác biệt giữa hai tác giả, tác phẩm ở cùng thời đại hoặc khác thời đại… Đây là kĩ năng khó. Vì vậy người.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> viết không chỉ cần hiểu kĩ, hiểu sâu mà cần cả độ cảm nhận sâu sắc, tinh ý để thấy được điểm gặp gỡ tương đồng hay khác biệt ở các tác giả, tác phẩm. b. Về kĩ năng - Tổng hợp các kĩ năng nghị luận để lập luận chặt chẽ thuyết phục. - Xác định đúng vấn đề nghị luận (luận đề) và hệ thống luận điểm, luận cứ để có kết cấu bài rõ ràng, khoa học. Biết phân tích và đưa dẫn chứng tiêu biểu phù hợp với hệ thống luận điểm để nổi bật trọng tâm bài viết, tránh trùng lặp. (Có đề thì phân tích bổ dọc tác phẩm, có đề phân tích bổ ngang tác phẩm, hoặc có đề chỉ lựa chọn một số chi tiết, hình ảnh, câu thơ câu văn tiêu biểu). - Kết hợp các phương pháp lập luận giải thích, chứng minh (chủ yếu) với đánh giá tổng hợp vấn đề, khả năng cảm thụ, khám phá các giá trị của tác phẩm. - Bài viết mạch lạc, lập luận thuyết phục, lời văn trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. c. Về tâm lý Trong mỗi kì thi, học sinh gặp bao khó khăn: một khoảng thời gian không nhiều (150 phút cho một đề thi học sinh giói với nhiều phần kiến thức, kĩ năng tổng hợp), một không gian căng thẳng của phòng thi, hơn nữa đề thi hằng năm lại luôn thay đổi và biến hoá không ngừng. Đặc biệt hơn đốí với bài văn học sinh giỏi yếu tố biểu cảm - tình cảm, cảm xúc người viết rất quan trọng. Bởi lẽ là những rung cảm chân thành, tha thiết, những xúc động tinh tế của học sinh khi cảm nhận được tư tưởng, tình cảm đẹp được tác giả gửi gắm trong tác phẩm sẽ làm bài viết sâu sắc hơn, tác động mạnh mẽ hơn tới người đọc. Nếu không có bản lĩnh, sự tự tin thì sẽ không làm chủ được tư duy và cảm xúc của mình. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả bài thi. Vì vậy ngoài việc trang bị kiến thức, kĩ năng thì việc rèn bản lĩnh và lòng tự tin để học sinh có tâm lí ổn định khi làm bài thi là rất cần thiết. Phần II. Rèn kĩ năng viết kiểu bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi lớp 9. 1. Kĩ năng chung cho các dạng đề học sinh giỏi thường gặp..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> a. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học Ý kiến bàn về văn học có thể là một nhận định về văn học, một danh ngôn về vấn đề trong văn học. Vấn đề đó có thể thuộc lý luận văn học, về văn học sử, về tác phẩm, phong cách tác giả. Để làm tốt được kiểu bài này giáo viên hướng dẫn học sinh như sau: Yêu cầu về kiến thức: Học sinh phải nắm được kiến thức về lý luận văn học, về văn học sử, về tác phẩm, về phong cách tác giả, quan điểm sáng tác… Kiến thức có được là nhờ vào cả một quá trình tích luỹ, tổng hợp trong cả quá trình học tập, từ sách giáo khoa, từ các bài giảng của thầy cô… Yêu cầu về phương pháp: Phải hiểu đúng toàn diện nội dung, tinh thần của ý kiến, nhận định để xác định đề bài đề cập đến vấn đề gì, bản chất của vấn đề là gì? Khi phân tích, chứng minh nhận định, học sinh phải biết nhìn nhận xem ý kiến, nhận định đó xác đáng chưa, sâu sắc chưa, có khía cạnh nào phải bàn thêm không, nếu có chúng ta cũng có thể sử dụng thao tác bình luận để làm sáng rõ quan điểm của mình. Kĩ năng cho từng kiểu bài: - Nghị luận về một giai đoạn văn học( thường là dạng đề tổng hợp) Nghị luận về một giai đoạn văn học: thường là các ý kiến bàn bạc, nhận định, khái quát chung về văn học Việt Nam, về các giai đoạn văn học, về các tác giả văn học,… Để lập ý và viết tốt bài văn thuộc dạng đề này, học sinh cần nắm được các yếu tố về hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn văn học hoặc đặc điểm thời đại và hoàn cảnh sống của tác giả, lý giải được tại sao có những đặc điểm đó, nêu những biểu hiện của đặc điểm đó trong các tác phẩm, thấy đóng góp của vấn đề trong tiến trình phát triển của văn học. Với kiểu bài này học sinh phải có kiến thức tổng hợp về văn học, về lịch sử…Tuy nhiên, vài trở lại đây, đề học sinh giỏi ít ra dạng đề này. Ví dụ:.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Đề: Đánh giá về thành tựu của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám - 1945 có ý kiến cho rằng: “ Về nội dung tư tưởng, văn học thời kì này đã phát huy được những nét lớn trong truyền thống tinh thần của dân tộc cũng là nét nổi bật trong phẩm chất của con người Việt Nam thời đại ấy, đó là chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng nhân đạo” Qua một số tác phẩm đã học và đọc thêm của văn học từ sau cách mạng tháng Tám -1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Với đề trên, học sinh cần huy động và thể hiện được kiến thức, hiểu biết tổng hợp để thể hiện được những nội dung cơ bản: + Lịch sử đất nước từ sau cách mạng tháng Tám -1945 đến nay gắn liền với những biến động lớn: Nhân dân ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp(1946 - 1954) và kháng chiến chống Mĩ(1955 - 1975) trường kì với bao khó khăn gian khổ(…). Bước ra khỏi chiến tranh(từ 1975 đến nay), đất nước, nhân dân lại đối mặt với muôn vàn những thử thách trong. công cuộc khôi phục và dựng xây đất. nước(…). + Tình hình lịch sử đó đã phát huy những nét lớn trong truyền thống tinh thần dân tộc, nét nổi bật trong phẩm chất con người Việt Nam là yêu nước và nhân đạo. Văn học đã bám sát và thể hiện được những nội dung lớn ấy… Từ hiểu biết về hoàn cảnh lịch sử đất nước, về sự chi phối của hoàn cảnh đó đến nội dung tư tưởng của văn học thời đại học sinh sẽ bàn bạc, đánh giá về vấn đề nghị luận qua hệ thống luận điểm chặt chẽ, rõ ràng. - Nghị luận về một vấn đề mang tính lý luận được đạt ra trong tác phẩm văn học Đây là kiểu bài đưa ra các ý kiến bàn về những đặc trưng cơ bản của văn học, các thể loại tiêu biểu như truyện, thơ, kịch,… các vấn đề thuộc phạm vi lý luận văn học như tiếp nhận văn học, phong cách nghệ thuật,… Để viết được bài văn hay và đúng cho kiểu bài này, học sinh cần có kiến thức lí luận sâu sắc để.