Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tính tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.38 KB, 23 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá độ là một bước đi tất yếu của Việt Nam trong hành trình tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Lộ trình này đã được Đảng vạch ra từ trong quá trình
đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Để thực hiện
thành công thời kỳ quá độ, sẽ trải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn với những
khó khăn và thách thức đi kèm. Nếu như về mặt đường lối, phát triển cần đến
những định hướng đúng đắn, những cơ chế chính sách phù hợp của nhà quản
lý thì về mặt thực tiễn, cái mà xã hội hướng đến chính là sự đảm bảo một cách
cân đối và hài hịa các mối quan hệ lợi ích. Thực tiễn đã chứng minh rằng,
một khi lợi ích của con người được đảm bảo thì xã hội ln phát triển trong
trạng thái xã hội an yên của nó. Ngược lại, khi sự phân bổ các mối quan hệ lợi
ích khơng cơng bằng, tất yếu sẽ dẫn đến các cuộc đấu tranh nhằm để giải
quyết các mâu thuẫn đang tồn đọng. Trong tính hai mặt của nó, lợi ích ln
tồn tại một cách thống nhất và mâu thuẫn trong đời sống con người và trong
xã hội loài người. Việc nắm bắt được những mặt tích cực của các mối quan hệ
lợi ích khơng những sẽ cho phép nhà quản lý có thể kích cầu và phát huy
được tối đa các nguồn lực mà nó cịn là cơ sở để hướng đến một trạng thái xã
hội ngày càng phát triển.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam ln mang trên mình những hành
trang lớn để thực hiện khát vọng xây dựng một quốc gia xã hội chủ nghĩa, thái
bình, thịnh vượng. Tất cả đều được xuất phát từ quan điểm, nhân thức của
Đảng về việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân, ln lấy lợi
ích của nhân dân làm trọng. “Dân vi quý, xã tắc thứ chi”, chở thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân, sức dân mạnh như sức nước, vì vậy, “việc gì lợi
cho dân ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, đó
vừa là đạo lý, vừa là những phương châm của quá trình xây dựng và phát triển
đất nước. Lợi ích của đất nước, của nhân dân luôn là động lực, là mục tiêu
hướng tới của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích cho dân
thì việc duy trì sự hài hịa các mối quan hệ lợi ích trong suốt q trình phát




2
triển cũng khơng kém phần quan trọng. Bởi ngồi vai trò là tạo ra động lực
cho sự phát triển của xã hội, các mối quan hệ lợi ích cũng tạo nên những mâu
thuẫn và nếu không được kiềm tỏa một cách đúng hướng thì sẽ làm cản trở
quá trình phát triển của đất nước.
Với những tác động và ảnh hưởng như vậy, việc tiếp cận và nghiên cứu
các mối quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam khơng những sẽ góp phần mang lại được những ý nghĩa khoa học mà nó
cịn chứa đựng cả những giá trị thực tiễn sâu sắc.
Về ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận liên quan đến các mối quan hệ lợi ích. Từ đó, phân tích và
làm rõ tính tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi
ích trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội vở Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu vấn đề này sẽ cung cấp cơ sở khoa
học cho việc đánh giá đúng tính tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu
thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Ngồi ra, đề tài cịn góp phần hệ thống hóa và cung cấp nguồn tư liệu cho
những ai quan tâm đến vấn đề này.
Xuất phát từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn như đã nêu trên, chúng
tơi chọn vấn đề “Tính tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về
quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, làm
tiểu luận, bộ môn Kinh tế Chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm góp phần làm sáng tỏ tính tất
yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài tập trung giải
quyết những nhiệm vụ cơ bản như sau:

- Thứ nhất, trình bày các khái niệm thuật ngữ liên quan đến vấn đề lợi ích.
- Thứ hai, làm rõ bản chất cùng những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế.


