QUẢNG BÁ DU LỊCH QUA PHIM ẢNH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
TOURISM PROMOTION THROUGH FILMS IN THE CURRENT CONTEXT OF
INTEGRATION
ThS. Nguyễn Thị Thúy Đạt
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế
Tóm tắt
Du lịch hiện nay đang là một trong ngành đóng góp lớn cho sự phát triển của các quốc
gia (Jay, 2000), trong đó có Việt Nam. Việc quảng bá điểm đến du lịch trở thành một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đến với địa phương quốc gia đó bao
gồm các hoạt động như quảng cáo trên truyền hình, tạp chí hay phim ảnh. Du lịch bởi phim ảnh
được định nghĩa như là việc du khách đến thăm một điểm đến mà có xuất hiện trên TV, video hay
màn hình điện ảnh. Bằng việc phân tích các khía cạnh tác động của phim ảnh đến việc quảng bá
du lịch điểm đến, thực trạng của việc quảng bá du lịch Việt Nam qua phim ảnh, bài báo đã đưa
ra một số khuyến nghị đối với cơ quan chính quyền mà trọng tâm là Cục điện ảnh và Bộ văn hóa
thể thao và du lịch trong việc sử dụng phim ảnh để quảng bá du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập hiện nay.
Từ khóa: du lịch bởi phim ảnh, xúc tiến du lịch, xúc tiến điểm đến;
Abstract
Tourism is now a major contributor to the development of countries (Jay, 2000),
including Vietnam. Promoting tourism destinations becomes one of the important tasks in
attracting tourists to the local country, including activities such as advertising on television,
magazines or movies. Traveling because of films is defined as tourists visiting a destination that
has appeared on TV, video or movie screen. By analyzing the impact of aspects of films on
promoting tourism destinations, the status of promoting tourism through films in Vietnam, the
paper proposes a number of recommendations for government agencies, especially
cinematography Bureau and the Ministry of culture, sports and tourism in the use of films to
promote Vietnam's tourism in the current context of integration.
Key words: traveling because of films, tourism promotion, destinations promotions;
Giới thiệu
Du lịch hiện đang là một trong những ngành đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế của
các quốc gia (Jay, 2000). Khơng nằm ngồi xu thế đó, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển,
lượng khách quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày
càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ
u thích của du khách quốc tế. Và cũng vì thế, du lịch đang ngày càng nhận được sự quan tâm
của toàn xã hội.
981
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các điểm đến du lịch, việc quảng bá điểm đến du
lịch trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc thu hút khách du lịch tiềm năng
đến với địa phương hay quốc gia đó. Bên cạnh các hoạt động quảng bá điểm đến quen thuộc như
quảng bá thông qua TV, website, radio, tạp chí du lịch, đại lý du lịch, v.v. thì hoạt động quảng bá
qua phim ảnh cũng ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới và mang lại hiệu quả tích cực cho
nhiều điểm đến.
Bài nghiên cứu này sẽ tóm lược các khái niệm liên quan đến du lịch bởi phim ảnh, hình
ảnh điểm đến; phân tích tác động tích cực và tiêu cực của phim ảnh đến du lịch; phân tích thực
trạng của việc quảng bá du lịch qua phim ảnh của Việt Nam thông qua nhận định của các chuyên
gia trong lĩnh vực điện ảnh và của những người đứng đầu Cục điện ảnh- Bộ văn hóa thể thao và
du lịch và Vụ văn hóa đối ngoại và UNESCO.
Các khái niệm liên quan đến du lịch bởi phim ảnh và hình ảnh điểm đến
Du lịch văn hóa được xem như là một dạng du lịch có tính chất giáo dục khi thơng qua nó
con người có thể học hỏi lối sống, văn hóa của nhau. Thông qua cách này các quốc gia giới thiệu
đến du khách những giá trị văn hóa như lịng hiếu khách, kiến trúc, ẩm thực, âm nhạc, đồ thủ
công mỹ nghệ và các loại hình giải trí khác nhau của dân tộc (Goeldner & Ritchie, 2006). Khi
phim ảnh được xem là một phần của văn hóa nghệ thuật, của các giá trị truyền thống của địa
phương, của nền công nghiệp giải trí thì du lịch bởi phim ảnh được xem như là một mảng của du
lịch văn hóa (McKercher & Cros, 2002). Và lúc đó phim ảnh có thể được xem như là một đại sứ
văn hóa cho một quốc gia hay một địa phương nào đó.