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> giải thích, cắt nghĩa và làm nổi bật vấn đề nghị luận. Đồng thời khi lập ý cho bài viết, học sinh cần xác định rõ vấn đề nghị luận, bàn đến vấn đề gì, thuộc phạm vi nào? Tại sao lại nói như thế? Nội dung ấy được biểu hiện như thế nào qua tác phẩm văn học tiêu biểu? Ví dụ: Đề: Trong văn bản ” Tiếng nói của văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi viết: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. ( Ngữ Văn 9, Tập II, Tr 12,13- NXB GD 2005) Qua “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, em hãy làm sáng tỏ “ điều mới mẻ”, “lời nhắn nhủ” mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn đem “góp vào đời sống”. Với đề trên, học sinh cần huy động kiến thức lí luận văn học về tác phẩm văn học để giải thích sơ lược tinh thần đoạn văn của Nguyễn Đình Thi từ đó rút ra vấn đề nghị luận. Đồng thời qua quá trình lập luận người viết dùng kiến thức lí luận để làm sáng tỏ vấn đề trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” + Nội dung của một tác phẩm nghệ thuật là hiện thực cuộc sống và những khám phá, phát hiện riêng của người nghệ sĩ. + Những khám phá, phát hiện ấy chính là điều mới mẻ góp phần quan trọng tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật và mang theo thông điệp của người nghệ sĩ. Giải thích được như vậy học sinh sẽ làm sáng tỏ “ điều mới mẻ”, “lời nhắn nhủ” mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn đem “góp vào đời sống” trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. - Nghị luận về vấn đề trong tác phẩm văn học:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học thường là các ý kiến đánh giá, nhận xét về một khía cạnh nào đó của tác phẩm như những giá trị nội dung, những đặc sắc nghệ thuật, những quy luật, khám phá, chiêm nghiệm về đời sống toát lên từ tác phẩm, những nhận xét về các nhân vật,… Để lập ý, để viết bài học sinh cần hiểu kĩ, hiểu sâu về tác phẩm, biết cách huy động kiến thức để làm sáng tỏ vấn đề. Cụ thể như: nêu xuất xứ của vấn đề (Xuất hiện ở phần nào của tác phẩm? Ai nói? Nói trong hoàn cảnh nào?,…), phân tích những biểu hiện cụ thể của vấn đề (Được biểu hiện như thế nào? Những dẫn chứng cụ thể để chứng minh,…). Từ đó đánh giá ý nghĩa của vấn đề trong việc tạo nên giá trị của tác phẩm văn học. Ví dụ: Đề: Có ý kiến cho rằng: " Từ một câu chuyện riêng, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm của con người đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu" Hãy phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (SGK Ngữ Văn 9) để làm rõ ý kiến trên. Với đề văn, trên học sinh cần giải thích được ý kiến nhận xét về bài thơ để thấy được vấn đề nghị luận. Một câu chuyện riêng: câu chuyện có thật của cuộc đời tác giả- người đã từng gắn bó với vầng trăng từ thuở nhỏ qua thời đi bộ đội; đến khi về sống ở thành phố "quen ánh điện cửa gương" thì " vầng trăng đi qua ngõ - ngỡ người dưng qua đường". Rồi một lần " Thình linh đèn điện tắt", trong phòng " tối om" nhà thơ "bật tunng cửa sổ" vầng trăng tròn" từ đó, bao cảm xúc và suy ngẫm của tác giả về những năm tháng gian lao, tình nghĩa đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu,..chợt ùa đến..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Câu chuyện riêng của Nguyễn Duy nhưng nó cũng là câu chuyện của nhiều người thời kì đó đã nhắc nhở, đã đánh thức trong mỗi người lẽ sống cao đẹp ân tình thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Từ việc giải thích và xác định vấn đề nghị luận học sinh sẽ phân tích bài thơ theo hệ thống luận điểm để làm sáng tỏ nhận định. b. Nghị luận về một vấn đề văn học mang tính chất so sánh, đối chiếu Đây là dạng đề yêu cầu học sinh phải biết tổng hợp, khái quát so sánh, đối chiếu những vấn đề trong các tác phẩm văn học. Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật… Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Đây là một kiểu bài khó đối với học sinh giỏi THCS. Để làm tốt được kiểu bài này giáo viên phải hướng dẫn học sinh như sau: Yêu cầu về kiến thức: Nhóm các văn bản về cùng một đề tài, một xu hướng, một trào lưu văn học. Yêu cầu về phương pháp: Xác định được vấn đề cần phải làm sáng tỏ là gì? Giải thích cho người đọc hiểu khái niệm của vấn đề đó; biểu hiện của vấn đề đó trong từng tác phẩm cụ thể; so sánh để chỉ ra sự giống nhau, khác nhau của vấn đề đó trong từng tác phẩm; lý giải nguyên nhân vì sao có sự giống nhau và khác nhau đó. Ví dụ:.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đề : Nét tương đồng và khác biệt trong cảm hứng trữ tình của Bằng Việt và Nguyễn Duy qua hai bài thơ “Bếp lửa” và “Ánh trăng”. Với đề trên cần giúp học sinh: - Giải thích được trữ tình và cảm hứng trữ tình - Chỉ ra và phân tích được tương đồng và khác biệt trong cảm xúc của Nguyễn Duy và Bằng Việt được thể hiện trong hai bài thơ. - Đánh giá được sự tương đồng, khác biệt ấy thể hiện tài năng, cá tính và sự sáng tạo của các tác giả… ( Minh họa cụ thể ở phần III, đề 2) 2. Kĩ năng viết bài cụ thể. a. Tìm hiểu đề và tìm ý Đây là một thao tác quan trọng và việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh là điều vô cùng cần thiết để giúp học sinh không lạc đề, xa đề và làm chủ được vấn đề nghị luận. Thực ra đây là một thao tác mà các bài lý thuyết văn nghị luận đã đề cập tới nhưng sự quan tâm của học sinh chưa nhiều và các em chưa có ý thức rèn nó thành một kĩ năng. Hơn nữa đề học sinh giỏi bao giờ cũng gắn với một nhận định(nhận định về tác phẩm, nhận định lý luận văn học… ). Vì vậy vấn đề nghị luận( luận đề) nằm trong nhận định ấy. Nếu không tìm hiểu, phân tích kĩ đề học sinh sẽ không xác định đúng vấn đề nghị luận. Việc đầu tiên là giáo viên yêu cầu học sinh đọc thật kĩ đề, gạch dưới những từ ngữ quan trọng để “hiểu ý người ra đề”. Ví dụ - đề: “Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây dựng thành công tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật”. Bằng những hiểu biết của em về văn bản Làng của nhà văn Kim Lân, hãy làm sáng tỏ nhận định trên..