3
- Thứ ba, làm rõ cơ sở hình thành và tính thống nhất và mâu thuẫn trong
các quan hệ lợi ích.
- Thứ tư, phân tích và làm rõ tính tất yếu khách quan của sự thống nhất
và mâu thuẫn về các quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề: “Tính tất yếu khách quan
của sự thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Ở Việt Nam.
+ Về thời gian: Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic
là chủ yếu. Ngồi ra, đề tài cịn vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên
cứu khác như: Sưu tầm tài liệu, so sánh, đối chiếu, phân tích... để xử lí, phân
loại các thơng tin trước khi làm rõ tính thống và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần hệ thống hóa các khái
niệm liên quan đến vấn đề lợi ích, quan hệ lợi ích. Từ đó, chỉ ra bản chất cùng
những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế.
Thứ hai, từ việc phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan của sự thống
nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam, đề tài sẽ đúc rút một số kết luận nhằm đánh giá tổng quan
vấn đề nghiên cứu.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tư liệu tham khảo liên quan đến vấn đề: Tính
tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


4
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài được cấu tạo bởi
2 chương:
Chương 1, một số vấn đề lý luận về lợi ích.
Chương 2, tính tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về
quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


5
NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH
1.1. Các khái niệm thuật ngữ cơ bản
Theo từ điển tiếng Việt, thống nhất có nghĩa là có sự phù hợp, nhất trí
với nhau, khơng mâu thuẫn nhau, hợp lại thành một khối. Còn theo quan điểm
của triết học, thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, địi hỏi có nhau, nương tựa vào nhau của các mặt đối lập, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập
bên trong một sự vật, một hiện tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và
phổ biến. Mâu thuẫn có tính chất khách quan vì nó là cái vốn có trong sự vật,
hiện tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính
phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi

quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa
mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng lớp...)
trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ rất sớm, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến vấn đề lợi ích. Trong bài viết Những
cuộc tranh luận về tự do báo chí và về việc cơng bố các biên bản của hội nghị
các đẳng cấp (4/1842), Mác đã đưa ra nhận định rằng: “Tất cả cái gì mà con
người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ” [10, tr. 109].
Có nhiều cách phân loại về lợi ích khác nhau. Nếu căn cứ vào các lĩnh
vực của đời sống xã hội có thể chia thành lợi ích kinh tế, văn hố, chính trị...
khái quát hơn là lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; dựa vào phạm vi hoạt
động của chủ thể có thể chia làm lợi ích cá nhân, tập thể, giai cấp, toàn xã hội,
quốc gia, nhân loại... khái quát hơn là lợi ích riêng và lợi ích chung; dựa vào
thời gian tồn tại của lợi ích, có thể chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài; dựa vào tầm quan trọng của lợi ích có thể chia thành lợi ích căn bản và
lợi ích khơng căn bản...


6
Lợi ích kinh tế là lợi ích phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế và các
điều kiện sinh hoạt kinh tế của xã hội, tập trung nhất là các lĩnh vực của sản
xuất kinh tế gắn với các quan hệ sản xuất của xã hội. Có thể hiểu một cách cụ
thể hơn, lợi ích kinh tế là giá trị kinh tế mà mỗi cá nhân có được khi tham gia
vào quá trình sản xuất kinh tế, dùng để thỏa mãn nhu cầu của các cá nhân đó.
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị kinh tế mà mỗi người lao động được nhận
có thể biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc sản phẩm, trong đó hình thái tiền
tệ là cơ bản. Dưới hình thái tiền tệ, lợi ích kinh tế được biểu hiện ra ở những
hình thức cơ bản là thu nhập từ tiền công, tiền lương, thù lao... Lợi ích kinh tế
chính là một trong những lợi ích cơ bản, trọng yếu nhất của xã hội.
Trong nền kinh tế sẽ có nhiều chủ thể, tương ứng với mỗi chủ thể sẽ là

một hình thức lợi ích kinh tế như: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai
cấp, lợi ích nhà nước, lợi ích quốc gia, dân tộc... Trong các hình thức lợi ích
kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của các lợi ích khác. Bởi lẽ, nhu cầu
cơ bản, sống còn trước hết thuộc về các cá nhân, quyết định hoạt động của các
cá nhân; mặt khác, thực hiện lợi ích cá nhân là sơ sở để thực hiện các lợi ích
khác vì cá nhân cấu thành nên tập thể, giai cấp, xã hội... “Dân giàu” thì “nước
mạnh”. Do đó, lợi ích cá nhân chính đáng cần được pháp luật tơn trọng, bảo
vệ. Lẽ dĩ nhiên, lợi ích cá nhân cần phải được đặt trong mối quan hệ biện
chứng với lợi ích xã hội nói chung.
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người
với con người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các
bộ phận hợp thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc
gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế
trong mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế có những biểu hiện hết sức phong phú,
quan hệ đó có thể là các quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với
một cá nhân trong tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các
chủ thể, các cộng đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền


7
kinh tế khác nhau. Trong điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế
cịn phải xét tới quan hệ giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới.
1.2. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế
Về mặt bản chất, lợi ích kinh tế là lợi ích mang bản chất vật chất được hình
thành do kết quả của quá trình sản xuất xã hội; thể hiện đặc trưng kinh tế khách
quan, là mối quan hệ xã hội của con người nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của
các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhu cầu kinh tế khi được xác định về mặt xã
hội trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế cịn là biểu hiện

của quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng.
Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các
chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Các thành viên trong xã hội xác lập các
quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế
mà họ có thể có được. Về khía cạnh này, Ph. Ănghen viết: “Những quan hệ
kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái lợi
ích” [14, tr. 376]. Các quan hệ xã hội ln mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích
kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ảnh bản chất xã hội của giai đoạn lịch
sử đó.
Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích
tương ứng: Lợi ích của chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của
người lao động là thu nhập. Tất nhiên, với mỗi cá nhân, trong các mối quan hệ
xã hội tổng hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực hiện hoạt động
kinh tế, trong nhất thời, không phải luôn đặt mục tiêu lợi ích vật chất lên hàng
đầu. Song, về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là
lợi ích quyết định. Nếu khơng thấy được vai trị này của lợi ích kinh tế sẽ làm
suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân.
Khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa hàm ý rằng, lợi ích đó
được xác lập trong quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong trò của các chủ
thể trong quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế nào, chẳng hạn họ
là chủ sở hữu, hay nhà quản lý; là lao động làm thuê hay trung gian trong hoạt
động kinh tế; ai là người thụ hưởng lợi ích, quyền hạn và trách nhiệm của các


8
chủ thể đó, phương thức để thực hiện lợi ích cần phải thơng qua các biện pháp
gì. Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh, lao
động ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế bao hàm những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế mang tính khách quan: Xã hội càng phát triển,

địi hỏi về phương thức và mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất của con
người càng cao. Đồng thời, phương thức và mức độ thoả mãn các nhu cầu vật
chất phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan: Số lượng, chất lượng hàng hóa
và dịch vụ; thu nhập của các chủ thể... Bản chất khách quan đòi hỏi lợi ích
kinh tế phải được tôn trọng và giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế phải xuất phát
từ các điều kiện khách quan.
Thứ hai, lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối: Thu
nhập là biểu hiện, là thước đo việc thực hiện các lợi ích kinh tế vì mức thu
nhập trực tiếp quyết định phương thức và mức độ thoả mãn nhu cầu của các
chủ thể trong cơ chế thị trường. Phân phối thu nhập lại được thực hiện theo
những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế kinh tế. Nếu các chủ thể kinh tế nhận thức
đúng đắn các nguyên tắc phân phối, mức thu nhập hợp lý mà họ được hưởng
và hành động phù hợp với nhận thức thì lợi ích kinh tế trở thành động lực cho
sự phát triển. Ngược lại, những địi hỏi khơng hợp lý về thu nhập hay lợi ích
kinh tế sẽ là rào cản cho sự phát triển.
Thứ ba, lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội: Lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể
không giản đơn tuỳ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ nhận
được mà ln được đặt trong quan hệ so sánh, tương tác với những chủ thể
khác. Điều đó có nghĩa là, bản chất của lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội. Vì
vậy, giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế về thực chất là giải quyết quan hệ giữa
con người với nhau.
Thứ tư, lợi ích kinh tế mang tính lịch sử: Phương thức và mức độ thoả
mãn các nhu cầu vật chất của con người do nhiều nhân tố quy định, mà các
nhân tố đó lại khơng ngừng vận động, biến đổi nên lợi ích kinh tế cũng khơng


