Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Bảo hộ công dân đi làm việc ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 170 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯƠNG LAN

BẢO HỘ CÔNG DÂN VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
THEO CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HỢP TÁC LAO ĐỘNG

Ngành:

Luật Hiến phápvà Luật Hành chính

Mã số:

9.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1: PGS.TS ĐINH NGỌC VƯỢNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 2: PGS.TS. LÊ MAI THANH

Hà Nội, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, dẫn chứng sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc
rõ ràng, đã cơng bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án
do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với


thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Hương Lan

2


LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn thày giáo, cô giáo hướng dẫn, các thày cô giáo trong
Khoa Luật, Học viện Khoa học xã hội đã tạo những điều kiện tốt nhất để tác giả
thực hiện luận án này. Đặc biệt, Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn chân thành
nhất đến các chuyên gia, các cơ quan mà tác giả có điều kiện gặp gỡ, trao đổi
trong các lĩnh vực liên quan, đã đóng góp những thơng tin vơ cùng quý báu và
những ý kiến xác đáng, để tác giả có thể hồn thành nghiên cứu này.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Hương Lan

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 7
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ......................................... 10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .......................................... 10
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận án .......................... 11

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .................................................... 14
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ................................................... 15
7. Kết cấu của luận án................................................................................... 16
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN VÀ CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ĐẶT RA .............. 17
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án .......................... 17
1.2. Những vấn đề đã nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề đặt
ra đối với luận án .......................................................................................... 29
1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thiết nghiên cứu ............................................... 31
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ CÔNG DÂN
VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ VỀ HỢP TÁC LAO ĐỘNG .................................................... 33
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu bảo hộ công dân đi làm việc ở nước
ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động .................................... 33
1.2. Điều kiện và các biện pháp bảo hộ công dân đi làm việc ở nước ngoài
theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động .............................................. 46
1.3. Nội dung bảo hộ công dân đi làm viêc ở nước ngoài theo các điều ước
quốc tế về hợp tác lao động .......................................................................... 52
1.4. Cơ sở pháp lý và cơ quan có thẩm quyền bảo hộ cơng dân đi làm việc ở
nước ngồi theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động ........................... 55
Chương 3. THỰC TRẠNG BẢO HỘ CÔNG DÂN VIỆT NAM ĐI LÀM
VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HỢP
TÁC LAO ĐỘNG ....................................................................................... 63

4


3.1. Thực tiễn đưa công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các điều
ước quốc tế về hợp tác lao động và nhu cầu bảo hộ ..................................... 63
3.2. Thực trạng pháp luật về bảo hộ công dân Việt Nam đi làm việc ở nước

ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động .................................... 70
3.3. Thực tiễn bảo hộ công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các
điều ước quốc tế về hợp tác lao động ............................................................ 84
3.4. Đánh giá chung .................................................................................... 110
Chương 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
HỘ CÔNG DÂN VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO
CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HỢP TÁC LAO ĐỘNG .................... 123
4.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả bảo hộ cơng dân Việt Nam đi làm việc ở
nước ngồi theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động ......................... 123
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo hộ cơng dân Việt Nam đi làm việc ở
nước ngồi theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động ......................... 128
KẾT LUẬN ............................................................................................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 151
PHỤ LỤC.................................................................................................. 160
DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ ......................................... 170

5


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHCD

Bảo hộ công dân

BHLS

Bảo hộ lãnh sự

BHNG


Bảo hộ ngoại giao

Bộ LĐTB&XH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
ĐUQTVHTLĐ

Điều ước quốc tế về hợp tác lao động

HRBA

Human Rights–Based Approach (Tiếp cận dựa trên quyền)

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

IOM

Tổ chức Di dân quốc tế

UBVNVNONN Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài
UNHCR

Cao ủy Liên Hợp quốc về người tị nạn

UNWOMEN

Quỹ phát triển phụ nữ Liên hiệp quốc

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

XKLĐ

Xuất khẩu lao động

6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hộ cơng dân (BHCD) nói chung và BHCD đi làm việc ở nước ngoài
theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động (ĐƯQTVHTLĐ) nói riêng là
nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi Nhà nước đối với công dân của quốc gia mình.
Cơng dân có quyền được Nhà nước bảo hộ khi cư trú trên lãnh thổ nước mình
cũng như khi họ cư trú ở nước ngoài. Đây là một trong những quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của cơng dân. Cơ sở pháp lý BHCD đi làm việc ở nước
ngoài là pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế quy định về vấn đề này.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, bên cạnh việc ghi nhận
rõ hơn, cụ thể hơn về quyền con người, quyền công dân: “Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật”[3; Khoản 1 Điều 14], còn trực tiếp khẳng định: “cơng
dân Việt Nam ở nước ngồi được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bảo hộ” [3; Khoản 3 Điều 17].
Ở nước ta, qua 35 năm Đổi mới, cùng với chính sách mở cửa tích cực và
chủ động, việc di cư ra nước ngồi lao động của cơng dân Việt Nam tăng lên
nhanh chóng. Theo số liệu tổng hợp từ các doanh nghiệp, giai đoạn 2010 - 2017,
cả nước đã có 821.862 người lao động đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng,

