TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT
NAM. LIÊN HỆ THỰC TIỄN.
Thủ Đức, ngày 2 tháng 6 năm 2021
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
Điểm: …………………………
KÝ TÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI...................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
CHƯƠNG 1: LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ....3
1.1. Lợi ích kinh tế..........................................................................................3
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lợi ích kinh tế........................................3
1.1.2. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế xã hội...........4
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế......................................6
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế.............................................................................7
1.2.1. Khái niệm và chiều của quan hệ kinh tế..........................................7
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng....................................................................8
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI
HỊA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH....................................................................11
2.1Quan niệm về sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế..................................11
2.2 Vai trị của nhà nước trong đảm baro hài hòa các quan hệ lợi ích..........11
CHƯƠNG
3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC QUAN
HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM.......................................................... 15
3.1 Nội dung đảm bảo hài hịa các lợi ích kinh tế trong phát triển ở Việt Nam.......15
3.2 Đảm bảo hài hịa lợi ích trong một số quan hệ lợi ích cụ thể trong phát triển ở
Việt Nam 17
3.3 Một số ví dụ thực tiễn giải quyết các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam.........21
KẾT LUẬN........................................................................................................ 23
MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ
TÀI
Nghị quyết đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII
một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước, và đẻ ra chính sách: Cơng
nghiệp hố và hiện đại hố để đưa nước ta nhanh chóng
trở thành một nước có nên kinh tế phát triển ngay trong
thập kỷ đâu của thế kỷ XXI.Nền kinh tế nước ta đã
chuyên đổi dân dân từ nên kinh tế tập trung quan lieu
bao cấp sang nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phân,
mở cửa, vận hành theo. cơ chế thị trường có sự điều tiết
quản lý của Nhà nước.
Khi nước ta chuyên sang nên kinh tế thị trường,
xây dựng nên cơng nghiệp hố hiện đại hố thì vấn đề
nỗi lên khơng chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát
triển là tình trạng cơ sở hạ tẳng kém, thiểu kinh nghiệm,
trình độ đội ngũ cán bộ cơng nhân viên chưa cao. Vì
thể, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết
nhiều vần đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu
cầu đặt ra.
Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong
những vấn đề kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát
triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyên đơi nên lcinh tế
từ cơ chế kế hoạch hố tập trung sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh
nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tên tại, cùng tham
gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ
chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động
kinh doanh nói chung, thì lợi ích kinh tế của các doanh
5
nghiệp nói riêng và lợi ích
của tồn xã hội nói chung
luôn được quan tâm hàng
đầu.
Bên
cạnh
những
thành công, tiên bộ của một
số doanh nghiệp thì cịn
khơng
ít
những
doanh
nghiệp hiệu quả kinh doanh
thấp dẫn đến nguy cơ sa
sút, không đứng nỗi trong
cơ chế thị trường, phải sát
nhập, phá sản hoặc giải thể.
Mặt khác tình trạng hoạt
động kinh doanh nói chung
gặp rất nhiều khó khăn lúng
túng và bị động khi chuyên
sang cơ chế mới, chưa tìm
ra được các giải pháp hữu
hiệu nâng cao hiệu quả
kinh
doanh.
Có
những
doanh nghiệp sử dụng các
hình thức cạnh tranh khơng
lành mạnh, thậm chí là vi
phạm pháp luật, chơi xấu
đối thủ…. để trục lợi bất
chính.
6
Nhận thức được tầm quan trọng của các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền phát
triển kinh tế của các doanh nghiệp ở Việt Nam và vai trò của nhà nước trong việc đảm
bảo hài hịa các lợi ích đó nên nhóm chúng em quyết đinh chọn đề tài: “Lý luận về các
quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam. Liên hệ thực tiễn” là đề tài cho bài tiểu luận cuối
kỳ với hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây
dựng để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh
và giúp mọi người hiểu về tầm quan
trọng của các quan hệ lợi ích kinh tế và vai trị của nhà nước trong việc điều tiết sự hài
hòa các quan hệ lợi ích kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh ngiệp
trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam ngày nay.
Mục tiêu : Giúp người đọc hiểu rõ về khái niệm, bản chất và tầm quan trọng của
lợi ích kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế, các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh
tế và vai trò của nhà nước trong việc điều tiết đảm bảo sự hài hịa quan hệ lợi ích kinh
tế giữa các doanh nghiệp, liện hệ một số vấn đề, ví dụ thực tiễn để hiểu rõ hơn vấn đề.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ
1.1. Lợi ích kinh tế
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ
sản xuất quyết định. Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu
cầu của họ phải được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi
ích.
Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn liền với
nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu vật
chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế. Vì vậy lợi ích
kinh tế là một phạm trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những điều kiện, những phương
tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi
ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người có được khi
tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình tham gia vào các hoạt động đó để tạo ra của cải
vật chất cho mình. Những quan hệ đó chính là quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy
lợi ích kinh tế cịn là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất
quyết định.
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định
vị trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt
động kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi những quan hệ sản
xuất, mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong,
hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo
Ph.Ăngghen: Các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới
hình thức lợi ích.
Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy định
hệ thống lợi ích kinh tế của xã hội đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều quan hệ sản
xuất, mà trước hết là nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích kinh tế cũng mang tính đa dạng. Tuỳ góc độ xem
xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích kinh tế khác nhau sau đây:
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi ích
kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần
kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của q trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của người sản
xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Dù cách phân chia có thể khác nhau nhưng các lợi ích kinh tế bao giờ cũng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Mặt thống
nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ thống, trong đó lợi ích
kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác. Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế
của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế của người trao đổi, người tiêu dùng và
ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn
đến xu hướng lấn át của lợi ích kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác.
Do đó, nó có thể gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các
hoạt động kinh tế - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích kinh
tế cũng mang tính đối kháng, do đó, nó dẫn đến những cuộc đấu tranh khơng khoan
nhượng giữa các giai cấp. Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các
hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ
phí...
1.1.2. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong
phú. Mặc dù vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi ích. Xét
theo nghĩa như vậy, có thể khái quát vai trị của lợi ích kinh tế trên một số khía cạnh
chủ yếu sau:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã
hội.
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn các nhu cầu
vật chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất
tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương thức và mức độ
thỏa mãn các nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành
động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội,
đặc biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ồn định và phát triển xã hội, vừa
là biểu hiện của sự phát triển. “Nước độc lập mà dân không được hưởng ấm no, hạnh
phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì”
Về khía cạnh kinh tế, tắt cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi
ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ với các
chủ thể khác trong xã hội. Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất
trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng, hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có được.
Mà tất cả các nhân tổ đó lại là sản phẩm của nền kinh tế và phụ thuộc vào quy mơ và
trình độ phát triển của nó. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể
kinh tế đã đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình,
người lao động phải tích cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao
động; chủ doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp
ứng các nhu cầu, thị hiếu của khách hang cách nâng cao chất lượng sản phẩm, trách
nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều có tác dụng thúc đây
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và nâng cao đời sống của người
dân. Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác.
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích của
mình các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối với
tư liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử - một
động lực quan trọng của tiến bộ xã hội. “Động lực của toàn bộ lịch sử chính là cuộc
đấu tranh của các giai cấp và những xung đột về quyền lợi của họ” và “nguồn gốc vấn
đề trước hết là những lợi ích kinh tế mà quyền lực chính trị phải phục vụ với tư cách
phương tiện”. Như vậy, mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức như thế nào, xét
đến cùng, đều xoay quanh vấn đề lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và
thực hiện lợi ích chính tị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội. Lợi ích
kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế -xã hội.
C.Mác đã chỉ rõ : “Cội nguồn phát triển của xã hội khơng phải là q trình nhân thức,
mà là các quan hê của đời sống vật chất, tức là các lợi ích kinh tế của con người”. Điều
cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế thì lợi ích
kinh tế mới thực hiện được vai trị của mình. Ngược lại, việc theo đuổi những lợi ích
kinh tế khơng chính đáng, khơng hợp lý, không hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì rắt nhiều lý do, các lợi ích kinh tế,
nhất là lợi ích cá nhân, không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện cơ chế
thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế là động lực của
các hoạt động kinh tế; phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng. Điều này góp phần
tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm vừa qua.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế
Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Là phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi
ích kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hang hóa và dịch vụ, mà điều
này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt.
Như vậy, nhân tổ đầu tiên ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ thể là lực lượng
sản xuất. Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành nhiệm vụ quan trọng
hang đầu của các quốc gia.
Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thông quan hệ sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định
vị trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động
kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan 'hệ sản xuất,
mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức tồn tại và biểu hiện của
các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph. Ăngghen, các quan hệ kinh tế của một xã
hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tắt yếu khách quan,
bằng nhiều loại cơng cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Chính sách phân
phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của
các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, phương thức
và mức độ thỏa mãn các như cầu vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan
hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đồi.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập có thể
gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh
nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa có thể bị ảnh
hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngồi. Đắt nước có thể phát triển nhanh hơn
nhưng cũng phải đối mặt với các nguy cơ cạn kiệt tải nguyên, ô nhiễm môi trường...
Điều đó có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều đến
lợi ích kinh tế của các chủ thể.
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế
1.2.1. Khái niệm và chiều của quan hệ kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành
nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc giá với phần còn lại của thế
giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát
triển xã hội nhất định.