Du lịch bởi phim ảnh được định nghĩa như là việc du khách đến thăm một điểm đến mà
có xuất hiện trên TV, video hay màn hình điện ảnh (Hudson & Ritchie, 2006a). Sự gia tăng mức
độ phổ biến của du lịch bởi phim ảnh là kết quả của việc tăng trưởng du lịch quốc tế và sự phát
triển của ngành cơng nghiệp giải trí (Hudson & Ritchie, 2006b). Do đó, khơng có gì ngạc nhiên
khi du lịch bởi phim ảnh trở thành một trong những mảng du lịch phát triển nhanh khi mà những
người du lịch ngày càng muốn trải nghiệm các điểm đến xuất hiện trong những bộ phim bom tấn
hay các bộ phim kinh điển. Chẳng hạn, theo ông Phạm Sanh Châu - Vụ trưởng Vụ Văn hóa đối
ngoại và UNESCO thì sau khi bộ phim Đông Dương (1992) lấy bối cảnh ở Việt Nam được trình
chiếu và đoạt giải Oscar cho hạng mục phim nói tiếng nước ngồi hay nhất thì số lượng du khách
từ Pháp đến Việt Nam tăng đột biến, cụ thể là đến các địa điểm xuất hiện trong phim như Vịnh
Hạ Long, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Theo Crompton (1979), hình ảnh điểm đến là tổng hợp các ý niệm, niềm tin, ấn tượng và
nhận thức của một người về điểm đến. Hình ảnh điểm đến du lịch là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình ra quyết định lựa chọn đi du lịch (Baloglu, 1997; Chon, 1990; Sonmez và
Sirakaya, 2002; Stinger, 1984; Gartner, 1989; Echtner & Ritchie, 1991). Hình ảnh điểm đến càng
được u thích thì khả năng lựa chọn điểm đến đó càng cao (Chon, 1990). Theo Butler (1990),
khách du lịch thường chọn những điểm đến du lịch dựa vào những gì họ thấy ở trên các phương
tiện nghe nhìn như TV và phim ảnh. Thơng qua phim ảnh những khía cạnh khác nhất định về một
quốc gia như cảnh quan thiên nhiên, văn hóa và con người được truyền tải một cách sinh động và
982
kết quả là nó hình thành nên thái độ của người đó về đất nước đó. Sự yêu mến một quốc gia nào
đó và những hình ảnh tích cực của nó có thể dẫn đến những hành vi viếng thăm đến điếm đến đó
(Iwashita, 2006).
Tác động của phim ảnh đến du lịch
Du lịch nói chung và du lịch bởi phim ảnh nói riêng ln có những ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực đối với một quốc gia hay địa phương nhất định. Xét ở khía cạnh tích cực, khi một bộ
phim được khán giả yêu mến thì địa điểm diễn ra bộ phim cũng sẽ trở thành nơi du khách muốn
đặt chân tới. Và một cách dễ hiểu thì việc tăng số lượng du khách sẽ dẫn đến việc tiêu dùng các
dịch vụ, tăng nguồn thu ngân sách địa phương. Thêm vào đó, việc tham quan các địa điểm liên
quan đến bộ phim sẽ diễn ra thường xuyên hơn trong cả năm, dưới bất kỳ thời tiết nào, vì vậy, nó
sẽ giảm bớt tính thời vụ trong du lịch (Beeton, 2004a). Đặc biệt, du lịch bởi phim ảnh có tính kéo
dài, bền vững khi một bộ phim có thể tiếp tục lôi kéo du khách từ năm này sang năm khác. Mặc
dù thời kỳ đỉnh cao sự ưa thích đối với bộ phim đạt được sau khi bộ phim được trình chiếu thì
lượt khách đến viếng thăm tăng hơn 50% trong ít nhất 5 năm sau đó và hình ảnh đọng lại trong
tâm trí khách hàng vẫn kéo dài trong một thời gian dài (Riley, Baker & Van Doren, 1998). Và
qua bảng 1 chúng ta cũng thấy được sự gia tăng lượt khách đến với các điểm đến nổi tiếng qua
các bộ phim được u thích dù nó đã được trình chiếu cách đó nhiều năm. Do đó, ngay cả khi
điểm đến không mới nhưng nếu địa điểm liên quan đến bộ phim được phát hiện và phát triển thì
nó vẫn thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của du lịch (Grihault, 2003).