trong đó có 527.930 lao động nam, chiếm 64,2% và 293.932 lao động nữ, chiếm
35,8%. Số lao động nữ tham gia đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ngày
càng tăng, năm 2017 lên tới 39,58% [98; tr.3]. Công dân Việt Nam đi làm việc ở
nước ngồi đã góp phần tích cực cho cơng cuộc phát triển kinh tế của chính gia
đình họ và đất nước. Hàng năm, nguồn kiều hối gửi về trong nước đều gia tăng.
Riêng năm 2020, theo Ngân hàng Thế giới, kiều hối về Việt Nam đạt 15,686 tỉ
USD, tương đương 5,8% GDP. Việt Nam là một trong 10 quốc gia có lượng kiều
hối cao nhất trên thế giới[118]. Ngồi việc nâng cao thu nhập cho bản thân và gia
đình, người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao tay nghề, tự tích lũy
được kinh nghiệm làm việc, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ
7


ngoại ngữ, thái độ và quan điểm về bình đẳng giới. “Đáng quan tâm hơn là có tới
90% người lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về đã có thái độ quan tâm hơn
tới việc bảo tồn văn hóa và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam” [22].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công dân Việt Nam đi làm việc tại nước
ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ vẫn phải đối mặt với những rủi ro như: sự bất ổn
về tình hình chính trị, thiên tai, dịch bệnh... ở các nước sở tại; làm việc trong
môi trường độc hại, nguy hiểm, có trường hợp bị đánh đập, bóc lột sức lao động
hoặc lạm dụng...; bị trả lương không tương xứng, bị phân biệt đối xử về lương
so với người lao động ở nước sở tại, có nhiều vấn đề pháp lý phát sinh cần có sự
bảo hộ từ Nhà nước. Bên cạnh đó, sự khác biệt về trình độ văn hóa, hạn chế về
ngơn ngữ, kỹ năng nghề chưa được đào tạo bài bản, chưa nắm chắc luật pháp,
phong tục của nước sở tại… là những rào cản khiến lao động Việt Nam cần
được nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của họ ở nước ngồi. Cơng
dân Việt Nam ở bất cứ đâu cũng có nhu cầu được Nhà nước bảo hộ nhưng đối
với công dân Việt Nam ở nước ngồi – nhóm yếu thế so với cơng dân nước sở
tại thì nhu cầu này ngày càng gia tăng. Việc bảo hộ kịp thời từ phía nhà nước sẽ
giúp cho người Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi n tâm làm việc cũng như

có những đóng góp cho q hương.
Trong những năm qua, cơng tác BHCD luôn được Đảng và Nhà nước ta
chú trọng, quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng. Chỉ tính
riêng năm 2017, các cơ quan đại diện đã bảo hộ cho 8.024 cơng dân Việt Nam ở
nước ngồi (tăng 26% so với 2016) [37]. Bên cạnh đó, tại nhiều nước trên thế
giới như Mexico, Zimbabwe, Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ, Ai Cập, Qatar, Trung
Quốc, Nhật Bản... cũng xảy ra nhiều tình huống khủng hoảng (động đất, khủng
bố, hỏa hoạn tai nạn, sóng thần quy mơ lớn,...) có số người thương vong lớn
được Bộ Ngoại giao nhiều lần chỉ đạo các cơ quan đại diện có liên quan triển
khai các biện pháp ứng phó khủng hoảng, thực hiện cơng tác tìm kiếm, hỗ trợ
cơng dân Việt Nam bị ảnh hưởng. Năm 2018, Việt Nam đã thực hiện các biện
pháp bảo hộ đối với 10.378 cơng dân gặp khó khăn hoạn nạn ở nước ngoài, tăng
2.354 trường hợp (tương đương 22%) so với năm trước[38].
8


Mặc dù đạt được những kết quả rất đáng khích lệ như vậy nhưng thời gian
qua, công tác BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi nói riêng cũng cịn gặp
nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Một trong những rào cản đó là nhân lực và
kinh phí cho cơng tác bảo hộ cơng dân. Trên thế giới có hơn 200 quốc gia, vùng
lãnh thổ, nhưng chỉ có 96 Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện
công tác lãnh sự và bảo hộ công dân [105]. Nhiều cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài kiêm nhiệm một số nước, trong khi mỗi cơ quan chỉ có 5-7 cán bộ,
mỗi cán bộ phải thực hiện nhiều chức năng khác (chính trị, đối ngoại, kinh tế,
thương mại, báo chí, tun truyền…). Do đó, những vụ việc xảy ra ở nước kiêm
nhiệm hoặc các địa phương xa xôi, cách trụ sở cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngồi hàng ngàn kilomet, đi lại khó khăn, gây cản trở lớn cho cơng tác bảo
hộ cơng dân.
Về kinh phí, Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài
đã được thành lập và hoạt động hiệu quả, nhưng mới chỉ là nguồn hỗ trợ theo

nguyên tắc tạm ứng trước cho cơng dân gặp khó khăn, hoạn nạn để giải quyết
các sự cố, cơng dân có nghĩa vụ hồn trả lại chi phí Quỹ đã tạm ứng, các khoản
hỗ trợ khơng hồn lại từ Quỹ thường áp dụng cho những trường hợp bảo hộ thực
sự đặc biệt, chi phí thấp. Nhiều trường hợp, các cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngồi rất khó khăn trong việc thu xếp tìm nơi ở, lo ăn uống, chữa bệnh,
mua thuốc men, quần áo, xử lý hậu sự cho công dân ta ở nước ngoài. Việc thu
xếp hỗ trợ pháp lý cho công dân ta trong các vụ án ở nước ngồi cũng gặp nhiều
khó khăn do nguồn kinh phí hạn hẹp, cơ chế phối hợp với nước sở tại chưa thực
sự nhịp nhàng, gắn kết….Thực tế này đã và đang đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu
quả công tác BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các
ĐƯQTVHTLĐ trong bối cảnh mới hiện nay.
Xuất phát từ các lý do trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn nội dung: “Bảo hộ
công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp
tác lao động” để làm đề tài luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính.