Chiều của quan hệ kinh tế : quan hệ lợi ích kinh tế có biểu hiện hết sức phong
phú, quan hệ đó có thể là các quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với một
cá nhân trong tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể, các
cộng đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành kinh tế khác nhau. Trong
điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế cịn phải xét tới quan hệ giữa quốc
gia với phần còn lại của thế giới.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng
Thứ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lao động trẻ, có sức khỏe; thể lực ngày càng được cải thiện, bước đầu đáp ứng
nhu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Tri thức, trí tuệ, kĩ năng của người lao động không ngừng được nâng lên đáp
ứng bước đầu được nhu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Khơng chỉ có sức khỏe, thể lực được cải thiện đáng kể, trong những năm qua,
tri thức và trí tuệ của người lao động nước ta cũng khơng ngừng tăng lên. Điều đó thể
hiện rõ nét nhất ở số lượng lao động đã qua đào tạo.
Hiện nay, trong các ngành công nghệ cao, số lượng công nhân kỹ thuật, cơng
nhân có tay nghề, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư đang ngày một tăng lên. Do đó, trong các
ngành này, xu hướng tri thức hóa cơng nhân ngày càng rõ rệt. Sự gia tăng đội ngũ lao
động lành nghề trong các ngành này góp phần to lớn trong việc chuyển đổi tính chất
của nền sản xuất, từ cơng nghiệp truyền thống giản đơn, thủ công sáng công nghiệp
hiện đại, tự động hóa và tin học hóa, Sự tăng lên nhanh chóng của đội ngũ cơng nhân
có trí thức cũng đã góp phần chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp ở nước ta theo hướng
hiện đại, phù hợp với xu hướng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều
ngành nghề trước đây được coi là “ then chốt “ như cơ khí, xây dựng… thì ngày nay,
với phát triển của khoa học- công nghệ và sự gia tăng trình độ, tri thức của người lao
động, có nhiều công nhân nước ta làm việc trong những ngành nghề mới như điện viễn
thơng, dầu khí, cơng nghệ thơng tin….
Biểu hiện rõ nhất của những thay đổi tích cực về trình độ, tay nghề của nguồn
lao động trong cơng nghiệp là xu hướng tri thức hóa cơng nhân đang diễn ra, nhất là ở
lớp công nhân trẻ. Trong nhiều ngành công nghiệp, nhất là những ngành cơng nghiệp
mũi nhọn như dầu khí, điện tử, công nghệ vật liệu mới… số lượng lao động có trình độ
chiếm tỷ lệ khá cao. Có nhiều người lao động là kỹ sư, công nhân lành nghề được đào
tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ.
Như vậy, trong những năm qua, chất lượng của người lao động nước ta trong
lĩnh vực công nghiệp ngày càng được cải thiện. Yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao
động đã từng bước được tăng lên; hàm lượng tri thức, chất xám trong mỗi sản phẩm
ngày một nhiều hơn. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động trong các ngành
công nghiệp không ngừng tăng lên, bước đầu đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện
đại.
Thứ hai, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
Chính sách tiền lương là cơ sở và căn cứ để từng bước Nhà nước hiện thực
chính sách phân phối thu nhập hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống cho người lao
động và xóa đói giảm nghèo.
Đối với người có thu nhập thấp, ngồi tiền cơng, tiền lương họ khơng có nguồn
thu nhập từ tài sản nào khác. Do vậy, chính sách tiền lương là một công cụ điều tiết
của Nhà nước nhằm hỗ trợ có hiệu quả đời sống của người nghèo, người có thu nhập
thấp.
Chính sách thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền thuế mà người có thu nhập phải trích nộp
một phần tiền lương hoặc từ các nguồn thu khác vào ngân sách nhà nước sau khi đã
tính các khoản được giảm trừ. Theo đó, thuế TNCN được xây dựng trên ngun tắc
cơng bằng và khả năng nộp thuế. Thuế thu nhập cá nhân khơng đánh vào những cá
nhân có thu nhập thấp, vừa đủ ni sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Do đó,
việc nộp thuế thu nhập cá nhân cũng góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách chênh
lệch giữa các tầng lớp dân cư.
Chính sách trợ cấp
Chính sách hay chế độ trợ cấp là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định cho
người lao động và một số thành viên trong gia đình họ thực tế được hưởng một khoản
tiền trong những trường hợp cần thiết, phù hợp với khả năng chi trả và điều kiện kinh
tế - xã hội của đất nước. Nội dung chế độ trợ cấp thường bao gồm các chế độ ngoài thù
lao lao động như chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ trợ giúp khi khó khăn, chế độ cấp tiền
khi chấm dứt hợp đồng lao động.
