Nhà Hậu Lê
Lê Nghi Dân
Năm 1459, Lê Nghi Dân làm binh biến giết mẹ con Nguyễn Thị Anh,
trong chiếu lên ngôi nói: "Diên Ninh (niên hiệu của Nhân Tông) vốn
không phải là con tiên đế...". Nghi Dân lên ngôi cải niên hiệu là Thiên
Hưng.
Nghi Dân làm vua được 8 tháng, tới tháng 6 năm 1460, các đại thần
Nguyễn Xí, Đinh Liệt lại làm binh biến lật đổ Nghi Dân, Cung vương
Khắc Xương
[20]
khước từ lên ngôi, nên triều thần lập con út của Thái Tông
là Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông.
Nguyễn Thị Hằng
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, năm 1497, vua Thánh Tông bị bệnh.
Hoàng hậu Trường Lạc Nguyễn Thị Hằng
[21]
vốn bị vua xa lánh lâu ngày,
lấy cớ vào thăm bệnh vua rồi ngầm bôi thuốc độc vào tay, xoa lên những
chỗ loét của vua. Do đó bệnh vua càng nặng thêm và mất. Vì Nguyễn Thị
Hằng là con đại thần Nguyễn Đức Trung, ông tổ của Nguyễn Kim,
Nguyễn Hoàng là tổ nhà Nguyễn sau này nên sử nhà Nguyễn bỏ qua
không đề cập về cái ghen của hoàng hậu họ Nguyễn đã giết vua Lê.
Vua Thánh Tông có nhiều vợ và có 14 người con trai, thường mãn
nguyện nói với các quan, đại ý rằng: Trẫm có lắm con trai, cơ nghiệp sau
này vững bền không phải lo gì nữa. Nhưng Trạng Lường là Lương Thế
Vinh thẳng thắn tâu đại lược rằng: Lắm con trai chỉ là đầu mối của loạn
lạc.
Chỉ hơn 10 năm sau cái chết của Thánh Tông, điều Trạng Lường nói đã
thành hiện thực.
Nhà Lê sơ sụp đổ
Vua quỷ, vua lợn
Thái tử Tranh lên ngôi, tức là Lê Hiến Tông. Vua Hiến Tông kế tục giữ
nguyên kỷ cương của vua cha nên trong ngoài vô sự. Năm 1504, vua Hiến
Tông mất, con thứ ba là Thuần lên ngôi, tức là Lê Túc Tông. Túc Tông
yểu thọ, giữa năm lên ngôi, cuối năm đã qua đời lúc mới 17 tuổi. Triều
thần lập anh thứ nhì của ông là Tuấn lên ngôi, tức là Lê Uy Mục. Uy Mục
đế tàn ác, bị gọi là "vua quỷ", giết chết thái hoàng thái hậu vốn là Trường
Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng, người hại vua Thánh Tông trước đây,
vì bà này hối hận việc lập Uy Mục đế lên ngôi. Sau đó Uy Mục đế lại giết
các con thuộc chi của Kiến vương Tân (một người con của Thánh Tông).
(xem bài Lê Uy Mục)
Một người con của Kiến vương Tân là Oanh cùng Nguyễn Văn Lang là
em họ của thái hậu Nguyễn Thị Hằng
[22]
khởi binh giết Uy Mục lên ngôi,
tức là Lê Tương Dực. Tương Dực ăn chơi trụy lạc, bị gọi là "vua lợn".
Dân gian bị bóc lột cùng khốn, đồng loạt nổi dậy làm phản: Thân Duy
Nhạc, Ngô Văn Tổng, Trần Tuân và nhất khởi nghĩa Trần Cảo. Trong
triều nảy sinh bè phái, đại thần Trịnh Duy Sản, người có công dẹp khởi
nghĩa Trần Tuân, giết chết vua Tương Dực, cùng thái sư Lê Quảng Độ lập
chắt của Thánh Tông (gọi Tương Dực bằng chú) là Y mới 11 tuổi
[23]
lên
ngôi, tức là Lê Chiêu Tông. Trong khi đó Trịnh Duy Đại và Phùng Mại
lại lập người chắt khác của Thánh Tông là Doanh mới 8 tuổi lên ngôi. Phe
này thất thế chạy về Tây Đô. Sau Duy Đại giết chết Doanh.
Trần Cảo
Trần Cảo là lực lượng khởi nghĩa mạnh nhất, đánh chiếm kinh thành
Thăng Long, tự xưng làm vua, thái sư Quảng Độ đầu hàng. Có người nói
rằng đây là quả báo cho nhà Lê vì ngày thành lập, Lê Thái Tổ đã giết Trần
Cảo để giành ngôi (xem bài về Lê Lợi) nên về sau con cháu bị một Trần
Cảo khác báo oán và đây chính là hậu thân của Trần Cảo - Hồ Ông.
Lê Chiêu Tông bỏ chạy vào Tây Đô. Các tướng tạm gác việc xung đột để
chống Trần Cảo. Cảo thua rút khỏi Thăng Long. Trịnh Duy Sản đi đánh
Cảo bị tử trận ở Chí Linh. Cảo lại mang quân về định đánh kinh thành,
con nuôi Duy Sản là Trần Chân phá được Cảo ở Gia Lâm. Cảo thua chạy
rút qua sông Cầu, truyền ngôi cho con là Cung và bỏ đi làm sư mất tích.