9
ngừng vận động, biến đổi. Điều đó có nghĩa là lợi ích kinh tế mang tính lịch
sử. Tính lịch sử của lợi ích kinh tế địi hỏi việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề

này phải đặt trong những hoàn cảnh cụ thể, trong tiến trình vận động, biến đổi
khơng ngừng.
1.3. Vai trị của lợi ích kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng
phong phú. Mặc dù vậy, điểm chung của tất cả các hoạt động đó là hướng tới
lợi ích. Xét theo nghĩa như vậy, có thể khái qt vai trị của lợi ích kinh tế trên
một số khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt
động kinh tế - xã hội. Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là
để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất của mình. Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và
mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó,
mức thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật
chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao thu
nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt của
người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội, vừa là
biểu hiện của sự phát triển. “Nước độc lập mà dân không được hưởng ấm no,
hạnh phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì?” [8, tr. 56].
Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết
vì lợi ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự
liên hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa
và dịch vụ mà xã hội có được. Mà tất cả các nhân tố đó lại là sản phẩm của
nền kinh tế và phụ thuộc vào quy mơ và trình độ phát triển của đuổi lợi ích
kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát
triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao động phải tích
cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động; chủ
doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp



10
ứng các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản
phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ người
tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Thứ hai, lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác.
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội, để thực hiện được lợi ích của
mình các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối
với tư liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp trong lịch sử - một động lực quan trọng của tiến bộ xã hội. “Động lực của
tồn bộ lịch sử chính là cuộc đấu tranh của các giai cấp và những xung đột về
quyền lợi của họ” và “nguồn gốc vấn đề trước hết là những lợi ích kinh tế mà
quyền lực chính trị phải phục vụ với tư cách phương tiện” [12, tr. 410].
Như vậy, mọi sự vận động của lịch sử, dù dưới hình thức như thế nào đi
chăng nữa xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề lợi ích, mà trước hết là lợi ích
kinh tế. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình
thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ
thể xã hội. Bàn về vấn đề này, Mác đã nhấn mạnh rằng: “Cội nguồn phát triển
của xã hội không phải là quá trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời
sống vật chất, tức là các lợi ích kinh tế của con người” [13, tr. 5-6]. Điều cần
lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế thì lợi
ích kinh tế mới thực hiện được vai trị của mình. Ngược lại, việc theo đuổi
những lợi ích kinh tế khơng chính đáng, khơng hợp lý, không hợp pháp sẽ trở
thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội.


11
Chương 2. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ THỐNG
NHẤT VÀ MÂU THUẪN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG THỜI KỲ

QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Một số nét khái quát chung về cơ sở hình thành, tính thống nhất
và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích
Cơ sở sâu xa của sự hình thành các quan hệ lợi ích kinh tế bắt nguồn từ
sự tồn tại và vận động của các quan hệ sản xuất, trong đó có vai trị quyết
định của quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, quan hệ sở hữu tự nó khơng đem lại lợi
ích cho các chủ thể, cho nên, để thực hiện được lợi ích, quan hệ sở hữu cần
phải đặt trong mối liên hệ với quan hệ tổ chức quàn lý và quan hệ phân phối.
Theo đó, quan hệ lợi ích kinh tế được hình thành khơng chỉ bởi quan hệ sở
hữu. Quan hệ lợi ích cịn hình thành trên cơ sở vận động của quan hệ tổ chức
quản lý và quan hệ phân phối.
Cơ sở trực tiếp của các quan hệ lợi ích bắt nguồn từ chính các hoạt động
kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất. Do tính quy định của quan hệ
sản xuất đối với các quan hệ kinh tế hiện thực mà gắn với các khâu của quá
trình sản xuất, các kiểu tái sản xuất là các hoạt động kinh tế tương ứng. Đi liền
với các khâu, các mặt đó là các quan hệ giữa các chủ thể kinh tế. Thông qua
các hoạt động kinh tế của các chủ thể này, quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
được xác lập. Trên cơ sở đó, phát sinh, phát triển các quan hệ lợi ích kinh tế.
Về sự thống nhất: Các quan hệ lợi ích thống nhất với nhau vì một chủ
thể có thể trở thành bộ phận cấu thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của
chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc
gián tiếp được thực hiện. Chẳng hạn, mỗi cá nhân người lao động có lợi ích
riêng của mình, đồng thời, các cá nhân đó lại là bộ phận cấu thành tập thể
doanh nghiệp và tham gia vào lợi ích tập thể đó. Doanh nghiệp hoạt động
càng có hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp càng được đảm bảo thì lợi ích người
lao động càng được thực hiện tốt: Việc làm được đảm bảo, thu nhập ổn định
và được nâng cao... Ngược lại, lợi ích người lao động càng được thực hiện tốt