Trợ cấp cho người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn, người có thu nhập
thấp là một trong những chính sách phân phối lại thu nhập của nhà nước. Chính sách
trợ cấp xã hội của Chính phủ trong thời gian qua thể hiện một sự nỗ lực lớn của chính
phủ trong bối cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay, đã giảm bớt một phần nào gánh
nặng cuộc sống cho những đối tượng yếu thế, người lao động có thu nhập thấp và đảm
bảo an sinh xã hội cho người dân.
Thứ ba, hội nhập quốc tế
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập quốc tế góp phần thay
đổi tích cực nguời lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nuớc ta tuy được đầu từ những năm
60 của thể kỷ XX nhưng nó chỉ thực sự được đẩy mạnh từ khi đổi mới đến nay. Với
mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng
ta cịn gắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế. Đây là một chủ truơng đúng đắn góp phần làm thay đổi tích cực người
Việt Nam trong những năm qua.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cịn tạo ra một thế hệ người
lao động Việt Nam mới mà ở thế kỷ trước hầu như chưa có. Đó những người lao động
làm việc ở nước ngoài. Trong những năm gần đây, mỗi năm nước ta khơng chỉ xuất
khầu hàng nghìn lao động phổ thông sang các nước trong khu vục như Đài Loan,
Malaysia, Indonesia.. mà sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).. tạo diều
kiện cho Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn lao động có trình độ sang các nước có nền
kinh tế phát triển như Nhật Bản, Đức, Mỹ... này giúp cho lao động Việt Nam có thêm
nhiều hội làm việc ở những nước có nền sản xuất hiện đại. tiếp thu đuợc những tiến bộ
về khoa học công nghệ ứng dụng trong sản xuất, trau dồi được tác phong làm việc, ý
thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm... Khi trở về nước, họ mang theo những tiến
bộ đó để làm việc một cách có hiệu quả và chuyên nghiệp hơn.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI
HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH
2.1 Quan niệm về sự hài hòa giữa các lợi ích kinh tế
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích kinh tế được hạn chế; mặt thống
nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó tạo
động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế,
đặc biết là lợi ích xã hội.
Để có sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh tế thị trường là khơng đủ vì
các lợi ích kinh tế ln vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, mà cần có sự can
thiệp của nhà nước. Bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế là sự can thiệp của nhà nước
vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các cơng cụ giáo dục, pháp luật, hành chính, kinh
tế... nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế; hạn chế mâu thuẫn, tăng cường sự
thống nhất; xử lý kịp thời khi có xung đột.
2.2 Vai trị của nhà nước trong đảm baro hài hịa các quan hệ lợi ích
Hài hịa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn được hạn chế, trách được va chạm, xung đột; mặt
thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, từ
đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện tốt hơn các lợi ích
kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội. Để có sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh
tế thị trường là khơng đủ vì các lợi ích kinh tế luôn vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
nhau, mà cần có sự can thiệp của nhà nước. Bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế là sự
can thiệp của nhà nước vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các cơng cụ giáo dục,
pháp luật, hành chính, kinh tế... nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế; hạn
chế mâu thuẫn, tăng cường sự thống nhất, xử lý kịp thời khi có xung đột.
a) Bảo vệ lợi ích hợp pháp , tạo mơi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích của
các chủ thể kinh tế .
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng
mở rộng. Môi trường vĩ mơ thuận lợi khơng tự hình thành, mà phải được nhà nước tạo
lập. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế trước hết là giữ vững ổn
định về chính trị. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện rất tốt điều này.
Nhờ đó, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước rất yên tâm khi tiến hành đầu tư.
Tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị là góp phần bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế
ở Việt Nam . Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế địi hỏi phải xây
dựng được mơi trường pháp luật thơng thoảng, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các
chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn phải
tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp
luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất hiện nay là
tuân thủ pháp luật. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường
sắt, đường sông, đường hàng không…; hệ thống cầu cống hệ thống điện, nước; hệ
thống thông tin liên lạc...). Nhờ phát triển kết cấu hạ tầng được coi là một trong ba đột
phá lớn, trong những năm vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải
thiện rất đáng kể, đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Mơi trường vĩ mơ về
kinh tế địi hỏi nhà nước phải đưa ra được các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam
đang từng bước đáp ứng yêu cầu này. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế cịn là tạo lập mơi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường. Đó là mơi trường trong đó con người năng động, sáng tạo; tơn trọng kỷ cương,
pháp luật; giữ chữ tín ...
b) Điều hịa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật
thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dẫn cư làm cho lợi ích kinh tế
của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có
các chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hịa các
lợi ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh
lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; nhưng mặt khác
phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể
dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân
phối thu nhập cần phải tính đến. Phân phối khơng chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu,
mà còn phụ thuộc vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao,
hàng hóa, dịch vụ càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thu nhập của các chủ thể càng lớn.