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Vậy vấn đề nghị luận của đề trên sẽ dễ dàng được xác định: Chứng minh sự thành công Tình huống truyện và Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm Làng. Rõ ràng, điều quan trọng của phân tích đề là phải tìm ra được vấn đề nghị luận. Nếu học sinh đoán đề sai thì toàn bộ những lập luận sẽ hướng vào vấn đề sai đó. Cũng có trường hợp mở bài không nêu được vấn đề nghị luận nhưng thân bài lại làm rõ ý nêu ở đề bài. Vì vậy bài văn đó không đạt yêu cầu. Về nguyên tắc phần mở bài người viết phải giới thiệu được vấn đề nghị luận và toàn bộ những nội dung ở phần thân bài là làm rõ vấn đề người viết nêu ra. Vậy nên phân tích đề và mở bài có quan hệ mật thiết với nhau. Hơn nữa, phân tích đề đúng mới giải thích đúng nhưng từ ngữ quan trọng và xác định đúng hệ thống luận điểm, luận cứ của bài viết. Ví dụ: với đề trên khi đã xác định được vấn đề nghị luận, người viết sẽ xác định được hệ thống luận điểm, luận cứ của bài viết như sau: - Giải thích khái niệm: + Tình huống truyện là sự kiện, sự việc, hoàn cảnh xảy ra hết sức bất ngờ, gay cấn. Tác giả đặt nhân vật vào sự kiện đó nhằm bộc lộ mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách nhân vật, đưa câu chuyện lên cao trào và thể hiện chủ đề, nội dung tư tưởng tác phẩm. + Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật: là thủ pháp tái hiện những ý nghĩ, cảm xúc diễn biến tâm trạng, tâm lý của nhân vật. Thủ pháp này là yếu tố quan trọng để tạo nên một nhân vật sống động, hấp dẫn. - Chứng minh: + Tình huống bất ngờ khi ông Hai nghe tin cả làng theo giặc giữa lúc tâm trạng phơi phới nghe tin thắng trận, giữa lúc ông đang ngóng vọng, tự hào về làng. + Tâm trạng đau xót, tủi hổ dằn vặt, day dứt, lo lắng, bế tắc, tuyệt vọng. Từ chỗ yêu làng trở nên thù làng. Từ chỗ không muốn xa làng đến chỗ không muốn về làng… Đặt nhân vật vào tình huống đầy căng thẳng, thử thách ấy nhà.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> văn muốn bộc lộ các mối quan hệ riêng chung trong con người của nhân vật. Đưa nhân vật lên cao trào để nhân vật tự bộc lộ cách ứng xử, phẩm chất, tính cách, lòng yêu làng, yêu nước thiết tha… + Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhiều chiều, những cảm xúc, những diễn biến tâm trạng qua các mối quan hệ, qua các sự việc, tình huống nhỏ, qua trạng thái cảm xúc trực tiếp, qua đối thoại và độc thoại nội tâm… - Đánh giá: Nhận xét trên đã khẳng định tài năng nghệ thuật viết truyện ngắn của nhà văn Kim Lân trong dòng văn học hiện đại… b. Cách lập dàn ý Tuỳ theo đối tượng và phạm vi các vấn đề được đưa ra bàn bạc mà có thể có các cách triển khai khác nhau. Tuy vậy, mục đích của bài học vẫn phải là hướng đến việc rèn luyện các kĩ năng tạo dựng một bài văn bản nghị luận nên nội dung có thể hết sức phong phú nhưng người viết vẫn phải tuân theo những thao tác và các bước cơ bản của văn nghị luận. Có thể khái quát mô hình chung để triển khai bài viết như sau: • Mở bài: - Dẫn dắt và khái quát vấn đề nghị luận. - Nêu xuất xứ và trích dẫn ý kiến. - Giới hạn phạm vi dẫn chứng. • Thân bài: - Giải thích, làm rõ nhận định để rút ra vấn đề nghị luận: - Chứng minh nhận định bằng một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm với hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng. + Nêu luận điểm 1 – luận cứ 1 – luận cứ 2,…. + Nêu luận điểm 2 – luận cứ 1 – luận cứ 2,… - Đánh giá chung : + Đánh giá về tác phẩm.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> + Đánh giá về vấn đề nghị luận • Kết bài: + Khẳng định lại vấn đề nghị luận. + Phát biểu cảm nghĩ hoặc liên hệ bản thân từ vấn đề nghị luận. c. Cách viết bài văn nghị luận văn học *. Viết mở bài: - Nhiệm vụ: Mở bài phải giới thiệu được vấn đề nghị luận của bài viết. - Cách viết: Đây là kĩ năng quen thuộc học sinh đã được rèn nhiều từ những bài học của thầy cô. Với học sinh giỏi thường mở bài gián tiếp qua những cách : diễn dịch, quy nạp, tương đồng, tương phản. Dù bằng cách nào, mở bài cần đảm bảo được: + Dung lượng của phần mở bài phải tương ứng với khuôn khổ của bài viết và phải cân đối với phần kết bài. + Có sự liền mạch với bài viết về cả nội dung lẫn phong cách giới thiệu, diễn đạt. Đây là phần phải tạo được âm hưởng chung, định hướng chung cho cả bài viết và cuốn hút, thuyết phục được người đọc. Muốn vậy mở bài cần đảm bảo được các yếu tố: ngắn gọn, đầy đủ, độc đáo và tự nhiên. Tuy nhiên, các dạng đề trong đề thi học sinh giỏi rất đa dạng( đã trình bày ở phần 1.II) nên trong quá trình luyện viết cần chú ý học sinh cách mở bài từng dạng đề cho phù hợp. Mở bài cho đề nghị luận về một giai đoạn văn học: - Dẫn dắt từ hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn, của thời đại - Khái quát vấn đề nghị luận - Trích dẫn nhận định - Nêu phạm vi dẫn chứng Mở bài cho đề nghị luận về một vấn đề lý luận đặt ra trong tác phẩm văn học:.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - Dẫn dắt từ kiến thức lí luận văn học(về truyện, thơ, ...) - Khái quát vấn đề nghị luận - Trích dẫn nhận định - Nêu phạm vi dẫn chứng Mở bài cho đề nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm( phong cách sáng tác, chủ đề, đề tài…) - Khái quát vấn đề nghị luận - Trích dẫn nhận định Nói chung, mỗi bài, mỗi dạng đề có những đặc điểm riêng, nên khi viết cần chú ý dẫn dắt cho khéo léo để vừa đúng vừa cuốn hút được người đọc hướng vào vấn đề nghị luận. Ví dụ : (Đề thi HSG Vĩnh Phúc 2013 -2014) Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng:“Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”. Qua thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Có thể viết mở bài cho đề trên như sau: Thơ ca là tiếng nói tình cảm của thi nhân, là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Mỗi bài thơ là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu hiện những trạng thái xúc cảm của người sáng tác. Một bài thơ hay là bài thơ vừa có nội dung sâu sắc, vừa có hình thức diễn đạt hài hòa, độc đáo.Vì thế nhà thơ Xuân Diệu cho rằng:“Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”. Đến với bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải ta sẽ thấy rất rõ điều đó. *. Viết thân bài:.