12

thì người lao động càng tích cực làm việc, trách nhiệm với doanh nghiệp càng
cao và từ đó lợi ích doanh nghiệp càng được thực hiện tốt.
Trong nền kinh tế thị trường, sản lượng đầu ra và các yếu tố đầu vào đều
được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là, mục tiêu của các
chủ thể chỉ được thực hiện trong mối quan hệ và phù hợp với mục tiêu của
các chủ thể khác. Như vậy, khi các chủ thể kinh tế hành động vì mục tiêu
chung hoặc các mục tiêu thống nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế của các
chủ chế đó thống nhất với nhau. Chẳng hạn, để thực hiện lợi ích của mình,
doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu
mã sản phẩm... thì lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội thống nhất với nhau.
Chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận thì nền kinh tế, đất nước
càng phát triển.
- Về sự mâu thuẫn: Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các
chủ thể kinh tế có thể hành động theo những phương thức khác nhau để thực
hiện các lợi ích của mình. Sự khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu
thuẫn. Ví dụ, vì lợi ích, các cá nhân, doanh nghiệp có thể làm hàng giả, bn
lậu, trốn thuế... thì lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích xã hội mâu
thuẫn với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận, lợi
ích kinh tế của người tiêu dùng, của xã hội càng bị tổn hại. Lợi ích của các chủ
thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh cũng có thể mâu thuẫn với nhau vì tại một thời điểm kết quả
hoạt động sản xuất, kinh doanh là xác định. Do đó, thu nhập của chủ thể này
tăng lên thì thu nhập của chủ thể khác giảm xuống. Chẳng hạn, tiền lương của
người lao động bị bớt xén sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ doanh nghiệp...
Khi có mâu thuẫn thì việc thực hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, thậm
chí làm tổn hại đến các lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là cội nguồn
của các xung đột xã hội. Do vậy, điều hoà mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế
buộc các chủ thể phải quan tâm và trở thành chức năng quan trọng của nhà
nước nhằm ổn định xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.



13
2.2. Tính tất yếu khách quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về
quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lợi ích không chỉ là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà
còn là động lực thúc đẩy hoạt động của con người và từ đó, thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Tương tự như vậy, các quan hệ lợi ích kinh tế trong thời kì
q độ vừa tạo nên mâu thuẫn nhưng đồng thời nó cũng tạo nên độc lực để
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến lên phía trước. Vậy thì tính tất yếu khách
quan của sự thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ được phân tích và minh định dựa trên
những căn cứ như thế nào?
Về mặt lý luận, triết học Mác khẳng định rằng, động lực sâu xa thúc đẩy
con người hoạt động chính là lợi ích. Lợi ích chính là sản phẩm hoạt động của
con người, là sự kết tinh, đối tượng hoá bản chất con người, tính người. Nó
vừa tồn tại dưới hình thái vật thể, vừa là quan hệ xã hội. Lợi ích là cái liên kết
các thành viên trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với
nhau và làm cơ sở cho việc xác lập các quan hệ giữa họ [1, tr. 89]. Ở phương
diện này có thể hiểu rằng, trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào các mối
quan hệ lợi ích ln xuất hiện và tồn tại đan xen với đời sống con người. Việt
Nam khi bước vào thời kỳ quá độ, các mối quan hệ lợi ích tương ứng cũng sẽ
xuất hiện với vai trò là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, gắn kết các
thành viên và xác lập những mối quan hệ mang tính đặc trưng của phương
thức sản xuất mà chúng ta đang theo đuổi. Các quan hệ lợi ích trong thời kỳ
này thể hiện tính thống nhất ở sự đồng tâm, nhất trí của tồn Đảng, tồn dân
để thực hiện thành cơng q trình q độ và đưa đất nước tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong một chỉnh thể xã hội do tính đa dạng từ
nhu cầu của các thành viên nên các nhu cầu về lợi ích trong thời kỳ quá độ sẽ
có những biểu hiện khác nhau.
Lợi ích khơng chỉ là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà

còn là động lực của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng, cải biến
xã hội, qua đó thúc đẩy lịch sử phát triển. Vì vậy, về thực chất, cách mạng là


14
sự thực hiện lợi ích của quần chúng. Quần chúng nhân dân sẽ không làm cách
mạng nếu họ không thấy được lợi ích của mình được phản ánh trong lợi ích
chung [11, tr. 68]. Động lực của cuộc cách mạng vô sản trong tương lai được
Mác và Ăngghen chỉ ra khơng phải chỉ vì lợi ích của thiểu số mà nó phải
thuộc về đa số. Các ơng viết: “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống
lại tính chất hoạt động trước đây, nó xố bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị
của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp, vì nó được thực hiện bởi
một giai cấp khơng cịn được coi là một giai cấp trong xã hội nữa” [11, tr.
100]. Đây chính là cơ sở quan trọng để Đảng xác định được động lực chính
yếu của các quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tính thống nhất cao nhất của các quan hệ hợi lợi ích được biểu hiện trong
thời kỳ quá độ chính là tất cả đều vì lợi ích của nhân dân. Dân là chủ và làm
chủ quá trình xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước.
Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về thực chất, đó là
mâu thuẫn giữa hai giai cấp có lợi ích đối lập: Giai cấp thống trị muốn duy trì
kiểu quan hệ sản xuất cũ và giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến
bộ, muốn xoá bỏ kiểu quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời để thiết lập một kiểu
quan hệ sản xuất mới [11, tr. 107-108]. Từ cách tiếp cận này có thể hiểu rằng,
các quan hệ lợi ích cùng tồn tại thống nhất với nhau trong một giai đoạn/một
thời kì nhất định (quá độ) nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Và khi đạt
đến giới hạn của nó, các mâu thuẫn sẽ nảy sinh và làm xuất hiện cuộc cách
mạng để xóa bỏ các quan hệ lợi ích cũ, đồng thời từng bước thiết lập các quan
hệ lợi ích mới, phù hợp với một hình thái kinh tế xã hội mới mà Việt Nam
đang mong muốn xây dựng là hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa. Biểu

hiện của các mâu thuẫn về quan hệ lợi ích ở đây chính là quyền lợi của giai
cấp thống trị khi bước vào một hình thái kinh tế xã hội mới sẽ khơng cịn.
Mác và Ăngghen cũng cho rằng, mỗi cá nhân đều theo đuổi những lợi
ích của mình, nhưng muốn vậy họ phải tham gia vào các quan hệ xã hội, qua
đó họ tạo ra một phương thức hợp tác, hình thành một sức sản xuất mới [11,


