Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Nên xem nhân lực là tài sản hay nguồn vốn? docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.29 KB, 5 trang )

Nên xem nhân lực là tài sản hay nguồn vốn?
Cho tới thời điểm này, chưa ai dám khẳng định chính xác nhân lực là tài sản hay
nguồn vốn trong doanh nghiệp? Chi riêng cách nhìn của mỗi doanh nghiệp mà
nhân lực là nguồn vốn hay tài sản. Vậy 2 cách nhìn nhận đó có khác biệt gì lớn?
Nếu nói nhân lực là “tài sản”?
Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Tài sản
được sử dụng triệt để để tạo ra lợi nhuận tối đa. Còn tài sản trí tuệ là một loại tài
sản vô hình, không thể xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó nhưng lại
có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu quả kinh
doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước mắt và trong
tương lai. Các loại tài sản hữu hình nói chung, việc sử dụng tài sản đồng nghĩa với
việc làm cho giá trị tài sản giảm đi. Tuy nhiên, đối với tài sản trí tuệ, phạm vi và
đối tượng sử dụng tài sản càng rộng thì giá trị tài sản càng lớn. Ngày nay, chính vì
sự nhận định nhân lực là tài sản của doanh nghiệp nên chủ doanh nghiệp luôn khai
thác và sử dụng triệt để, vắt kiệt sức lao động của người lao động. Và cỗ máy
chuyên dụng để tạo ra lợi nhuận này đã lỗi thời hay bị hư hỏng nặng sẽ bị tiêu hủy
và tiến hành mua cỗ máy mới. Từ đó tạo cho tâm lý người lao động tính thụ động,
tự biến mình thành cỗ máy chuyên dụng và chấp nhận sự sa thải khi đã kém hiệu
quả hoạt đông. Chẳng hạn: Ai cũng nhìn thấy chính đội ngũ nhân viên lành nghề,
có kỹ thuật; ban lãnh đạo có chuyên môn, tài năng chính là một tài sản vô cùng to
lớn của công ty, song tại sao tài sản này lại không được ghi nhận trong bất kỳ một
báo cáo nào của công ty? Xét về quan điểm kế toán, công ty phải có quyền kiểm
soát đối vơi tất cả tài sản của mình, trong khi đó, đội ngũ nhân viên và ban lãnh
đạo thì công ty chỉ có thể kiểm soát được qua hợp đồng lao động. Như vậy, nếu
muốn định giá được thì cũng chỉ có thể xác định trong một khoảng thời gian nhất
định, cụ thể là kết thúc một năm tài chính bởi không phải ai cũng có thể hoặc
muốn đóng góp lâu dài cho công ty được.
Tài sản trí tuệ đóng vai trò như là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và
khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Bằng việc xây dựng, phát
triển và sở hữu các tài sản trí tuệ, uy tín và vị thế của doanh nghiệp luôn được
củng cố và mở rộng; khả năng cạnh tranh, thị phần và doanh thu của doanh nghiệp


được nâng cao.
Theo đó, có thể cho phép doanh nghiệp xác định tài sản vô hình để được ghi nhận
trong báo cáo tài chính, trong đó phân biệt giữa giá trị được trích khấu hao và giá
trị không được trích khấu hao. Đồng thời, để thể hiện chính xác giá trị của tài sản
này, hàng năm các doanh nghiệp cần được xác định lại giá trị của các tài sản vô
hình. Ngoài ra, cũng cần xây dựng một chính sách phù hợp, nhất quán giữa định
giá tài sản trí tuệ và chế độ kế toán kiểm toán để phản ánh đầy đủ và chính xác giá
trị tài sản vô hình, đặc biệt là tài sản trí tuệ.
Nếu đã xem nhân lực là tài sản thì chính chủ doanh nghiệp sẽ phải đóng thuế tài
sản cho nhà nước. Bởi vì, thuế tài sản là loại tên gọi chung của các sắc thuế đánh
vào quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản. Người lao động không còn lo việc
đóng thuế thu nhập cá nhân. Cơ sở tính thuế là giá trị của tài sản. Để giảm tối thiểu
hành vi trốn lậu thuế, các nước đều thành lập cơ quan định giá tài sản. Về nguyên
tắc, mọi cá nhân (hộ gia đình) có sở hữu hay sử dụng tài sản đều phải đóng thuế tài
sản, tuy nhiên trong trường hợp tài sản có giá trị nhỏ đến mức mà số thuế thu được
trở nên không có ý nghĩa khi xét thêm chi phí của công tác thu thuế, chính quyền
sẽ quyết định mức thuế phải nộp là 0. Việc đánh thuế tài sản sẽ tránh được sự méo
mó trong thuế thu nhập, đó là việc chuyển hóa thu nhập thành tài sản.