9


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu về cơ sở lý luận, cơ sở
pháp lý (pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam) về BHCD Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ; làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về
BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ. Từ đó,
cung cấp luận chứng, luận cứ cho việc đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các
ĐƯQTVHTLĐ trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án có nhiệm vụ sau:

- Nhận diện, làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về BHCD Việt
Nam đi làm việc nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ;
- Đánh giá thực trạng BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các
ĐƯQTVHTLĐ trong những năm qua. Phân tích rõ những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả BHCD Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ trong bối cảnh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các học thuyết, lý luận cơ bản và pháp
luật về BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ;
thực trạng thực hiện các quy định pháp luật và thực tiễn BHCD Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ. Ngoài ra, luận án cũng nghiên cứu
kinh nghiệm nước ngoài về BHCD trong tình trạng khủng hoảng, từ đó, đúc rút
kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đặt vấn đề bảo hộ đối với mọi cơng dân
Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của
luận án, nghiên cứu sinh chỉ nghiên cứu về vấn đề BHCD Việt Nam đi làm việc
10


ở nước ngồi theo các ĐƯQTVHTLĐ. Các đối tượng cơng dân xuất cảnh trái
phép, khơng có hợp đồng lao động, các chun gia hoặc người lao động khơng
có quốc tịch Việt Nam không được xem xét trong luận án này.
Bảo hộ công dân là một vấn đề rất rộng. Luận án giới hạn nội dung nghiên
cứu cơ chế bảo hộ về mặt pháp lý đối với công dân Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ.
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng bảo hộ

người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài từ năm 1992 đến nay. Đây là thời
điểm đất nước ta đẩy mạnh công cuộc Đổi mới, mở cửa, thúc đẩy xuất khẩu lao
động đi làm việc ở nước ngoài và gia tăng nhu cầu BHCD ở ngoài nước.
- Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn BHCD tại các
nước/vùnglãnh thổ có nhiều cơng dân Việt Nam làm việc và ngoài vùng tài phán
của Việt Nam.
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý thuyết
- Lý thuyết về chủ quyền nhân dân.
Chủ quyền nhân dân là nguyên tắc khẳng định rằng tính hợp pháp (tính
chính danh) của Nhà nước phải được xác lập và duy trì dựa vào ý chí hoặc sự
đồng thuận của Nhân dân. Nói cách khác, chủ quyền nhân dân địi hỏi muốn
cầm quyền thì phải được Nhân dân lựa chọn; muốn tiếp tục cầm quyền thì phải
được Nhân dân ủng hộ. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực
nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ Nhân dân, do Nhân dân
uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của Nhân dân.
Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của
Nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các “ông quan cách
mạng” mà là “công bộc” của Nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính Nhân
dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân chủ.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[ 76; tr.515]; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
11


là nhân dân là chủ” [77; tr.499]. Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì
dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu Hiến định ngay trong bản Hiến
pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây

dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến
pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các
bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013. Hiến pháp năm 2013 đã đánh
dấu bước phát triển mới khi thể hiện rõ quan điểm, nguyên tắc tôn trọng, bảo
đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân:“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật” [3; Điều 14]. Theo lý thuyết về chủ quyền nhân dân, luận án đặt
giả thiết mọi công dân đều được Nhà nước ta bảo hộ. Việc bảo hộ này dựa trên
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về vấn đề này. Từ đó, luận án triển khai
các nội dung nghiên cứu về cơ sở pháp lý thực hiện BHCD và bảo hộ người Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ tại chương 2, chương 3,
chương 4 trên cơ sở lý thuyết về chủ quyền nhân dân
- Lý thuyết quản trị nhà nước hiện đại.
Hiện nay, việc thay đổi khái niệm từ “quản lý nhà nước” sang “quản trị
nhà nước” không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về thuật ngữ mà còn hàm chứa
những bước tiến về tư duy trong lý thuyết quản lý công. Nếu “quản lý nhà nước”
được hiểu là sự quản lý của nhà nước đối với xã hội mà trong đó nhà nước đóng
vai trị chủ thể quản lý, thì với thuật ngữ “quản trị nhà nước”, nhà nước xuất
hiện với hai tư cách trong hoạt động quản trị: Nhà nước vừa là chủ thể quản trị
xã hội, vừa là đối tượng được quản trị bởi công dân và các thiết chế xã hội khác.
Vì thế, trách nhiệm giải trình cũng như hệ quả hậu giải trình của nhà nước trước
cơng dân và xã hội là những đặc trưng không thể thiếu của mơ hình quản trị nhà
nước. Mối quan tâm chính của quản trị nhà nước là nhận biết được quyền lực,
xác định quyền lực đó được trao cho ai, như thế nào, tổ chức hoạch định chính
sách và cung cấp dịch vụ công sao cho hiệu quả và bảo đảm sự giám sát, tham
gia của người dân.
12



Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động.
Ngay từ khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ
tồn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại
đến dân, ta phải hết sức tránh”[75; tr.56-57]. Chức năng của Nhà nước là phải
tổ chức tốt đời sống của nhân dân, phục vụ nhân dân. Đây là sứ mệnh hiển nhiên
của Nhà nước nhằm thỏa mãn nhu cầu chính đáng của cơng dân. Nhà nước phải
thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình vì Nhân dân; đồng thời tạo lập đầy đủ
khuôn khổ để công dân tự do sáng tạo thỏa mãn nhu cầu, làm những gì pháp luật
khơng cấm. Theo đó, “cơng dân Việt Nam ở nước ngồi được Nhà nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”[3; Khoản 3 Điều 17]. Trong bối cảnh
hiện nay, nhu cầu xây dựng xã hội công dân, lý thuyết quản trị nhà nước hiện
đại đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp các dịch vụ cơng vì lợi ích của Nhân dân,
tăng cường sự tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Trên cơ sở lý thuyết này, nghiên cứu sinh luận giải và phân tích về thiết chế
BHCD đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ trên thực tế tại chương
2 và chương 3 của luận án.
- Lý thuyết về tiếp cận dựa trên quyền
Quyền con người là khát vọng và thành quả của quá trình phát triển nhận
thức lâu dài trong lịch sử nhân loại, là một giá trị mà mọi dân tộc văn minh đều
coi trọng. Tiếp cận dựa trên quyền con người (Tiếng Anh là: Human rightsbased approach – HRBA) xem mục đích cuối cùng của sự phát triển là mọi
người được hưởng thụ đầy đủ các quyền con người. Không chỉ quan tâm mục
tiêu của phát triển, tiếp cận dựa trên quyền con người, quyền công dân còn chú
trọng cách thức, phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu vì quyền con
người, quyền cơng dân. Mục tiêu sâu xa mà cách tiếp cận này hướng tới là hỗ
trợ người dân tham gia tích cực vào q trình hoạch định và thực thi các chính
sách pháp luật, phát triển của quốc gia, chứ không chỉ là người hưởng lợi thụ
13



động từ các chính sách phát triển của nhà nước. Trên cơ sở cách tiếp cận này,
luận án phân tích và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao ý thức tự bảo vệ của
công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi theo các ĐƯQTVHTLĐ, khơng
chỉ hồn tồn phụ thuộc vào Nhà nước tại chương 4.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận
án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của
Đảng và nhà nước ta về công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ, quyền con
người, quyền cơng dân nói chung; về BHCD đi làm việc ở nước ngồi theo các
BHCD nói riêng.
Để phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của luận án,
nghiên cứu sinh sử dụng hợp lý và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích; phương pháp tổng
hợp; phương pháp so sánh; phương pháp hệ thống; Phương pháp thống kê. Đối
với từng nội dung cụ thể của luận án, nghiên cứu sinh áp dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như sau:
(1) Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tài liệu thứ cấp; phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành luật
học được sử dụng để làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về BHCD, BHCD đi làm
việc ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động;
(2) Phương pháp nghiên cứu luật so sánh được áp dụng trong nội dung
nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng bảo hộ cơng dân Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài và kinh nghiệm pháp luật nước ngồi về bảo hộ cơng dân đi làm
việc nước ngồi theo các BHCD, từ đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp
pháp lý phù hợp trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là cơng trình chun khảo, nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ

thống về vấn đề BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các
ĐƯQTVHTLĐ. Nội dung của luận án là những đánh giá, phân tích và đề xuất
14


có ý nghĩa thực tiễn, mang tính ứng dụng cao, góp phần hồn thiện và nâng cao
hiệu quả BHCD đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ. Một số đóng
góp mới của luận án là:
- Luận án giải quyết thỏa đáng những vấn đề lý luận cơ bản về BHCD,
BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ như: Làm
rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, điều kiện BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ. Phân tích, làm rõ nội dung BHCD, cơ sở pháp lý
và các cơ quan có thẩm quyền BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
các ĐƯQTVHTLĐ.
- Luận án đã làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ, rút ra
những đánh giá về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này.
- Luận án đã đề xuất được một số quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục nâng
cao hiệu quả BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các
ĐƯQTVHTLĐ trong bối cảnh hiện nay, trong đó, các giải pháp về mặt pháp
luật, các giải pháp tổ chức thi hành pháp luật và giải pháp tăng cường các yếu tố
bảo đảm mang tính khả thi cao.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, luận án đã phân tích và luận giải đầy đủ, khoa học về nội
dung BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ. Làm
rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vấn đề này thông qua
các biện pháp BHCD như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân; hỗ trợ
cơng dân trong tình trạng khó khăn, khủng hoảng. Từ đó, luận án đề xuất một số
quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ mang tính ứng dụng cao.

Về mặc thực tiễn, luận án là cơng trình chun khảo về vấn đề BHCD Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ, nghiên cứu một cách
tồn diện và có hệ thống về các quy định pháp luật BHCD Việt Nam đi làm việc
ở nước ngồi. Nội dung của luận án cung cấp thêm thơng tin tham khảo cho các
cơ quan xây dựng pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình tổng kết,
15


đánh giá và đề ra các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ hiện nay.
Bên cạnh đó, luận án cũng là tài liệu tham khảo cho các Viện nghiên cứu, trường
đại học, Học viện khi nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, kết
cấu của luận án gồm các chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và các
câu hỏi nghiên cứu đặt ra
Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo hộ công dân Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động
Chương 3: Thực trạng bảo hộ cơng dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi
theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động
Chương 4: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả bảo hộ cơng dân Việt
Nam đi làm việc ở nước ngồi theo các điều ước quốc tế về hợp tác lao động

16


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
VÀ CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ĐẶT RA