Do đó, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ để
nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Đó chính là những điều kiện vật chất để
thực hiện ngày càng đầy đủ sự cơng bằng xã hội trong phân phối.
c) Kiểm sốt, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã
hội
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối cơng bằng,
hợp lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hịa các lợi ích kinh tế. Do đó, nhà nước phải
tích cực, chủ động thực hiện cơng bằng trong phân phối thu nhập. Hiện nay, công bằng
trong phân phối có hai quan niệm chính: cơng bằng theo mức độ (căn cứ vào mức thu
nhập mà mỗi chủ thể nhận được) và công bằng theo chức năng (căn cứ vào đóng góp
trong việc tạo ra thu nhập). Mỗi quan niệm đều có ưu điểm và nhược điểm nên cần sử
dụng kết hợp cả hai quan niệm này. Trước hết, nhà nước phải chăm lo đời sống vật
chất cho mọi người dân. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống
tối thiểu. Để làm được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách
xố đói giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát
triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thốt đói nghèo vững chắc ở các
vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo, khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại . Chú
trọng các chính sách ưu đãi xã hội, vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn
đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ
người nghèo, đồng bảo các vùng gặp thiên tai. Tiếp theo, nhà nước cần có các chính
sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi
biện pháp. Về nguyên tắc, người dẫn được làm tất cả những gì luật pháp khơng cấm;
luật pháp chỉ cấm những hoạt động gây tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi ích hợp pháp
khác. Để lợi ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao động
và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động lĩnh vực phân phối thu
nhập. Họ cần phải hiểu được các nguyện đúng trong tắc phân phối của kinh tế thị
trường để có sự phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận; chủ doanh nghiệp phải
hiểu và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp thuế... Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao
nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là những
giải pháp rất cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi không hợp lý về thu nhập. Trong
trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không tự nhận thức và thực
hiện được, nhà nước cần có sự tư vấn, điều tiết hợp lý. Bên cạnh đó, trong cơ chế thị
trưởng, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái;
lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ biến. Các hoạt động này càng gia tăng, càng làm
tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Để chống các hình thức thu
nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế. Trước hết, phải có bộ máy nhà
nước liêm chính, có hiệu lực. Bộ máy nhà nước phải tuyển dụng, sử dụng được những
người có tài, có tâm; sàng lọc được những người khơng đủ tiêu chuẩn. Cán bộ, công
chức nhà nước phải được đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến cùng mọi quyết
định trong phạm vi, chức trách của họ. Nhà nước phải kiểm sốt được thu nhập của
cơng dân, trước hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi
người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải
được xét xử theo quy định của pháp luật. Thực hiện cơng khai, minh bạch mọi cơ chế,
chính sách và quy định của nhà nước. Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp và cán bộ,
công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình. Đồng thời, các cơ
quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát, tránh được tình trạng
lạm quyền,thiếu trách nhiệm , tham nhũng ...Cùng với đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là đặc biệt cần thiết. Thực hiện
tốt hoạt động này không chỉ nhằm khắc phục các bất cập, thực hiện công bằng xã hội,
mà quan trọng hơn là ngăn chặn các hình thức thụ nhập bất hợp pháp.
d) Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu thuẫn
phát sinh cần được giải quyết kịp thời. Muốn vậy, các cơ quan chức năng của nhà
nước cần phải thường xuyên quan tâm phát hiện mẫu thuẫn và chuẩn bị chu đáo các
giải pháp đối phó. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là phải có
sự tham gia của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên
trên hết. Ngăn ngừa là chính nhưng khi mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế bùng phát
có thể dẫn đến xung đột (đình cơng, bãi cơng...). Khi có xung đột giữa các chủ thể
kinh tế, cần có sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà
nước.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC QUAN HỆ
LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1 Nội dung đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế trong phát triển ở Việt Nam
a) Tạo lập điều kiện gia tăng thu nhập cho các chủ thể
Mức độ thực hiện các lợi ích kinh tế phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng
hóa, dịch vụ mà các chủ thể nhận được. Ở tầm vĩ mơ, các lợi ích kinh tế phụ thuộc tốc