Xem nhân lực là nguồn vốn?
Những biểu hiện dễ thấy của nguồn vốn là ở dạng vật chất, như công cụ, nhà
xưởng, phương tiện vận chuyển, v.v.. những thứ được sử dụng trong quá trình sản
xuất. Ít ra là kể từ thập niên 1960, các nhà kinh tế học dần tăng sự chú ý đến
những dạng phi vật chất của nguồn vốn. Nguồn vốn cá nhân là ưu điểm trong mỗi
con người, được bảo vệ bởi xã hội và đem trao đổi để thu về sự tin cậy hoặc tiền
bạc. Những khái niệm gần với nó là “tài năng”, “sự tháo vát”, “sự lãnh đạo”,
“những kiến thức được đào tạo”, hoặc “những khả năng bẩm sinh”. Đây là nguồn
vốn không dễ tạo ra được bằng cách kết hợp các dạng tư bản vật chất và phi vật
chất kể trên. Trong kinh tế học cổ điển, nguồn vốn cá nhân đơn giản chỉ nằm trong
khái niệm lao động. Bạn là một nguồn vốn đầu tư: "Học thuyết về nguồn vốn nhân

lực" như sau:
Bỏ qua sự phản đối mang tính đạo đức với chế độ nô lệ, suy luận tương tự được áp
dụng cho việc quản lý con người mà bạn sở hữu - chính bản thân bạn! Tư tưởng
này được biết đến là học thuyết về nguồn vốn nhân lực (human capital theory).
A. Có rất nhiều việc bạn có thể làm với thời gian của bạn. Đâu là sự đầu tư tốt
nhất? Hãy so sánh PDV! Chú ý: Vì bạn tính trước thu nhập, và nhận được một
khoản tăng thêm sau này, vốn học sẽ ngày càng ít có ý nghĩa khi lãi suất tăng.
Logic của luồng PDV áp dụng cho chế độ nô lệ. Nếu bạn đang mua một người cho
cả cuộc đời của anh ta, giá bán sẽ bằng với PDV của số tiền kiếm được trong suốt
cuộc đời của người nô lệ, trừ đi PDV của chi phí duy trì cuộc sống, trừ đi PDV của
chi phí cưỡng chế lao động.
B. Tương tự, giả sử một người sở hữu nô lệ đang xem xét liệu có phải huấn luyện
cho người nô lệ của ông ta thành một thợ rèn hay không. Việc này đồng nghĩa với
suy tính về số tiền kiếm được trong tương lai - người nô lệ không thể làm việc
thay cho học nghề. Những số tiền kiếm được cũng cao hơn đối với những người
chủ trong tương lai. Những người chủ nô mong muốn tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn
mức chi phí đào tạo nghề tối đa hoá PDV của người nô lệ.
C. Hoặc giả sử một người chủ nô đang quyết định xem có nên cho phép nô lệ của
ông ta có con hay không (những đứa trẻ đó cũng là những nô lệ hợp pháp). Nếu
một nô lệ có một đứa con, người mẹ sẽ đem lại thu nhập ít hơn trong một khoảng
thời gian, và đứa trẻ bị biến thành nô lệ sẽ hầu như không tạo ra giá trị lợi nhuận
trong nhiều năm; nhưng cuối cùng người chủ sẽ có hai nô lệ thay vì chỉ có 1.
Người chủ nô tìm cách tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn bất cứ cách nào có PDV cao
hơn.
D. Tỷ suất hồi vốn đối với một người nô lệ là bao nhiêu? Nếu một nô lệ bán với
giá 3.000 USD, tạo ra 300 USD thu nhập ròng, và giảm xuống chỉ còn giá trị bằng
2.850 USD, tỷ suất hồi vốn là (300 - 150)/3.000 = 5%.
E. Trong một nền kinh tế có chế độ nô lệ, bạn dự tính đầu tư vào nô lệ sẽ có giá trị
hồi vốn tiêu biểu giống như bất cứ cái gì khác.
Ví dụ, đầu tư vào kỹ năng và giáo dục có thể được xem là bồi đắp nguồn vốn con