1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hộ công
dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi
a) Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi về lý luận bảo hộ công dân
Việc BHCD ở nước ngồi dựa vào pháp luật quốc gia mà cơng dân mang
quốc tịch, căn cứ pháp luật quốc tế và cần bảo đảm tính phù hợp với pháp luật
nước sở tại; do đó, quan điểm, học thuyết của các tác giả nước ngồi về vấn đề
này sẽ thể hiện góc nhìn khoa học đối với căn cứ pháp lý BHCD từ học thuyết
BHCD của các nước khác nhau. Vậy nên trước hết, cần đánh giá kết quả nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài về cơ sở lý luận BHCD ở nước ngồi và nhìn
nhận nó trong mối quan hệ giữa Nhà nước và cơng dân nói chung cũng như
trách nhiệm BHCD từ phía Nhà nước. Cụ thể như sau:
Xuất phát từ nguồn gốc, vai trò của Nhà nước, tác giả Edwin M. Borchard
trong bài viết “Basic Elements of Diplomatic Protection of Citizens Abroad”
(tạm dịch: Các thành tố cơ bản bảo hộ ngoại giao đối với cơng dân ở nước
ngồi), đăng trên Tạp chí The American Journal of International Law, Vol. 7,
No. 3 (7/1913) đã chỉ rõ mối liên hệ gắn bó và trách nhiệm qua lại giữa Nhà
nước và cơng dân nước mình trong cơng tác bảo hộ cơng dân ở nước ngồi. Nhà
nước có trách nhiệm bảo hộ cơng dân của nước đó khi đang ở nước ngồi.
Ngược lại, bản thân từng cơng dân cũng có nghĩa vụ tn thủ luật pháp quốc tế
và sở tại cũng như luật pháp của quốc gia mà họ mang quốc tịch [28].
“Diplomatic Protection of Citizens Abroad” (Bảo hộ ngoại giao đối với
công dân ở nước ngồi) cơng bố năm 1916 tại New York, Nhà xuất bản The
Banks Law Publishing Co... nghiên cứu 3 góc độ: Quan hệ giữa quốc gia và
cơng dân của họ; giữa quốc gia và người nước ngoài sống trong lãnh thổ của họ;
quan hệ giữa các quốc gia liên quan và trách nhiệm của họ đối với người nước
17



ngoài; “Protection of Citizens Abroad and Change of Original Nationality” (Bảo
hộ cơng dân ở nước ngồi và sự thay đổi quốc tịch gốc) đăng trên Tạp chí Yale
Law Journal 1/1934, No.4 trong đó xác định BHCD căn cứ vào pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia liên quan và chỉ rõ ảnh hưởng và sự khác biệt giữa dân
luật và thơng luật trong BHCD ở nước ngồi.
Bài nghiên cứu của tác giả Don P. Clack (1980) với tiêu đề “The
Protection of Unskilled Labor in the United States manufacturing industries:
further evidence” nêu rõ trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước đối với những người
lao động phổ thông tại Hoa Kỳ [49].
Bài viết “The Legal Protection of Chinese Citizens” Equal Employment
Rights – A Perspective of International Law & Comparative Law” của tác giả
Zhou Hui đã đưa ra quan điểm bảo vệ quyền lao động bình đẳng của cơng dân
Trung Quốc dưới góc độ quyền con người theo pháp luật quốc tế. Các quốc gia
khác khơng nên có sự phân biệt đối xử khi tuyển dụng lao động Trung Quốc vào
làm việc [101].
Tại Châu Âu, ấn phẩm “Protection of EU citizens abroad: A legal
assessment of the EU citizen’s right to consular and diplomatic protection” (Bảo
hộ cơng dân EU ở nước ngồi: Tiếp cận pháp lý của quyền công dân EU đối với
bảo hộ ngoại giao và bảo hộ lãnh sự) của Madalina Bianca Moraru do
Perspectives on Federalism xuất bản Vol. 3, issue 2, 2011 (Creative Commons
2.5 Italy giữ bản quyền) đề cập đến lý do bảo hộ khi công dân của họ bị phân
biệt đối xử ở nước thứ ba.
Bài viết “Nationality and Diplomatic Protection” của Guy I.F. Leigh
(1971) khẳng định trách nhiệm bảo hộ của các quốc gia đối với công dân mang
quốc tịch nước mình ở các nước khác trên thế giới. Đây là nguyên tắc của luật
pháp quốc tế [53; tr.453-470]. Bài viết “The Diplomatic Protection of Nationals
Abroad: An Elementary Principle of International Law Under Attack” (Bảo hộ
ngoại giao cơng dân ở nước ngồi: Ngun tắc cơ bản của luật quốc tế do xung
đột) đăng ở Tạp chí American Journal of International Law số 69 (1975) chỉ
trích khuynh hướng của các quốc gia gắn sự BHCD với việc xem xét chính trị.