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Khi viết phần thân bài, với đặc trưng của đề thi học sinh giỏi: vấn đề nghị luận được thể hiện trong một nhận định nên hệ thống luận điểm, luận cứ phải bám sát từ ngữ, câu chữ của nhận định để làm nổi bật vấn đề nghị luận đó. Không những thế, trong quá trình viết bài bên cạnh sự sắc bén, chặt chẽ trong lập luận, người viết cần thể hiện những xúc động chân thành, tha thiết của bản thân trước những hình ảnh thơ đẹp, những ý văn hay để lời văn giàu cảm xúc. Bởi như đã nói ở trên, yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận tạo nên sức ngân vang rất lớn trong lòng người đọc. Cần đảm bảo được kết cấu của thân bài: - Giải thích nhận định: + Giải thích, cắt nghĩa các từ, cụm từ có nghĩa khái quát hoặc hàm ẩn trong đề bài có nhận định. Để tạo chất văn, gây hứng thú cho người viết, những đề văn thường có cách diễn đạt ấn tượng, làm lạ hoá những vấn đề quen thuộc. Nhiệm vụ của người làm bài là phải tường minh, cụ thể hoá những vấn đề ấy để từ đó triển khai bài viết. + Sau khi cắt nghĩa các từ ngữ cần thiết cần phải giải thích, làm rõ nội dung của vấn đề cần bàn luận. Thường trả lời các câu hỏi: Ý kiến trên đề cập đến vấn đề gì? Câu nói ấy có ý nghĩa như thế nào? - Chứng minh nhận định bằng một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm với hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng. - Đánh giá, nâng cao vấn đề nghị luận Ví dụ : (Đề thi HSG Vĩnh Phúc 2013 -2014, trích ở phần mở bài) 1. Giải thích ý kiến của Xuân Diệu - Có nhiều cách định nghĩa về thơ, có thể nói khái quát: thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua cách tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm….

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài. Hồn: Tức là nội dung, ý nghĩa của bài thơ. Xác: Tức là nói đến hình thức nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở thể loại, việc tổ chức ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, cấu tứ… - Như vậy, theo Xuân Diệu thơ hay là có sự sáng tạo độc đáo về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, khơi gợi tình cảm cao đẹp và tạo được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Chỉ khi đó thơ mới đạt đến vẻ đẹp hoàn mĩ của một chỉnh thể nghệ thuật. - Ý kiến của Xuân Diệu hoàn toàn xác đáng bởi nó xuất phát từ đặc thù sáng tạo của văn chương nghệ thuật. Cái hay của một tác phẩm văn học được tạo nên từ sự kết hợp hài hoà giữa nội dung và hình thức. Một nội dung mới mẻ có ý nghĩa sâu sắc phải được truyền tải bằng một hình thức phù hợp thì người đọc mới dễ cảm nhận, tác phẩm mới có sức hấp dẫn bền lâu. 2. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là bài thơ hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài. a. Về nội dung - Bài thơ là cảm xúc mãnh liệt, chân thành của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. + Chỉ bằng vài nét vẽ đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh thân quen, bình dị, nhà thơ đã gợi lên một phong cảnh mùa xuân tươi tắn, thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế: Dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, chim chiền chiện hót vang trời. Bức tranh xuân có không gian thoáng đãng, có màu sắc tươi tắn hài hoà, có âm thanh rộn rã tươi vui, cảnh vật tràn đầy sức sống. Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân được thể hiện trong một động tác trữ tình đón nhận, vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến: “Từng giọt…tôi hứng”. Hình ảnh thơ trở nên lung linh đa nghĩa, vừa là thơ vừa là nhạc, vừa là hoạ, thể hiện được cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân. Phải có một tình yêu tha thiết, một tâm hồn lạc quan với cuộc sống mới có thể đón nhận mùa xuân và viết về mùa xuân như vậy..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> + Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, tác giả cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Hình ảnh lộc xuân theo người ra trận, theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ - hai nhiệm vụ không thể tách rời. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất nước. Sức sống của đất nước, của dân tộc cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Nhà thơ bộc lộ niềm tự hào về một đất nước anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là ý chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. - Trước mùa xuân lớn của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào khát vọng hiến dâng. + Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót dâng cho đời tiếng ca vui, làm bông hoa trong hương sắc của muôn hoa, làm nốt trầm xao xuyến trong bản hoà tấu muôn điệu, muôn lời ca, làm một mùa xuân nho nhỏ để hoà góp chung vào mùa xuân lớn lao của đất nước. Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung. Đây là một quan niệm sống đẹp và đầy trách nhiệm. Làm một mùa xuân là sống đẹp, giữ mãi sức xuân để cống hiến, cống hiến khi ở tuổi thanh xuân – khi tóc bạc, bất chấp thời gian, tuổi tác: “Một mùa xuân…tóc bạc”. Đây không chỉ là khát vọng của mỗi con người mà là khát vọng của mọi lớp người, mọi lứa tuổi, tất cả đều phấn đấu không mệt mỏi cho đất nước. + Những câu thơ này không chỉ là lời tự nhắn nhủ bản thân mình mà còn như một sự tổng kết, đánh giá của tác giả về cuộc đời. Vượt lên đớn đau của bệnh tật, Thanh Hải vẫn sáng lên một bản lĩnh, một tình yêu cuộc sống mãnh liệt, một khát vọng mạnh mẽ được cống hiến cả cuộc đời mình, được hoá thân vào mùa xuân đất nước. b. Về hình thức.