người, và những đầu tư vào tài sản trí tuệ được con là xây dựng nguồn vốn trí tuệ.
Những khái niệm mới mẻ này dẫn đến những khúc mắc và những tranh luận. Lý
thuyết phát triển nguồn lực con người mô tả tư bản con người là thực thể bao gồm
những yếu tố xã hội, nhân rộng và sáng tạo riêng biệt.
Nguồn vốn được xem như là huyết mạch của doanh nghiệp, vì vậy có vốn rồi, ta
chỉ cần sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả thì sẽ có lãi mẹ đẻ lãi con. Vì sao
nguồn vốn nhân lực được xem là thiết yếu? Từ thời khai hoang lập địa, chính con
người là nguồn vốn lớn nhất để tạo dựng sự nghiệp:”bàn tay ta làm nên tất cả, có
sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Họ tự xoay sở, lao động bằng chính bàn tay và
khối óc của mình để tạo ra của cải, phương thức sản xuất, tư liệu sản xuất và dĩ
nhiên có thể mua được trí tuệ con người. Đã có nguồn vốn nhân lực trong tay thì
việc huy động nguồn vốn đầu tư tiền bạc đâu có gì là khó. Chính vì thế nên xem
nhân lực là nguồn vốn thì mới thấy giá trị và tầm quan trọng của nguồn nhân lực.
Từ đó, các nhà doanh nghiệp mới có thể sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu
quả hơn.
Vốn trí tuệ ẩn tàng trong mỗi con người, doanh nghiệp cần phải có chiến lược xây
dựng và phát triển tài sản ấy cho mình. Chúng ta phải làm sao để giáo dục cho học
sinh ngay từ thời phổ thông biết được vai trò cũng như tầm quan trọng của vốn trí
tuệ nhằm định hướng cho các em phát huy những khả năng tư duy sáng tạo, năng
lực tiềm ẩn trong chính bản thân mình. Bởi hiện nay, chúng ta kêu gọi đổi mới
giáo dục một cách toàn diện nhưng chỉ mới dừng lại ở mức phát động, hô hào; còn
phương pháp tư duy thì không thay đổi. Vậy thì làm sao mà phát triển được nguồn
trí tuệ quý báu này ?
Theo GĐ điều hành Tập đoàn Dệt may VN Lê Tiến Trường: "Nhân lực là một
nguồn vốn bền vững". Thế nhưng, để có một sự phát triển bền vững thì còn có một
nguồn nhân lực quan trọng nữa đó là đội ngũ các nhà quản lý và người lao động.
Làm thế nào để việc "đầu tư" vào con người đồng bộ với việc đầu tư những tiến bộ
khoa học kỹ thuật luôn là bài toán khó và theo ông Trường, giải được bài toán này
sẽ tiết kiệm được nguồn vốn vô cùng lớn.


×