983
Bảng 1: Tác động của phim ảnh đến lượng du khách viếng thăm
Bộ phim
Địa điểm
Braveheart
Tác động tăng số lượng du
khách
Tháp Wallace Monument, Tăng 300% một năm sau khi
Scotland
phim được chiếu
Captain Corelli’s Cephalonia Cephalonia, Hy Lạp
Tăng 50%
Field of Dreams
35,000 lượt khách năm 1991
và tăng đều đặn hàng năm
Four Weddings
Funeral
Iowa, Mỹ
and
A Khách
sạn
Amersham, Anh
Crown, Số phịng được đặt kín trong
ít nhất 3 năm
Harry Potter
Nhiều địa điểm khác nhau ở Tăng ít nhất 50%
Anh
Mission: Impossible 2
Công viên
Sydney, Úc
Notting Hill
Kenwood House, Anh
Tăng 10% mỗi tháng
Pride and Prejudice
Công viên Lyme, Anh
Tăng 150%
Sense and Sensibility
Saltram House, Anh
Tăng 39%
The Beach
Thái Lan
Tăng 22% thị trường du
khách trẻ năm 2000
Troy
Canakkale, Thổ Nhĩ Kỳ
Tăng 73%
quốc
gia, Tăng 200% trong năm 2000
Nguồn: Hudson & Ritchie, 2006a
Phim ảnh cũng có tác động kinh tế tế xã hội rộng lớn khi nó góp phần mở rộng thị phần
khách du lịch (Schofield, 1996). Điều này có thể được giải thích đó là khi bộ phim được trình
chiếu và tạo hiệu ứng ưa thích ở các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau thì sẽ dẫn đến số lượng
khán giả xem phim vốn chưa phải là thị trường mục tiêu của điểm đến đến tham quan. Một kết
quả tích cực khác có thể thấy rõ đó là những người du khách này có thể tiếp tục truyền miệng,
quảng bá hình ảnh điểm đến đối với những người thân, bạn bè và những du khách khác ở quốc
gia họ. Và như vậy, thị phần du lịch của điểm đến có liên quan đến bộ phim có thể được mở rộng
hơn.
Thêm vào đó, khi bộ phim tạo ra hiệu ứng tích cực thì sự u mến các diễn viên, thần
tượng trong phim là điều không thể chối cãi. Bất cứ những hoạt động nào liên quan đến diễn viên
trong phim cũng được chú ý theo dõi và vơ hình chung cũng giúp điểm đến được quảng bá một
cách miễn phí. Chẳng hạn, khi bộ phim Kong: Skull Island được quay phim ở Việt Nam, nữ diễn
viên vừa đoạt giải Oscar 2016 Brie Larson đăng các bức ảnh trên trang cá nhân khi mặc chiếc áo
lưu niệm của Phong Nha- Kẽ Bàng cùng với chiếc chồng của người Mơng hay khi ăn phở và
984
bánh mì Việt Nam thì ngay lập tức nhận hàng chục ngàn lượt ưa thích của người hâm mộ. Chính
điều này tạo ra sự biết đến đối với điểm đến Việt Nam cũng như sự tò mò khám phá điểm đến
của người hâm mộ bộ phim cũng như diễn viên.
Một lợi tích to lớn khác mà du lịch bởi phim ảnh mang lại đó chính là nó làm các giá trị
văn hóa của địa điểm bộ phim diễn ra được tăng cường bảo vệ. Quả thực là những địa điểm di
sản sẽ được bảo tồn tốt hơn khi địa điểm quay bộ phim trở nên nổi tiếng sau khi bộ phim được
phát hành bởi vì người ta muốn bảo vệ, lưu giữ những giá trị văn hóa đặc trưng và đặc thù nhất
của địa điểm cũng như những nơi có ý nghĩa đặc biệt xuất hiện trong bộ phim. Và cũng bởi lẽ
người ta sẽ không thể đập bỏ, phá vỡ những yếu tố đang góp phần tạo ra nguồn thu nhập cho
điểm đến. Nếu khơng có bộ phim xuất hiện thì một lâu đài, cung điện hay một ngơi nhà vẫn chỉ
làm một nơi nào đó bình thường (Busby & Klug, 2001).