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà rất hợp lý, chứa đựng chiều sâu chủ đề tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm qua thi phẩm. - Mạch cảm xúc, mạch ý tạo thành tứ thơ tự nhiên mà chặt chẽ, lôgíc, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân. Từ mùa xuân của đất trời sang mùa xuân của đất nước và mùa xuân của mỗi người góp vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung. - Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn không ngắt nhịp trong từng câu, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca miền Trung, xứ Huế. Sử dụng cách gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. - Hình ảnh thơ: Kết hợp những hình ảnh tự nhiên giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát. Điều đáng chú ý là những hình ảnh biểu trưng này thường được phát triển từ những hình ảnh thực, tạo nên sự lặp lại mà nâng cao, đổi mới của hệ thống hình ảnh (cành hoa, con chim, mùa xuân).4 - Ngôn ngữ thơ hàm súc, gợi hình, gợi cảm. Có những câu thơ cứ như câu nói tự nhiên, không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Cách sử dụng nghệ thuật đảo cấu trúc ngữ pháp, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ngữ pháp độc đáo, giàu ý nghĩa. Cách sử dụng đại từ nhân xưng: “tôi – ta”… - Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu có sự biến đổi phù hợp với nội dung từng đoạn: Vui tươi, say sưa ở đoạn đầu; trầm lắng, thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi và tha thiết ở đoạn kết. 3. Đánh giá, nâng cao - Sức hấp dẫn từ nội dung và nghệ thuật của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã tác động sâu sắc đến người đọc bao thế hệ, khơi gợi từ tình yêu thiên nhiên đến tình yêu quê hương, đất nước, từ khát vọng nhỏ bé, khiêm nhường của một cá nhân nâng lên thành lẽ sống cao đẹp giàu giá trị nhân văn. Vì thế với Mùa.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> xuân nho nhỏ ta không thể chỉ đọc một lần, không chỉ đọc bằng lý trí hay tình cảm mà phải đọc bằng cả tâm hồn. - Bài học cho người nghệ sĩ: Những bài thơ hay góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca nhân loại. Vì vậy, bằng tài năng và tâm huyết của mình, nhà thơ hãy sáng tạo nên những thi phẩm hay và giàu sức hấp dẫn từ nội dung đến hình thức. Điều đó vừa là thiên chức vừa là trách nhiệm của nhà thơ, là yêu cầu thiết yếu, sống còn của sáng tạo nghệ thuật. - Sự tiếp nhận ở người đọc thơ: Cần thấy thơ hay là hay cả hồn lẫn xác. Từ đó có sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ để có thể sẻ chia những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng người đọc nhiều thế hệ. *. Viết kết bài: - Nhiệm vụ: + Khẳng lại vấn đề nghị luận. + Phát biểu cảm nghĩ hoặc liên hệ bản thân từ vấn đề nghị luận. - Cách viết: + Cân xứng với mở bài + Tạo được dư âm sâu lắng bằng cảm xúc, suy nghĩ chân thành tha thiết. Ví dụ: ( Với đề trên) Bài thơ hay là bài thơ có khả năng mang đến cho người đọc những rung động tinh tế và chân thành. Có được điều ấy bởi thơ “hay” cả hồn “lẫn xác, hay cả bài”. Khi đọc bài thơ hay, người đọc có thể tìm thấy ở đó những cảm xúc, suy tư, trăn trở của chính mình. Thơ không chỉ là một loại hình nghệ thuật giải trí, đọc để vui, để thư giãn, thơ phải là tấm gương để con người nhìn thấy tâm hồn mình. Đến với bài thơ hay nghĩa là tìm đến nơi ta có thể lắng nghe trái tim mình nói. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã làm được điều kì diệu đó. Tác phẩm xứng đáng là một bài thơ hay!.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> PHẦN III. Một số đề nghị luận văn học và đáp án gợi ý. Đề 1: (Đề thi HSG tỉnh Vĩnh Phúc năm 2014-2015) Nguyễn Đình Thi từng quan niệm: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. (Trích Tiếng nói của văn nghệ, SGK Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục, 2011, tr.12 -13). Em hiểu thế nào là điều mới mẻ, lời nhắn nhủ trong quan niệm của Nguyễn Đình Thi? Qua bài thơ Ánh trăng, em hãy làm rõ điều mới mẻ và lời nhắn nhủ mà nhà thơ Nguyễn Duy muốn góp vào đời sống. Đáp án: - Yêu cầu về kĩ năng Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả. - Yêu cầu về kiến thức Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng bài viết cần đáp ứng các yêu cầu sau: I. Mở bài - Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực qua lăng kính chủ quan của các tác giả. Cho nên đến với mỗi tác phẩm văn học người đọc không chỉ thấy được bức tranh hiện thực mà còn thấy tâm tư, tình cảm, thấy những điều nhà văn muốn nói, muốn gửi tới bạn đọc. - Vì thế nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: “ Tác phẩm…chung quanh” Với nhận định này nhà văn muốn khẳng định vai trò của chức năng giáo dục và cải tạo xã hội của văn học nghệ thuật..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> - Soi vào Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy ta thấy nhận định ấy thật đúng. II. Thân bài 1. Giải thích - Điều mới mẻ: là cách cảm nhận và thể hiện độc đáo của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. - Lời nhắn nhủ: Là tư tưởng, tình cảm, thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ muốn gửi đến bạn đọc thông qua tác phẩm nghệ thuật của mình. Thông điệp ấy gắn với chức năng giáo dục và cải tạo xã hội của văn học nghệ thuật 2. Phân tích, chứng minh: Điều mới mẻ và lời nhắn nhủ của Nguyễn Duy qua Ánh trăng (4,0 điểm) - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm (0,25 điểm) + Nguyễn Duy là nhà thơ – chiến sĩ, gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Ông cũng là cây bút có sức sáng tạo bền bỉ sau năm 1975. + Ánh trăng được viết năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ vừa mang đến điều mới mẻ, vừa là lời nhắn nhủ sâu sắc của Nguyễn Duy về thái độ sống của con người. - Điều mới mẻ mà Nguyễn Duy thể hiện qua Ánh trăng (2,0 điểm) Trăng là đề tài quen thuộc của thơ ca xưa nay, nhưng Nguyễn Duy vẫn có những cảm nhận và cách thể hiện riêng. + Bài thơ Ánh trăng mới mẻ ở nội dung: Trăng được thể hiện như là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị mà vĩnh hằng của thiên nhiên, theo nhân vật trữ tình từ thời thơ ấu bình yên đến những ngày chiến tranh ở rừng. Vì thế, trăng còn là biểu tượng của quá khứ gian khó mà tươi đẹp, của nghĩa tình thắm thiết, đằm sâu với quê hương, đồng đội, bạn bè..