độ, chất lượng tăng trưởng; sự ổn định của tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Đồng
thời, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất luôn được thực hiện trong
môi trường xã hội, môi trường tự nhiên an tồn, ổn định. Nói cách khác, phát triển
theo hướng bền vững là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện các lợi ích kinh tế. Những
điều kiện cần được tạo lập để gia tăng thu nhập cho các chủ thể ở Việt Nam hiện nay
là: Phát triển, hoàn thiện kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có nhiều ưu việt, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Nền kinh tế
thị trường càng phát triển, các ưu việt càng được thể hiện đầy đủ. Do đó, đẩy nhanh
q trình phát triển, hoàn thiện kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết để nâng cao thu
nhập cho các chủ thể kinh tế. Môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Mơi
trường kinh tế thuận lợi góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế, từ đó nâng
cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Môi trường kinh tế thuận lợi bao gồm: sự ổn
định về chính trị; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được xây dựng, hồn thiện; các chính
sách kinh tế phù hợp với sự vận động, phát triển của nền kinh tế, hệ thống luật pháp
đồng bộ, hồn thiện, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế...Phát triển
khoa học - công nghệ. Đây là nguồn lực quan trọng, đồng thời cũng là chìa khóa để
nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, từ đó có thể nâng cao thu nhập cho
các chủ thể kinh tế. Trong điều kiện các nước đi sau, để phát triển khoa học - công
nghệ, Nhà nước cần có định hướng đúng đắn; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khoa
học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, phát triển thị trường khoa học - công nghệ;
hợp tác quốc tế về khoa học - cơng nghệ...Nhà nước pháp quyền thật sự hành động vì
lợi ích chính đáng của người dân và đất nước. Khi nhà nước pháp quyền được xây
dựng, các lợi ích kinh tế chính đáng được bảo vệ; các hình thức thu nhập bất hợp pháp
sẽ được hạn chế, loại bỏ, từ đó hạn chế được mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế, công
bằng xã hội sẽ được thực hiện. Ở Việt Nam, xây dựng nhà nước pháp quyền phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN; phải chọn được những người có tâm có tài làm việc
trong bộ máy nhà nước; mọi các nhân và tổ chức phải thật sự bình đẳng trước pháp
luật...Thể chế chính trị, xã hội tương hợp với thể chế kinh tế. Đây là những điều kiện
đảm bảo cho các hoạt động kinh tế có thể phát triển nhanh, ổn định. Từ đó nâng cao
thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Sự tương hợp giữa thể chế chính trị, xã hội với thể
chế kinh tế địi hỏi thể chế chính trị, xã hội vừa phải vận động, biến đổi phù hợp với
yêu cầu của thể chế kinh tế, vừa phải mở đường cho thể chế kinh tế vận động, biến đổi.
Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường thật sự hài
hòa. Giải quyết tốt các quan hệ này sẽ tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định,
góp phần nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ mơi trường địi hỏi khi giải quyết vấn đề này ln phải
tính đến các vấn đề còn lại, tránh mọi xung đột, tối ưu hóa các mối quan hệ.
b) Hạn chế mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
Dưới sự tác động của các quy luật thị trường, sự phân hóa về mức thu nhập,
mức sống giữa các tầng lớp dân cư mang tính tất yếu. Điều đó có nghĩa là việc thực
hiện các lợi ích kinh tế sẽ rất khác nhau, nguy cơ căng thẳng, xung đột giữa các tầng
lớp dân cư hồn tồn có thể xảy ra. Lịch sử phát triển của các nước đi trước đã minh
chứng cho điều đó. Hạn chế gia tăng giãn cách về thu nhập không phải bằng hạn chế
gia tăng thu nhập của người giàu, mà vẫn phải tạo điều kiện thuận lợi để họ giàu hơn
vì điều đó phù hợp với lợi ích xã hội. Điều quan trọng là tạo điều kiện để người nghèo,
người thu nhập thấp gia tăng nhanh thu nhập của họ, Để hạn chế mâu thuẫn giữa các
lợi ích kinh tế, Nhà nước cịn phải đánh thuế thu nhập với những người có thu nhập
cao và trợ cấp, hỗ trợ cho những người thu nhập thấp. Điều quan trọng hơn, các chính
sách phân phối và phân phối lại thu nhập của nhà nước phải cơng bằng, hợp lý và được
các chủ thể có liên quan tự giác thực hiện.
c) Xử lý hợp lý xung đột do mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan và nếu khơng kiểm sốt tốt có
thể dẫn đến xung đột, dưới những hình thức cụ thể là mít tinh, biểu tình, bãi cơng, đập
phá nhà xưởng... Sự xung đột giữa các chủ thể sẽ làm tổn hại đến lợi ích kinh tế của
nhiều bên, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Nguyên tắc xử lý xung đột là: Nhanh chóng
chấm dứt xung đột. Đặt lợi ích đất nước lên trên hết. Có sự nhân nhượng giữa các bên
tham gia. Ở Việt Nam trong những năm vừa qua, khi có xung đột lợi ích kinh tế xảy ra
giữa người lao động và người sử dụng lao động, hệ thống chính trị đã nhanh chóng
giải quyết, hạn chế được được thiệt hại. Tuy nhiên, hiện tượng khiếu kiện quy mô lớn,
vượt cấp, kéo dài, nhất là khiếu kiện về đất đai diễn ra khá phổ biến. Điều này ảnh
hưởng khơng tốt đến lợi ích của đất nước.