18


Bài viết “The Protection of Aliens from Discrimination: Responsibility of
States Conjoined with Human Rights” (Bảo hộ người nước ngoài khỏi bị phân
biệt đối xử: Trách nhiệm của quốc gia gắn với nhân quyền) của tác giả
McDougal, Myres S., Harold Laswell, and Lungchu Chen đăng trên Tạp chí
American Journal of International Law 70 (1976), một bài viết chỉ trích khác về
sự phụ thuộc giữa nhân quyền và chính trị [84; tr.11].
b) Tình hình nghiên cứu ở trong nước về lý luận bảo hộ cơng dân
Ở trong nước, một

số cơng trình nghiên cứu của Bộ Ngoại giao qua các thời kỳ

đã phân tích lý luận xung quanh khái niệm BCHD ở nước ngoài, so sánh với các
khái niệm gần gũi là bảo hộ ngoại giao, bảo hộ lãnh sự cũng như đưa ra một số
căn cứ BHCD cùng với các thiết chế tương ứng chịu trách nhiệm BHCD Việt
Nam ở nước ngoài như Bộ Ngoại giao, Cục lãnh sự, Ủy ban người Việt ở nước
ngoài, các Bộ ban ngành liên quan khác. Trong số các cơng trình này phải kể
đến: Cuốn “Sổ tay Cơng tác lãnh sự ở ngồi nước” do Cục Lãnh sự (2013) biên
soạn. Theo đó, cuốn sách đã bước đầu tiếp cận về khái niệm BHCD, khẳng định
việc nhà nước thực hiện mọi biện pháp phù hợp với pháp luật của mình, pháp
luật của nước tiếp nhận, pháp luật và thực tiễn quốc tế để hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, pháp nhân mang quốc tịch nước họ ở
nước ngoài khi các quyền và lợi ích bị xâm hại được gọi là bảo hộ công dân theo
nghĩa hẹp [28]. Tuy nhiên, theo luật quốc tế hiện đại, bảo hộ công dân cịn được
hiểu theo nghĩa rộng, khơng chỉ là việc quốc gia can thiệp để bảo vệ các quyền
và lợi ích của cơng dân khi quyền và lợi ích bị xâm hại mà còn bao gồm cả các
hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà quốc gia dành cho công dân nước mình ở
nước ngồi, kể cả trong trường hợp khơng có hành vi xâm hại tới cơng dân của

nước mình [106][55]. Tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng (2006) đã nêu trong luận
án tiến sỹ của mình với tiêu đề “Pháp luật lao động với vấn đề bảo vệ người lao
động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” quan niệm: bảo vệ người
lao động là phòng ngừa và chống lại mọi sự xâm hại đến việc làm, thu nhập,
danh dự, nhân phẩm, thân thể của người lao động từ phía người sử dụng lao
động [78]. Khái niệm này dường như cũng phù hợp để áp dụng cho việc bảo vệ
người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, khái niệm này gần giống với
19


khái niệm bảo hộ công dân theo nghĩa hẹp nêu ở trên và sẽ không đầy đủ nếu
quyền lợi của công dân, của người lao động không được bảo vệ khi khơng có sự
xâm hại, hoặc trong tình trạng khẩn cấp như thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh v.v.
Về điều kiện BHCD Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu đã đề
cập như:
Tác giả Nguyễn Phú Bình và nhóm tác giả (1998) đã chỉ ra trong đề tài
nghiên cứu khoa học “Bảo hộ quyền lợi của công dân Việt Nam ở nước ngoài”
rằng: việc nghiên cứu các điều kiện để bảo hộ công dân là rất quan trọng và
quốc tịch là một điều kiện tiên quyết để một quốc gia tiến hành bảo hộ cơng
dân mình. Ngồi ra cịn có một số điều kiện khác đối với quốc gia tiến hành
bảo hộ như điều kiện về “có hành vi vi phạm” và “sử dụng hết các biện pháp ở
nước sở tại” [25].
Ngồi ra, cịn có một số bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim
Ngân, “Bảo hộ công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngồi”, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2018 cũng như của một số tác giả
trong khuôn khổ Hội thảo khoa học “Các vấn đề pháp lý và thực tiễn về bảo hộ
công dân trong bối cảnh quốc tế hiện nay”, Đại học Luật Hà Nội, năm 2016
(như tác giả Đỗ Quý Hoàng, "Hoàn thiện cơ sở pháp lý của hoạt động bảo hộ
cơng dân Việt Nam ở nước ngồi "; tác giả Mạc Thị Hoài Thương và Trần Thị
Thu Thủy “Thẩm quyền và biện pháp bảo hộ công dân theo quy định của pháp

luật quốctế và pháp luật Việt Nam” ...). Bài của tác giả Nguyễn Công Khanh
(1997), "Cơ sở pháp luật bảo hộ quyền lợi của công dân Việt Nam ở nước
ngồi" đăng trên Tạp chí Luật học (số 5/1997).
Về nội dung, phương thức BHCD, đã có một số cơng trình nghiên cứu đề
cập đến như: Tác giả Nguyễn Phú Bình (1998) cho rằng, một quốc gia có thể
thực hiện nhiều biện pháp bảo hộ, bao gồm tất cả các hoạt động mà Nhà nước
thực hiện để giúp đỡ và quản lý cơng dân mình. Nó có thể là các hoạt động đơn
giản nhất, được tiến hành ngay khi cơng dân chưa xuất cảnh khỏi biên giới nước
mình như việc cấp hộ chiếu hay trang bị những thông tin về một nước mà họ sắp
tới, cho đến những hoạt động phức tạp hơn như đưa vụ việc ra tòa án quốc tế
hay sử dụng vũ lực để bảo hộ công dân [25].
20