Tuy nhiên, du lịch bởi phim ảnh cũng mang lại những bất lợi. Khi bộ phim được quay thì
một số cảnh sẽ được áp dụng kỹ xảo để phù hợp với bộ phim điều này sẽ làm cho du khách thấy
sự khác biệt giữa cảnh vật trong phim và ngồi thực tế. Kết quả là có thể dẫn đến sự thất vọng
hoặc khơng hài lịng cho du khách. Chẳng hạn như bộ phim Pan và vùng đất Neverland (2014)
được quay ở hang động ở Việt Nam, tuy nhiên, do các hiệu ứng kỹ xảo đã làm thay đổi những
hình ảnh thực tế nên rất ít khán giả có thể nhận ra được các khung cảnh đó ở Việt Nam, do đó,
khó có thể tạo hiệu ứng du lịch từ bộ phim. Ngoài ra, khi bộ phim được yêu thích thì dẫn theo số
lượng khách lớn đổ xơ đến tham quan địa điểm bộ phim diễn ra, điều này sẽ làm cho năng lực
phục vụ và kiểm soát tại điểm đến không thể đáp ứng được (Tooke & Baker, 1996). Kết quả là nó
tạo ra những điều khơng mong muốn như tắc nghẽn giao thông, mất quyền riêng tư, hư hỏng cở
sở vật chất tại địa phương. Bên cạnh đó, vấn đề mơi trường cũng cần được cân nhắc, chẳng hạn
như việc làm bộ phim Hòn đảo thiên đường và việc phát triển du lịch bởi phim ảnh đã dẫn đến sự
đe dọa môi trường nghiêm trọng đến đảo Phi Phi Lae ở Nam Thái Lan (Cohen, 2005).
Quảng bá du lịch qua phim ảnh ở Việt Nam
Sự giao lưu về văn hóa cũng như sự phát triển của điện ảnh thế giới đã dẫn đến trào lưu
tìm kiếm các bối cảnh quay phim ở các quốc gia khác nhau. Việt Nam được xem là một điểm đến
đa dạng về văn hóa, cảnh sắc thiên nhiên, do đó, đã có những đồn làm phim thế giới tìm đến
Việt Nam. Tuy nhiên, con số bộ phim nước ngoài được phép quay ở Việt Nam chỉ đếm trên đầu
ngón tay như bộ phim Đông Dương (1992), Pan và vùng đất Neverland (2014) hay gần đây nhất
đó là Kung Skull Island (2016).
Quay trở lại quá khứ, Việt Nam đã bỏ qua hàng loạt cơ hội để được quảng bá điểm đến
qua các bộ phim. Chẳng hạn, bộ phim Trời và Đất (1993) từng đạt 3 giải Oscar của đạo diễn
Oliver Stone đã không vượt qua khâu duyệt kịch bản ở Việt Nam. Do đó, các bối cảnh Việt Nam
ở trong phim được dựng và quay ở đất nước láng giềng Thái Lan. Hay một bộ phim bom tấn đình
đám Điệp viên 007 cũng bị Việt Nam từ chối khi bộ phim đề nghị được quay trường đoạn hấp
dẫn Ngày mai không tàn lụi ở Sài Gòn trong sự tiếc nuối của các nước châu Á, trừ Thái Lan.
Ngoài ra, các bộ phim về đề tài chiến tranh Việt Nam từng đạt những giải thưởng danh giá như
Hồi hương, Ngày tận thế, Áo giáp thép, v.v. đều được quay ở những nơi khác ngoài Việt Nam.
985
Nhưng thực tế hàng năm Việt Nam lại bỏ ra hàng triệu đô la cho việc quảng bá du lịch
Việt Nam trên các kênh truyền hình thế giới như CNN, Travel Channel. Trong khi đó, việc quảng
bá trên các kênh này cũng chưa thực sự hiệu quả trong việc mang lại nguồn du khách dồi dào đến
với Việt Nam.
Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến sự bỏ lỡ thời cơ quảng bá du lịch Việt Nam qua
phim ảnh trong thời gian qua? Nguyên nhân thứ nhất đó là thủ tục hành chính. Các thủ tục duyệt
kịch bản, cấp phép làm phim ở Việt Nam còn rườm ra. Theo quy định của Việt Nam, đoàn làm
phim nước ngoài muốn làm phim ở Việt Nam thì phải chọn đối tác Việt Nam và chính đối tác
Việt Nam là người sẽ trình kịch bản. Tuy nhiên, việc lựa chọn đối tác Việt Nam không phải khi
nào cũng thuận lợi do sự khác biệt về văn hóa, về mức độ chuyên nghiệp trong làm phim,v.v.
Thứ hai, Việt Nam còn yếu trong việc cung cấp các dịch vụ hậu cần cho đoàn làm phim. Theo
đạo diễn Vũ Huy- thành viên thiết kế mỹ thuật của phim Kong: Skull Island cho hay thì chúng ta
khơng đáp ứng được việc th máy móc thiết bị cho đồn làm phim nước ngoài, hầu hết các thiết
bị đều được thuê từ các nước khác như Thái Lan, Úc, Campuchia. Trong khi đó, nhìn qua Thái
Lan chúng ta có thể thấy khả năng cung cấp được các thiết bị làm phim rất tốt và chuyên nghiệp
khi họ có thể đáp ứng được nhu cầu đó cho việc làm 60 đến 70 bộ phim điện ảnh. Thứ ba, theo
đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân (NSND) Đặng Nhật Minh thì yếu tố nguồn nhân lực cho làm phim
chuyên nghiệp của chúng ta chưa đáp ứng về trình độ chun mơn, ngoại ngữ, tác phong, thái độ
cũng như mức độ nổi tiếng của các ngôi sao điện ảnh trong nước chưa cao. Do đó, việc hợp tác
trong làm phim cũng gặp khó khăn trở ngại. Thứ tư, theo bà Ngô Phương Lan- Cục trưởng Cục
điện ảnh Việt Nam thì Việt Nam cịn yếu trong khâu marketing cho điểm quay. So sánh với các
quốc gia khác như Hàn Quốc, hàng năm họ đều tổ chức các tour du lịch điện ảnh để mời các nhà
làm phim, đạo diễn nổi tiếng nước ngoài đến thăm quan để quảng bá bối cảnh làm phim. Hay
Thái Lan chọn tháng 7 là tháng điện ảnh và đài thọ miễn phí cho các đồn làm phim nước ngồi
đến Thái Lan để tìm hiểu các cảnh quay và khám phá văn hóa.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Bài báo đã phân tích một số vấn đề về du lịch bởi phim ảnh, tác động của nó đến nền kinh
tế cũng như một số hạn chế của Việt Nam trong việc sử dụng phim ảnh để quảng bá cho du lịch
Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị để thúc đẩy việc sử dụng phim ảnh trong
việc quảng bá du lịch Việt Nam một cách hiệu quả hơn. Thứ nhất, Việt Nam cần có chiến lược
trong việc sử dụng phim ảnh để quảng bá cho du lịch Việt Nam để việc quảng bá du lịch qua
phim ảnh được nhìn nhận một cách chính thức, có mục tiêu, có kế hoạch trọng tâm, có nguồn
ngân sách phân bổ phù hợp. Thứ hai, cần có sự hợp tác giữa nhiều bên như Cục điện ảnh, Bộ Văn
hóa thể thao và du lịch và các bên liên quan trong việc tạo ra sự thuận lợi cho các đoàn làm phim
nước ngoài đến Việt Nam thể hiện trong các khâu liên quan đến cấp phép sản xuất phim nước
ngoài tại Việt Nam, duyệt kịch bản, thuế quan, tuyển chọn điểm quay, v.v. Thứ ba, Việt Nam cần
có chiến lược phát triển nguồn nhân lực và dịch vụ hậu cần đáp ứng được nhu cầu làm phim của
các đoàn làm phim quốc tế. Cụ thể là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng có thể tham gia vào các
khâu khác nhau của một bộ phim như đạo diễn, diễn viên, họa sĩ thiết kế hình ảnh, v.v. Đồng
thời Việt Nam cần có nguồn ngân sách thích đáng hỗ trợ các hãng phim trong việc đầu tư thiết bị
986
máy móc liên quan đến việc sản xuất phim để việc thuê mướn các yếu tố này của đoàn phim
nước ngoài trở nên dễ dàng thuận tiện hơn cũng như mang lại nguồn thu cho chính các doanh
nghiệp trong nước. Thứ tư, Việt Nam cần tranh thủ tận dụng cơ hội chiếu các đoạn phim giới
thiệu về hình ảnh con người Việt Nam, các bối cảnh làm phim Việt Nam trong các liên hoan
phim và văn hóa ở các quốc gia có nền điện ảnh phát triển như Hoa Kỳ, Pháp, Hàn Quốc, v.v.