Mạc Đăng Dung
Trần Cảo rút đi, các tướng lại chia bè phái đánh nhau. Nguyễn Hoằng Dụ
(con Nguyễn Văn Lang) đánh nhau với Trịnh Tuy. Tuy thua chạy về Tây
Đô (Thanh Hoá). Trần Chân về phe với Tuy
[24]
đánh đuổi Hoằng Dụ, nắm
lấy quyền trong triều. Tháng 7 năm 1518, vua Chiêu Tông nghe lời gièm
pha, sợ quy quyền của Trần Chân nên sai người giết Chân. Thủ hạ của
Chân là Nguyễn Kính nổi loạn.
Tháng 9 năm 1518, Trịnh Tuy và văn thần Nguyễn Sư lập một tôn thất có
họ xa với Chiêu Tông là Lê Do
[25]
làm vua và sai người dụ Nguyễn Kính.
Kính thấy Tuy là người cùng phe với Trịnh Duy Sản và Trần Chân trước
đây nên đồng lòng đi theo.
Chiêu Tông triệu thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung
[26]
đang
trấn thủ Hải Dương và Nguyễn Hoằng Dụ về cứu. Hoằng Dụ đánh bị thua
chạy về Thanh Hóa rồi chết. Đăng Dung một mình nhân cầm quân dẹp
loạn mà nắm hết quyền bính.
Tháng 7 năm 1519, Đăng Dung dẹp được Lê Do, bắt giết Do và Nguyễn
Sư. Trịnh Tuy bỏ chạy vào Thanh Hoá, Nguyễn Kính đầu hàng.
Năm 1521, Mạc Đăng Dung dẹp được Trần Cung (con Trần Cảo), quyền
thế át cả Chiêu Tông. Năm 1522, Chiêu Tông chạy ra ngoài gọi quân Cần
vương. Đăng Dung bèn lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê
Cung Hoàng, tuyên bố phế truất Chiêu Tông.
Vua Chiêu Tông được các tướng Hà Phi Chuẩn, Đàm Thận Huy, Lê Đình
Tú về cứu, thanh thế rất lớn. Nhưng sau đó Trịnh Tuy ở Thanh Hóa ra cần
vương, các tướng bất hoà. Trịnh Tuy tranh công mang Chiêu Tông vào
Thanh Hoá, ra lệnh các đạo bãi binh, từ đó các tướng không theo Chiêu
Tông nữa.
Năm 1523, Mạc Đăng Dung nhân phe Chiêu Tông yếu thế, điều quân
đánh Thanh Hoá. Năm 1524, Trịnh Tuy thua trận bỏ chạy rồi chết. Năm
1525, Mạc Đăng Dung bắt được Chiêu Tông mang về Thăng Long và giết
chết năm 1526.
Các đối thủ đều bị dẹp yên, không còn ai ngăn trở, năm 1527, Mạc Đăng
Dung phế truất Cung Hoàng lên ngôi, lập ra nhà Mạc (xem chi tiết bài
Mạc Đăng Dung). Nhà Lê sơ truyền đúng 100 năm và mất chỉ 30 năm sau
cái chết của vua Lê Thánh Tông.
Thời Lê Trung Hưng (1533-1789)
Tranh vẽ xa giá vua Lê xuất cung, thế kỷ XVII của Tavernier, người chưa
bao giờ đặt chân tới Đàng Ngoài. Nhiều thông tin trong sách của ông sai
lệch và đã bị các nhà du hành khác phê phán ngay từ cuối thế kỷ XVII
như Samuel Baron, John Pinkerton và William Dampier
[27]
Sau khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang
sang Trung Quốc cầu viện nhà Minh nhưng nhà Minh không đáp ứng. Hai
anh em chết già ở Trung Quốc. Năm 1529, tôn thất nhà Lê là Lê Ý khởi
binh chống Mạc nhưng không lâu sau bị dẹp tan.
Nhà Lê trong chiến tranh Lê-Mạc
Con vua Chiêu Tông
Từ năm 1529, một tướng của nhà Lê sơ là Nguyễn Kim chạy vào vùng
núi Thanh Hóa rồi sang Ai Lao chống nhà Mạc. Đến năm 1533, Kim tìm
được con vua Chiêu Tông là Duy Ninh đưa lên ngôi tại Ai Lao, tức là vua
Lê Trang Tông. Các sử gia nghi ngờ tính xác thực của việc Ninh là con
vua Chiêu Tông vì cha con chênh nhau quá ít tuổi
[28]
. Nhà Mạc, trong biểu
tâu nhà Minh còn nói Kim dựng con mình lên ngôi, xưng bừa là con vua
Chiêu Tông.
Dù sao, việc vua Lê được lập lại khiến một bộ phận nhân dân, sĩ phu theo
về vì thiên hạ còn nhớ nhà Lê. Nguyễn Kim mang quân về nước đánh
chiếm Thanh Hoá. Từ đó sử gọi nhà Mạc là Bắc triều và nhà Lê trung
hưng là Nam triều.