Các nghiên cứu của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) nhấn mạnh bốn mục
tiêu bảo vệ người lao động bao gồm: các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm
việc; tạo cơ hội lớn cho mọi người nhằm đảm bảo việc làm và thu nhập tốt; tăng
phạm vi và hiệu lực của bảo trợ xã hội; và tăng quan hệ ba bên và đối thoại xã
hội [102].
Tác giả Phan Thanh Hà (2016) đưa ra hai phương thức bảo hộ quyền công
dân gồm phương thức bảo hộ sơ cấp (nguyên phát) và phương thức bảo hộ thứ
cấp (thứ phát). Theo đó, ở cấp độ nguyên phát, việc bảo hộ được thông qua các
cơ chế bảo đảm, bảo vệ, thông qua các trình tự, thủ tục pháp lý thơng thường. Ở
cấp độ thứ phát, yêu cầu bảo hộ đặt ra khi các trình tự thủ tục pháp lý bình
thường khơng thể giải quyết được hoặc trong các trường hợp vượt ngồi phạm
vi tài phán của nhà nước với các trình tự, thủ tục pháp lý đặc thù [55]. Hai
phương thức này được tác giả Phan Thanh Hà phân tích chủ yếu trong luận án
nhằm làm sáng tỏ cơ chế pháp lý để BHCD Việt Nam ở trong nước và dường
như chưa đầy đủ và triệt để để áp dụng cho cơ chế BHCD Việt Nam ở nước
ngồi, trong đó có người lao động.

Cũng theo tác giả Phan Thanh Hà, việc BHCD Việt Nam ở trong nước
chủ yếu được hình thành thông qua các quy định về việc bảo hộ từng nội dung
cụ thể đối với công dân, như quyền sở hữu (về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất); quyền thừa kế (của cá nhân,
nhóm cá nhân); hay các quyền cá nhân (về sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm của công dân v.v). Mặc dù các quy định liên quan đến BHCD Việt Nam ở
trong nước đã hình thành từ rất lâu, tuy nhiên, còn mang nặng tư duy mệnh lệnh
– hành chính, bao cấp, chủ quan, duy ý chí và chủ yếu là nhà nước thực hiện tối
cao để bảo hộ công dân trên cơ sở lý thuyết về bảo vệ quyền con người [56].
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngồi kể trên
đã bước đầu đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản về BHCD như: nhu cầu
bảo hộ công dân; khái niệm, điều kiện, phương thức BHCD. Tuy nhiên, do mục
đích, cách thức tiếp cận khác nhau mà các cơng trình trên chưa đi sâu, làm rõ đối
tượng công dân cần được bảo hộ (như lao động, học tập, du lịch; hoặc nhóm đối
21


tượng cơng dân ở trong nước và ở nước ngồi); một số nội dung, biện pháp bảo
hộ cịn mang tính khái quát, chung cho mọi đối tượng, chưa chỉ ra được đặc thù
BHCD Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các ĐƯQTVHTLĐ.
Một số nghiên cứu đề cập quyền được bảo hộ của công dân ở trong nước
trên cơ sở quyền con người và nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm phải BHCD
của quốc gia mình. Tuy nhiên, thực tế BHCD ở nước ngồi cịn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như luật pháp quốc tế, luật pháp sở tại, hợp tác của quốc gia
có lao động là cơng dân và nước tiếp nhận lao động v.v… Các yếu tố này sẽ chi
phối công tác bảo hộ từng đối tượng công dân cụ thể, mà không chỉ phụ thuộc
vào pháp luật quy định của một quốc gia đơn lẻ nào. Hơn nữa, đối tượng người
lao động là công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một trong các đối
tượng dễ bị tổn thương nên cần có những biện pháp đặc thù để bảo hộ, mà các
nghiên cứu kể trên chưa đề cập.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thực trạng bảo hộ công dân Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài
Hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra dòng dịch chuyển lao động hai chiều:
từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam. Trong những năm
đầu của thời kỳ Đổi mới, với chính sách mở cửa, thúc đẩy hội nhập, nước ta đã
đưa một số lượng lớn người Việt Nam ra nước ngồi làm việc. Do đó, vấn đề
bảo hộ cơng dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã trở thành đề tài của
nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước. Có thể kể đến một số cơng
trình như sau:
Tác giả Nguyễn Lương Trào (1994) với đề tài luận án Phó tiến sĩ:“Mở
rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài”. Với đối tượng nghiên cứu là hoạt động đưa lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngồi tiếp cận dưới góc độ của khoa học chun ngành Kinh tế
lao động, tác giả đã làm sáng tỏ tính tất yếu và cấp bách của việc đưa lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là một mắt xích trong chiến lược tổng
thể giải quyết việc làm cho lao động xã hội ở nước ta trong giai đoạn đầu chuyển
sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế [87].
22


Tác giả Nguyễn Thị Phương Linh (2004) với đề tài luận án tiến sĩ: “Một số
giải pháp đổi mới quản lý tài chính về xuất khẩu lao động Việt Nam theo cơ chế
thị trường”. Thông qua luận án, tác giả đã tập trung làm rõ ba vấn đề lớn như
sau: (i) Phân tích cơ sở khoa học về hoạt động xuất khẩu lao động và quản lý tài
chính vĩ mơ đối với xuất khẩu lao động; nghiên cứu kinh nghiệm quản lý hoạt
động xuất khẩu lao động và chính sách quản lý tài chính vĩ mơ về xuất khẩu lao
động của các nước Châu Á, từ đó, có thể vận dụng vào điều kiện Việt Nam; (ii)
Phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động xuất khẩu lao động và quản lý tài chính
vĩ mơ về xuất khẩu lao động của Việt Nam, chỉ rõ những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân; (iii) Đề xuất một số quan điểm, chính sách và các kiến nghị nhằm

đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động và quản lý tài chính xuất khẩu lao động
có hiệu quả ở nước ta [68].
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Bích (2007) và các cộng sự Viện Khoa học xã
hội vùng Nam Bộ với cuốn sách: “Xuất khẩu lao động của một số nước Đông
Nam Á – Kinh nghiệm và bài học”. Về mặt lý luận, cuốn sách đã đề cập khái
niệm cung về thị trường lao động quốc tế, nguyên nhân, tính chất, đặc điểm và
xu hướng xuất khẩu lao động hiện nay. Về mặt thực tiễn, cuốn sách đã phân tích
q trình hình thành chính sách xuất khẩu lao động; hệ thống tuyển dụng, công
tác đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực, vai trò của Nhà nước và số liệu lao động
xuất khẩu sang một số thị trường chính của Philipines, Indonesia, Thái Lan và
Malaysia. Qua đó, tác giả đúc kết kinh nghiệm của các nước, đề xuất một số giải
pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam như: Chính phủ quy định rõ
trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân đưa lao động đi làm việc ở nước
ngồi; Chính phủ chỉ đạo ký hợp đồng lao động với mức lương hợp lý và thực
hiện ký quỹ để chống lao động bỏ trốn [24].
Tác giả Lê Hồng Huyên (2011) với đề tài luận án tiến sĩ kinh tế: “Quản lý
nhà nước về di chuyển lao động Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài”. Với đối
tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước về di chuyển lao động Việt Nam ra nước
ngoài làm việc, tác giả đã phân biệt rõ xuất khẩu lao động và hiện diện thể nhân
để cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ;
23


làm rõ nội dung quản lý nhà nước về di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc.
Từ kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với di chuyển lao động ra nước ngoài
làm việc của một số nước, tác giả đã đề xuất 3 nhóm giải pháp tiếp tục hoàn
thiện quản lý nhà nước về di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngồi làm việc,
bao gồm: (i) nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước ở tầm vĩ mơ; (ii) nhóm
giải pháp hồn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp
và người lao động ra nước ngồi làm việc; (iii) và nhóm giải pháp tăng cường

giám sát và hỗ trợ của các tổ chức xã hội [63].
Luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Phạm Thị Hoàn (2011) với đề tài
“Quản lý nhà nước đối với xuất khẩu lao động của Việt Nam giai đoạn hiện
nay”. Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về xuất khẩu lao động,
tác động của cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với sự phát triển xuất khẩu
lao động của nước ta, trong đó tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với
phát triển thị trường và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp, người lao động
tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động, tác giả đã tổng hợp và phát triển hệ
thống lý luận về xuất khẩu lao động và quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động
ở Việt Nam. Luận án cũng phân tích các nội dung của quản lý nhà nước về xuất
khẩu lao động theo cách tiếp cận nghiên cứu kinh tế thương mại. Từ việc xác
định những nhân tố chủ quan và khách quan từ môi trường trong nước cũng như
quốc tế tác động tới hiệu quả của quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động, thực
trạng của xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời gian 1991-2011, tác giả đã
xây dựng các quan điểm và giải pháp về hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm phát
triển bền vững xuất khẩu lao động trong thời gian tới phù hợp với định hướng
của Đảng và Nhà nước, bối cảnh trong nước và quốc tế. Một số giải pháp được
tác giả nhấn mạnh là: Hoàn thiện thể chế pháp luật về xuất khẩu lao động; hoàn
thiện quản lý nhà nước nhằm phát triển cơ hội và xúc tiến thị trường lao động;
phát triển nguồn lao động xuất khẩu và sử dụng có hiệu quả lao động về nước;
tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động và hoàn
thiện tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động [60].

24


Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam: “Cơ sở pháp lý bảo hộ cơng dân Việt Nam ở nước ngồi” (do tác
giả Lê Mai Thanh làm chủ nhiệm) năm 2020 đã xác định và đánh giá thực
trạng cơ sở pháp lý BHCD Việt Nam ở nước ngoài hiện hành nhằm đưa ra giải

pháp hoàn thiện pháp luật cũng như cơ chế BHCD Việt Nam ở nước ngoài
hiệu quả, đề tài đã cung cấp nhiều thông tin lý luận quan trọng cho luận án.
Trong đó, một số nội dung lý luận được tác giả luận án kế thừa là: (i) nhu cầu
và nội dung BHCD Việt Nam tại nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế
hiện nay; (ii) thực trạng cơ sở pháp lý theo các thành tố: pháp luật trong nước,
pháp luật quốc tế và pháp luật nước sở tại; (iii) Một số giải pháp hoàn thiện cơ
sở pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả BHCD Việt Nam ở nước ngoài.
“Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam
theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (Universal Periodic Review - UPR) chu
kỳ III” năm 2018 được thực hiện bởi Nhóm Cơng tác liên ngành gồm 18 cơ
quan (Bộ Ngoại giao (cơ quan đầu mối), Văn phịng Chính phủ, Bộ Cơng an,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp,
Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ
Xây dựng, Ủy ban Dân tộc, Ban Tơn giáo Chính phủ, Tịa án Nhân dân Tối
cao, Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam). Báo cáo tập trung rà soát việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt
Nam đã chấp thuận tại lần rà soát II và cập nhật những phát triển mới trong
việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Báo cáo cũng chỉ rõ
những thách thức còn tồn tại và các hướng ưu tiên của Chính phủ Việt Nam
trong thời gian tới nhằm bảo đảm sự thụ hưởng tốt hơn các quyền và tự do cơ
bản của mỗi người dân. Đây là nguồn thơng tin tham khảo có giá trị giúp
nghiên cứu sinh có cái nhìn khái qt về hệ thống pháp luật trong việc bảo vệ
quyền con người, trong đó có nội dung về BHCD.

25


×