3.2 Đảm bảo hài hịa lợi ích trong một số quan hệ lợi ích cụ thể trong phát triển ở Việt
Nam
Lợi ích kinh tế về bản chất là quan hệ xã hội nên giữa chúng có quan hệ với
nhau thơng qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể được thực hiện thông qua thị trường, chịu sự chi phối của các
quy luật thị trường.
Đảm bảo hài hòa trong quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người lao động và
những người sử dụng lao động.
Để thực hiện lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao
động trước hết phải tham gia thị trường lao động. Trên thị trường này, người lao động
xuất hiện với tư cách là người bán, người sử dụng lao động - người mua. Hai bên đều
cần nhau: người lao động cần việc làm để có thu nhập; người sử dụng lao động cần
thuê lao động để sử dụng cho các hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Điều đó địi hỏi họ phải quan hệ với nhau và làm cho lợi ích kinh tế của họ thống nhất
với nhau. Tuy nhiên, người bán thì muốn bán giá cao; người mua lại muốn mua với giá
thấp. Sự cạnh tranh giữa hai bên sẽ hình thành một mức giá (tiền lương) hai bên chấp
nhận được. Đây là thỏa thuận, nhân nhượng, đồng thuận đầu tiên để hai bên thực hiện
lợi ích kinh tế của mình. Thỏa thuận tiếp theo là việc thực hiện quá trình lao động, quá
trình người lao động tạo ra giá trị và giá trị thặng dư . Trong q trình đó, người sử
dụng lao động là người tổ chức, quản lý; người lao động là người bị quản lý. Kết quả
của quá trình lao động là hàng hóa, dịch vụ trong đó chứa đựng giá trị và giá trị thặng
dư mà người lao động đã tạo ra. Sau khi thực hiện giá trị và giá trị thặng dư, người lao
động được trả lương, người sử dụng lao động nhận được lợi nhuận. Lợi ích kinh tế của
hai bên đã được thực hiện. Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và
người sử dụng lao động được bắt đầu từ thị trường lao động, đến việc sử dụng sức lao
động trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh và kết thúc bằng việc thực hiện giá trị
và giá trị thặng dư trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. Q trình đó chịu ảnh hưởng của
rất nhiều nhân tố nên không phải khi nào cũng được kết thúc tốt đẹp. Người lao động
và người sử dụng lao động luôn phải cạnh tranh và hợp tác với nhau.
Đảm bảo hài hồ trong quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao
động.
Những người sử dụng lao động trước hết cạnh tranh với nhau trong cùng ngành
kinh doanh. Họ cạnh tranh với nhau trong việc mua các yếu tố đầu vào (thuê đất đai,
vốn, sức lao động...). Cạnh tranh giữa họ có thể làm giá cả các yếu tố sản xuất tăng lên.
Sau khi mua được các yếu tố sản xuất cần thiết, người sử dụng lao động tiến hành q
trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Để thực hiện lợi ích của mình và cạnh tranh với
những người sản xuất, kinh doanh cùng ngành, họ phải tìm mọi cách để nâng cao chất
lượng hàng hóa, dịch vụ; tiết giảm mọi chi phí đến mức có thể để có thể bán được
hàng hóa, dịch vụ với mức giá thu hồi được vốn và có lãi. Cạnh tranh giữa những
người sử dụng lao động trong cùng ngành đã hình thành nên giá trị thị trường của hàng
hóa. Những người sử dụng lao động ở các ngành kinh doanh khác nhau cũng cạnh
tranh với nhau. Họ di chuyển vốn đầu tư từ những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp
sang những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Q trình đó chỉ chấm dứt khi sự chênh
lệch tỷ suất lợi nhuận không cịn nữa (hình thành tỷ suất lợi nhuận bình qn). Khi tỷ
suất lợi nhuận bình qn hình thành, hàng hóa, dịch vụ được bán theo giá cả sản xuất
(chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình qn). Khi đó, lợi ích kinh tế của người sử
dụng lao động được thực hiện bằng cách chia giá trị thặng dư theo vốn (tư bản). Dù
đầu tư vào các ngành khác nhau nhưng lượng vốn đầu tư bằng nhau sẽ thu được lợi
nhuận bằng nhau. Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động
được thực hiện thông qua cạnh tranh và hợp tác giữa họ với nhau trên thị trường.
Đảm bảo hài hòa trong quan hệ lợi ích giữa những người lao động.
Lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện khi họ có việc làm, từ đó có
thu nhập để bảo đảm cuộc sống. Để có việc làm và thu nhập, người lao động phải cạnh
tranh với nhau trên thị trường lao động, đặc biệt là khi cung về lao động vượt cầu về
lao động. Để cạnh tranh với nhau, người lao động có thể học tập, nâng cao tay nghề,
nâng cao sức khỏe, thể lực... Điều này phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực,
với lợi ích xã hội. Tuy nhiên, cạnh tranh với nhau người lao động buộc phải chấp nhận
hạ thấp tiền lương hoặc tăng cường độ lao động, hoặc kéo dài thời gian lao động.
Trong điều kiện dân số và lao động gia tăng nhanh, vượt quá mức tăng cầu về lao động
thì khó tránh khỏi tình trạng một bộ phận người lao động khơng tìm được việc làm, bị
thất nghiệp. Khi đó, người lao động cũng khơng thể giúp nhau và tình trạng người lao
động bị bần cùng là không tránh khỏi. Để thực hiện lợi ích kinh tế của mình, người lao
động cần phải đồn kết với nhau trong cuộc đấu tranh với giới chủ (những người sử
dụng lao động) đòi tăng lương, giảm giờ làm...
Đảm bảo hài hịa trong quan hệ giữa lợi ích người lao động, lợi ích người sử
dụng lao động và lợi ích xã hội.
Lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động được các chủ thể
trực tiếp chăm lo, thực hiện. Trong cơ chế thị trường, lợi ích xã hội khơng có chủ thể
trực tiếp chăm lo, nhưng - theo nhà kinh tế học cổ điển A. Smith (1723 – 1790) – khi
các chủ thể chăm lo cho lợi ích của mình thì nền kinh tế thị trường xuất hiện “bàn tay
vơ hình” chăm lo lợi ích xã hội. Nếu người lao động tích cực, say mê, sáng tạo trong
lao động; người sử dụng lao động chăm lo cho các hoạt động kinh doanh, khơng làm
tổn hại lợi ích của bất cứ chủ thể nào thì khi lợi ích kinh tế của họ được thực hiện thì
lợi ích xã hội cũng đồng thời, được thực hiện. Lợi ích lớn nhất của xã hội (hay đất
nước) là phát triển. Khi lợi ích xã hội (hay lợi ích quốc gia) được thực hiện có nghĩa là
đất nước phát triển. Đó là cơ sở, tiền đề để thực hiện các lợi ích khác. Vì vậy, chăm lo
và bảo vệ lợi ích quốc gia là nghĩa vụ của mọi công dân, của mọi chủ thể kinh tế và
của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước là một chủ thể kinh tế,
có lợi ích riêng. Lợi ích kinh tế của nhà nước được thực hiện bằng việc thu thuế với
các tổ chức và cá nhân. Nguồn thu từ thuế càng tăng, lợi ích nhà nước càng được bảo
đảm. Như thế, nhà nước cũng có quan hệ lợi ích, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
các chủ thể khác. Sự thống nhất thể hiện: các doanh nghiệp càng phát triển, thu nhập
của người dân càng tăng thì nguồn thu của nhà nước cũng càng tăng và ngược lại. Sự
mâu thuẫn thể hiện: nếu mức thuế tăng, lợi ích kinh tế nhà nước được thực hiện nhưng
lợi ích của các chủ thể khác có thể bị tổn hại và ngược lại. Tuy nhiên, là người đại diện
cho lợi ích xã hội, nhà nước chủ yếu phải hành động vì lợi ích của xã hội. Chẳng hạn,
để kích thích tăng trưởng kinh tế, nhà nước có thể giảm thuế, miễn thuế cho doanh
nghiệp... Trên thị trường lao động, người lao động và người sử dụng lao động không
phải khi nào cũng gặp được nhau. Ở các nước đang phát triển, cung lao động thường
vượt cầu lao động nên người lao động thường ở vào thế yếu trong quan hệ với người
sử dụng lao động và phải chấp nhận mức tiền lương rất thấp. Mâu thuẫn, xung đột giữa
người lao động và người sử dụng lao động là điều khó tránh khỏi...Trong cơ chế thị
trường, những hiện tượng lừa đảo, gian lận, buôn lậu... diễn ra khá phổ biến và làm tổn
hại không chỉ lợi ích người tiêu dùng, mà cả lợi ích của các doanh nghiệp thực hiện
đúng các quy định của pháp luật, đến sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy, cơ chế thị
trường là phương thức thực hiện các quan hệ lợi ích kinh tế thơng qua hợp tác và cạnh
tranh giữa các chủ thể, dưới sự tác động của các quy luật thị trường. Tuy nhiên, kinh tế
thị trường chỉ là điều kiện cần vì nó khơng có khả năng giải quyết tối ưu mâu thuẫn
giữa các lợi ích kinh tế, thường dẫn đến và chạm, xung đột giữa các chủ thể trên thị
trường.