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Trăng còn được Nguyễn Duy đặt vào trong mối quan hệ đa chiều với nhân vật trữ tình: Nếu quá khứ trăng là tri kỉ thì hiện tại trăng bị biến thành người dưng. Từ tình huống Thình lình đèn điện tắt, nhà thơ phát hiện thêm một vẻ đẹp khác đáng trân trọng của trăng: thuỷ chung, bao dung mà nghiêm khắc, có khả năng thức tỉnh con người. + Bài thơ Ánh trăng mới mẻ ở nghệ thuật: Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà vẫn chứa chất triết lý sâu xa; hình ảnh thơ đa nghĩa, có tính biểu tượng cao; kết hợp giữa chất tự sự với tính trữ tình; kết cấu bài thơ theo mạch thời gian; tạo được tình huống bất ngờ; hầu như không sử dụng dấu chấm câu và chỉ viết hoa chữ đầu tiên của mỗi khổ thơ... - Lời nhắn nhủ của tác giả qua bài thơ (1,5 điểm): + Bài thơ có ý nghĩa như một lời cảnh tỉnh, lời nhắc nhở chúng ta đừng quên đi những gì đẹp đẽ đã gắn bó với con người trong quá khứ, cần phải sống tình nghĩa, thuỷ chung. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đã được gửi gắm kín đáo và tinh tế. + Trong cuộc sống, con người cũng cần những phút “giật mình”, nghĩa là trạng thái thức tỉnh của lương tâm, soi lại bản thân để nhận ra sự thiếu sót, vị kỉ, chưa hoàn thiện. Nếu không có những phút giật mình như thế, con người ta rất dễ đánh mất chính mình, phản bội lại quá khứ ân tình, ân nghĩa. 3. Đánh giá (0,5 điểm) - Chính những khám phá mới mẻ về nội dung nghệ thuật, chính thông điệp giàu tính nhân văn đã làm nên sức sống của bài thơ và phong cách nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Duy. Đó đồng thời là bản chất của sáng tạo nghệ thuật, là yêu cầu đối với mỗi người nghệ sĩ (bài học về sáng tạo). - Bài thơ không phải là một sản phẩm của triết lý khô khan, lời nhắn nhủ phải được thể hiện với tính nghệ thuật mới có khả năng lay động. Điều đó cũng đòi hỏi độc giả phải là người đồng sáng tạo để cảm nhận được những thông điệp mà người nghệ sĩ muốn gửi tới (bài học về tiếp nhận)..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> III. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề - Suy nghĩ của bản thân Đề 2: Nét tương đồng và khác biệt trong cảm hứng trữ tình của Bằng Việt và Nguyễn Duy qua hai bài thơ “Bếp lửa” và “Ánh trăng”. Đáp án gợi ý * Về kỹ năng: Hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Biết cách làm bài văn nghị luận (so sánh văn học) bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lý. Diễn đạt tốt, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. * Về nội dung : Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến riêng miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài. Dù triển khai theo trình tự nào cũng cần đạt được những ý chính sau đây. I. Mở bài. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận: - Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. - Nguyễn Duy cũng là gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978, khi nhà thơ đã rời quân ngũ chuyển sang làm công tác văn nghệ. - Cảm hứng trữ tình của cả hai bài thơ: Hồi ức về quá khứ, thể hiện nghĩa tình con người, bày tỏ những suy nghĩ và bài học triết lý nhân sinh. II. Thân bài 1.Giải thích vấn đề: - Trữ tình là sự bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp trước hiện tượng đời sống. Trong thơ, cảm hứng trữ tình là yếu tố đầu tiên hình thành, là mạch cảm xúc xuyên suốt và chi phối hệ thống hình tượng nghệ thuật của toàn tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> - Hai bài thơ Bếp lửa và Ánh trăng vừa có sự tương đồng lại vừa có nét khác biệt trong cảm hứng trữ tình. 2. Chứng minh a. Nét tương đồng trong cảm hứng trữ tình của hai bài thơ: - Cảm hứng của hai nhà thơ đều được khơi gợi từ những hình ảnh quen thuộc, gần gũi hàng ngày, từ đó nâng lên thành những hình tượng thơ giàu ý nghĩa. - Cảm hứng của hai nhà thơ đều gắn liền với những kí ức sâu đậm. - Cả hai bài thơ đều được xem như là niềm tự thức của các tác giả, nhớ về cội nguồn và từ đó đưa đến những suy ngẫm, chiêm nghiệm thấm thía, mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. - Cảm xúc của hai nhà thơ trong hai bài thơ “Bếp lửa” và “Ánh trăng" đều được thể hiện bằng giọng tự sự, giãi bày. b. Nét khác biệt trong cảm hứng trữ tình của hai bài thơ: *. Cảm hứng trữ tình trong bài thơ Bếp lửa: - Được khơi gợi từ một hình ảnh trong đời sống sinh hoạt ấm áp, thường nhật của gia đình: Bếp lửa, ngọn lửa. - Gắn với hình ảnh người bà và kí ức đẹp đẽ của những năm tháng tuổi thơ tác giả: từ nỗi nhớ về cái bếp lửa cụ thể, hiện lên hình ảnh người bà đã nuôi nấng, chăm sóc, ấp iu sớm hôm (Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,..Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ) Đây là một tình cảm vừa rất cụ thể, vừa sâu sắc. - Gợi tình bà cháu, tình cảm gia đình, tình quê hương, đất nước. - Là nguồn sống, di dưỡng tâm hồn nhà thơ trong suốt cuộc đời. *. Cảm hứng trữ tình trong bài thơ Ánh trăng: - Được khơi gợi từ một hình ảnh thiên nhiên lớn lao, cao cả: Ánh trăng. - Gắn với kí ức của một người lính: với đông đội, núi rừng, đồng, bể : (hồi chiến tranh ở rừng; vầng trăng thành tri kỉ),với những năm tháng chiến tranh gian khổ mà nghĩa tình..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> - Gợi quá khứ vẹn nguyên, trong sáng, thuỷ chung, độ lượng, bao dung (ngửa mặt lên nhìn mặt…trăng cứ tròn vành vạnh; kể chi người vô tình). - Là nguồn sáng lay thức, soi thấu (ánh trăng im phăng phắc; đủ cho ta giật mình)vào lương tri để từ đó con người thức tỉnh, chiêm nghiệm, nhận ra chính mình, trở về với quá khứ nghĩa tình. Soi mình vào quá khứ để điều chỉnh sự lệch chuẩn của hiện tại, rút ra bài học nhân sinh thấm thía. 3. Đánh giá khái quát: - Nét tương đồng trong cảm hứng của hai nhà thơ, cho thấy sự gần gũi về quan điểm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh của hai tác giả.Tiếng nói trữ tình đó tiêu biểu cho suy nghĩ, tình cảm của cả một thế hệ nhà thơ và của cả dân tộc. - Sự khác biệt trong cảm hứng ở hai bài thơ xuất phát từ tài năng, cá tính sáng tạo của mỗi thi sỹ và đem lại sự đa điệu, đa vẻ cho thơ trữ tình Việt Nam hiện đại. 3. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề - Suy nghĩ của bản thân Đề 3: (Đề thi HSG huyện Yên Lạc năm 2014-2015) Nhận xét về văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, có ý kiến viết: “Văn học của ta đã xây dựng và thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ. “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử.” Qua một số tác phẩm đã học, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên * Về kĩ năng: - Biết cách làm bài văn nghị luận văn học có bố cục rõ ràng, đúng thao tác nghị luận, diễn đạt sáng rõ, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, đặt câu. - Xác định đúng vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ và phạm vi tư liệu.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Lưu ý: Về phạm vi tư liệu sử dụng cho bài viết, ngoài hai văn bản đã học ở học kì I lớp 9 là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, giám khảo cần khuyến khích cho những thí sinh có thêm những dẫn chứng ở các tác phẩm khác ở HKII hoặc ngoài chương trình cùng đề tài. Đáp án gợi ý: * Về kiến thức Bài viết cần trình bày được những nội dung cơ bản sau: 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua thực tế văn học chống Mĩ - Trích ý kiến - Khái quát vấn đề 2. Thân bài a. Khái quát chung(1điểm) - Hoàn cảnh lịch sử: Hai mươi năm dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đó là cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt và hi sinh. - Hình ảnh trung tâm của thời đại, niềm tự hào của dân tộc và cũng là hình ảnh trung tâm của văn học kháng chiến chống Mĩ đó là hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam - thế hệ đóng góp lớn công sức và xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai Bởi vậy văn học giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều tác phẩm thơ ca cũng như văn xuôi của các tác giả đã khắc hoạ sinh động hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ: Họ là những người lính lái xe Trường Sơn; những cô gái thanh niên xung phong trên chiến trường; những con người ngày đêm miệt mài lao động cống hiến cho đất nước....

<span class='text_page_counter'>(30)</span> - Họ đều là những thanh niên sống có lý tưởng cao đẹp, họ nguyện đem sức trẻ, tinh thần, trí tuệ…cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tuy nhiệm vụ khác nhau nhưng họ cùng chung mục đích, lý tưởng là bảo vệ và xây dựng đất nước nên ở họ đều toả sáng những phẩm chất cao đẹp tuyệt vời. b. Phân tích và chứng minh * Luận điểm 1: Đó là lớp thanh niên trẻ có lý tưởng cách mạng cao đẹp, có hoài bão ước mơ, sẵn sàng cống hiến sức trẻ cho đất nước (1,25điểm) - Lý tưởng cao đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn: Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. (Bài thơ về tiểu đội xe không kính) Nhân vật anh thanh niên dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng anh đã ý thức được một cách sâu sắc về trách nhiệm của mình (một công dân) đối với quê hương đất nước, mà cao hơn là lý tưởng sống, lý tưởng cách mạng “ Mình sinh ra là gì,mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?” (Lặng lẽ Sa Pa) * Luận điểm 2: Họ là những con người dũng cảm, gan dạ, đầy tinh thần trách nhiệm, coi thường hiểm nguy,vượt qua mọi gian khổ sẵn sàng hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ (1,25điểm). - Những người lính lái xe Trường Sơn với tinh thần dũng cảm và ý chí kiên cường vì sự nghiệp giải phóng đất nước đã giúp họ vượt qua sự nguy hiểm của bom đạn ( sự ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ), vượt qua sự khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ “ Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi…” “ Không có kính ừ thì có bụi….” “ Không có kính ừ thì ướt áo…” “ Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Anh thanh niên với lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm đã giúp anh vượt qua nỗi cô đơn, vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ “ Cháu ở đây có nhiệm vụ đo nắng, đo mưa….xong việc trở vào là không thể nào ngủ lại được.” *. Luận điểm 3: Ở họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết, sẵn sàng chia sẻ với nhau trong cuộc sống thiếu thốn, gian khổ và hiểm nguy. (1,25điểm). - Những người lính lái xe Trường Sơn từ sự cùng chung nhiệm vụ, lý tưởng họ đã trở thành đồng đội của nhau, sẻ chia với nhau những gian khổ ở chiến trường, tình đồng đội đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua bom đạn hiểm nguy. Hơn thế họ còn coi nhau như anh em trong một gia đình. (Dẫn chứng và phân tích) Anh thanh niên có thể vượt qua nỗi cô đơn, vượt qua mọi sự gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ là vì anh luôn suy nghĩ anh không cô đơn mà luôn có đồng đội tiếp sức cho anh: “ Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”. Vì đồng đội mà anh luôn cố gắng trong công việc bởi anh luôn thấy những đóng góp của mình cho đất nước còn quá nhỏ bé so với họ (anh bạn trên đỉnh Phan-xi-păng, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, ông kĩ sư vườn rau Sa- Pa). *. Luận điểm 4: Giữa những khó khăn ác liệt của cuộc sống họ vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan, sự trẻ trung, lãng mạn của tuổi trẻ(1,25điểm) Sự trẻ trung, ngang tàng, sôi nổi đậm chất lính của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn giữa chiến trường ác liệt. Thái độ bất chấp những gian khổ hiểm nguy. (Dẫn chứng và phân tích) Anh thanh niên, qua những lời anh tâm sự với ông hoạ sĩ và cô kĩ sư về cuộc sống một mình của anh, về công việc của anh ta thấy được ý chí nghị lực phi thường ở anh“ …Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng…”. Không chỉ.