Thứ năm, Cục điện ảnh cũng cần tiếp tục xúc tiến việc ký kết các hợp đồng làm chương trình
truyền hình hay phim với các nước khác như chúng ta đã làm với các chương trình thực tế và các
bộ phim như Khúc hát mặt trời (ký kết với Nhật Bản) để tranh thủ quảng bá hình ảnh Việt Nam
trên các kênh truyền hình nước bạn. Cuối cùng, Việt Nam cũng cần dành một khoản kinh phí
hàng năm cho việc mời các đạo diễn, nhà làm phim nước ngồi đến với Việt Nam để tìm kiếm
các bối cảnh làm phim tại các điểm đến du lịch nổi tiếng để việc tiếp cận điểm đến Việt Nam đối
với các nhà làm phim thế giới trở nên gần hơn và khả thi hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Baloglu, S., “Affective images of tourism destinations”, Journal of travel research, No. 4, (1997),
p.11- 15.
Beeton, S., “Rural tourism in Australia: Has the gaze altered? Tracking rural images through
film and tourism promotion”, International Journal of Tourism Research, 6(3), (2004), p.125135.
Busby, G & Klug, J., “Movie-induced tourism: The challenge of measurement and other issues”,
Journal of Vacation Marketing, 7(4), (2001), p.316-332.
Butler, R. W., “The influence of the media in shaping international tourist patterns”, Tourism
Recreation Research, 15(2), (1990), p.46-53.
Carl, D., Kindon, S & Smith, K.,“Tourists’ experiences of film locations: New Zealand as
“Middle Earth””, Tourism Geographies, 9(1), (2007), p.49-63.
Chon K.S., “The role of destination image in tourism: A review and discussion”, The Tourist
Reivew, Vol.45: Issue.2, (1990), p.2- 9.
Cohen, E., “The Beach of ‘The Beach’: The Politics of Environmental Damage in Thailand”,
Tourism Recreation Research, 30 (1), (2005), p.1-17.
Echtner, C. M. & Ritchie, J. R. B., “The meaning and measurement of destination image”,
Journal of Tourism Studies, 2(2), (1991), p.2-12.
Crompton, J.L., “An assessment of the image of Mexico as a vacation destination and the
influence of geographical location upon that image”, Journal of Travel Research, 17(4) (Spring,
1979), p.18-23.
Gartner, W. C., “Tourism image: Attribute measurement of state tourism products using
multidimensional scaling techniques”, Journal of Travel Research, 28(2), (1989), p.16-20.
987
Hudson S. & Ritchie, J. R. B., “Promoting destination via film tourism: An empirical
identification of supporting marketing initiatives”, Journal of Travel Research, 44, (2006a),
p.387-396.
Hudson S. & Ritchie, J.R.B., “Film tourism and destination marketing: The case of
CaptainCorelli’s Mandolin”, Journal of Vacation Marketing, 12(3), (2006b), p.256-268.
Iwashita, C., “Media representation of the UK as a destination for Japanese tourists: Popular
culture and tourism”, Tourist Studies, 6(1), (2006), p.59-77.
Riley, R., Baker, D. & Van Doren, C.S., “Movie Induced Tourism”. Annals of Tourism Research,
25(4), (1998), p.919-935.
Schofield, P., “Cinematographic images of a city”, Tourism Management, 17(5), (1996), p. 333340.
Sonmez, S., & Sirakaya, E., “A distorted destination image? The case of Turkey’’, Journal of
Travel Research, 41(2), (2002), p.185-196..
Tooke, N. & Baker, M., “Seeing is believing: The effect of film on visitor numbers to screened
locations”, Tourism Management, 17(2), (1996), p. 87-94
/>
988