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> vậy, ngoài giờ làm việc còn trồng hoa, nuôi gà và đặc biệt là dành thời gian để đọc sách mở mang hiểu biết. c. Đánh giá (0,5điểm) Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ hiện lên chân thực, sinh động trên các trang văn của các tác giả đã có sức thuyết phục với người đọc. Hình ảnh ấy không chỉ cho thấy tài năng của các tác giả mà còn cho chúng ta thấy sự am hiểu, trải nghiệm cuộc sống trong những năm kháng chiến ác liệt của các nhà văn, nhà thơ. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm về lịch sử dân tộc, thêm tự hào và tiếp bước truyền thống các thế hệ cha anh. 3. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề - Suy nghĩ của bản thân Đề 4: Nhận xét về truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”. Qua truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên. Đáp án gợi ý: * Về kỹ năng: Hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Biết cách làm bài văn nghị luận bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí. Diễn đạt tốt, không mắc các lỗi chính tả , dùng từ , ngữ pháp..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> * Về nội dung : Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến riêng miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài. Dù triển khai theo trình tự nào cũng cần đạt được những ý chính sau đây. I. Mở bài Nguyễn Thành Long ( 1925-1971) là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí. Truyện của ông thường có khuynh hướng ca ngợi tình yêu tổ quốc, nhân dân. Lặng lẽ Sa Pa được viết vào mùa hè năm 1970 trong chuyến đi Lào Cai, in trong tập Giữa trong xanh (1971) . Với chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, thiết tha, Lặng lẽ Sa Pa ca ngợi con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi, hết lòng vì Tổ quốc thân yêu. Vì thế có ý kiến cho rằng: “ Tác phẩm như một….nghệ thuật” II. Thân bài: 1. Giải thích nhận định: Nhận xét trên là lời khẳng định Lặng lẽ Sa Pa là một áng văn xuôi giàu chất thơ về thiên nhiên và con người Sa Pa. Đây là lời nhận xét hoàn toàn chính xác. 2. Phân tích, chứng minh: a. Luận điểm 1: Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Qua các nhân vật với những công việc và lứa tuổi khác nhau, nhà văn muốn khái quát những phẩm chất cao đẹp của con người mới trong thời kì xây dựng.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu nước. Họ có những suy nghĩ đúng đắn, lặng lẽ cống hiến cho tổ quốc, tâm hồn trong sáng và giàu lòng nhân ái. 1/ Vẻ đẹp cao cả chung của các nhân vật. + Ý thức trách nhiệm trước công việc : anh thanh niên, đồng chí cán bộ khoa học. + Sống có lý tưởng, sẵn sàng cống hiến : anh thanh niên, cô kỹ sư trẻ (cô kĩ sư trẻ mới ra trường lần đầu tiên xa Hà Nội, dũng cảm lên nhận công tác tại Lai Châu. Cô là lớp thanh niên thề ra trường đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì…) + Nhận thức sâu sắc ý nghĩa công việc: anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học… + Yêu thích, say mê công việc, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, dám chấp nhận cuộc sống cô độc để làm việc, làm việc một cách kiên trì, tự giác bất chấp hoản cảnh : anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học. b. Luận điểm 2: Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”. Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên. + Đó là con người sống, làm việc một mình trên đỉnh núi cao mà không cô đơn. Anh tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình trên trạm khí tượng thật ngăn nắp, chủ động, giản dị (căn nhà nhỏ, giường cá nhân…). Anh sống lạc quan yêu đời- trồng hoa, nuôi gà, đọc sách. + Đó là một người khiêm tốn: lặng lẽ hoàn thành công việc, không tự nhận thành tích về mình, luôn nhận thức được công việc của mình làm là những đóng góp nhỏ bé cho đất nước; ham mê học hỏi, phấn đấu bởi xung quanh anh có biết bao con người, bao tấm gương, bao điều đáng học( những ông kĩ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu sét...).

<span class='text_page_counter'>(35)</span> + Một con người sống cởi mở, tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người một cách chân thành, chu đáo: việc đi tìm củ tam thất cho vợ bác lái xe, đón ông hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ thân tình, nồng hậu; hồn nhiên, yêu cuộc sống: thèm người, thèm chuyện trò ... 3. Đánh giá: Tác phẩm thật sự là một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của người lao động bình thường mà cao cả. Họ chính là những thế hệ tiêu biểu cho lớp người mới, cho thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Tuy không trực tiếp chiến đấu, song họ đã góp phần không nhỏ để xây dựng cuộc sống mới và góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ nối tiếp nhau xứng đáng là chủ nhân của đất nước này. III. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề - Suy nghĩ của bản thân.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> C. KẾT LUẬN Nghị luận văn học trong đề thi học sinh giỏi nói riêng, trong chương trình môn Ngữ văn Trung học nói chung là phần kiến thức trọng tâm. Viết đúng, viết hay là để đạt điểm cao, giải cao là rất quan trọng với mỗi học sinh giỏi. Thầy cô nào cũng khao khát học sinh của mình làm được điều đó. Vì vậy trong quá trình bồi dưỡng thầy cô luôn dày công, dốc sức bằng ngọn lửa của lòng nhiệt huyết và đam mê với nghề; bằng niềm say mê với mỗi tác phẩm văn học... Dẫu biết, mỗi thầy cô có những kinh nghiệm, phương pháp riêng, song cá nhân tôi tin rằng chuyên đề này có ý nghĩa thiết thực đối với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn. Vì vậy tôi trình bày một vài kinh nghiệm trong quá trình bồi dưỡng cách học sinh giỏi viết bài nghị luận văn học để trao đổi cùng đồng nghiệp. Chắc chắn, chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế rất mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp để quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi thêm hiệu quả. Xin chân thành cảm ơn!.

<span class='text_page_counter'>(37)</span>

×