15
tr. 48-49]. Luận điểm này cho thấy, dù các cá nhân có nhu cầu về các mối
quan hệ lợi ích riêng, song chung quy họ buộc phải tham gia vào trong quỹ
đạo chuyển động chung của xã hội. Các hình thức, phương thức hợp tác
chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ là cơ sở để duy trì tính ổn
định, tính thống nhất cho các quan hệ lợi ích. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong các
quan hệ lợi ích sẽ xuất hiện khi các cá nhân có nhiều sự lựa chọn, nhiều cơ
hội để tham gia vào các mối quan hệ hợp tác khác nhau.
Điểm luận một vài nét khái quát như vậy để thấy được rằng, ngay từ
trong q trình kiến tạo mơ hình chủ nghĩa xã hội, các nhà triết học Mác xít
đã chỉ ra được tính tất yếu, khách quan của các mối quan hệ lợi ích tồn tại bên
trong. Các quan hệ lợi ích trong tính thống nhất và mâu thuẫn của nó sẽ là
động lực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội và là cơ sở để con người hiện
thực hóa các khát vọng của mình.
Về thực tiễn, trong nền kinh tế, các mối quan hệ lợi ích thường diễn ra
theo ba hướng: Người dân, doanh nghiệp và nhà nước. Mỗi thành tố trong
mối quan hệ này đều có chức năng, mục tiêu hoạt động khác nhau với những
lợi ích khác nhau. Đối với doanh nghiệp: Với chức năng sản xuất, tạo ra hàng
hóa - dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội, quá trình hoạt
động của doanh nghiệp phải bảo đảm hiệu quả kinh tế, vì lợi nhuận, nên mong
muốn của doanh nghiệp là lợi nhuận, là nâng cao giá trị gia tăng. Nhà nước là
cơ quan quyền lực nên sử dụng quyền lực để định hướng phát triển kinh tế xã hội. Do đó, mong muốn của mọi nhà nước là xã hội ngày càng phát triển
văn minh, hiện đại dưới sự dẫn dắt và quản lý của mình. Người dân vừa là

người lao động, cung cấp các yếu tố đầu vào quan trọng cho thị trường, vừa là
người tiêu dùng, nên mục tiêu của họ là có được nhiều thu nhập để bảo đảm
cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Một xã hội muốn phát triển thì cần xử lý hài
hịa lợi ích giữa các thành tố nói trên. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh thị trường
thì sẽ tạo ra một xã hội chỉ vì lợi nhuận mà bỏ qua tất cả những giá trị nhân
văn của cuộc sống; nếu quá nhấn mạnh đến nhà nước thì sẽ đưa nhà nước đến
chỗ ôm đồm, làm tất cả dẫn đến quá sức của mình và sẽ bị “trả giá”, cịn nếu


16
chỉ quá nhấn mạnh đến lợi ích của người dân thì xã hội sẽ khơng có đủ của cải
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân, vì tiêu dùng
khơng thể vượt q khả năng của cải hiện có.
Lợi ích chỉ thu được khi các hoạt động kinh tế tuân thủ quy luật khách
quan. Các hoạt động kinh tế mang tính phong trào sẽ khơng có cơ sở để tồn
tại lâu dài. Bởi lẽ, các quan hệ lợi ích thu được từ hoạt động kinh tế mang tính
phong trào chỉ là tạm thời và dễ bị suy giảm theo thời gian. Từ đó dẫn tới suy
giảm động lực của chủ thể thực hiện. Lênin đã từng khẳng định rằng, xét về
hoạt động kinh tế: “Trong những điều kiện lao động hiện nay, nhiệm vụ này
vô luận thế nào, cũng không thể giải quyết bằng cái lối hô “xung phong” như
chúng ta đã giải quyết những nhiệm vụ của cuộc nội chiến. Ngay thực chất
của vấn đề cũng không cho phép giải quyết được như vậy” [14, tr. 376].
Xuất phát từ việc tuân thủ các quy luật phát triển khách quan của nền
kinh tế thế giới, Đảng, Nhà nước đã xác định hướng đi đích thực cho nền kinh
tế Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khái niệm
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được sử dụng chính thức trong
văn kiện Đại hội IX (tháng 4/2001) của Đảng: “Đảng và Nhà nước chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4, tr. 23]. Đại hội XIII của Đảng

(2021) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội
nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước” [5, tr. 128-129]. Chấp nhận nền kinh tế thị
trường cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận những quy luật chung của sự
thống nhất và mâu thuẫn về các quan hệ lợi ích như các nền kinh tế thị trường
ở trên thế giới.


17
Việc lựa chọn nền kinh tế thị trường cho thấy tính thống nhất về mặt
quan hệ lợi ích của nền kinh tế với những đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ
quá độ. Tuy nhiên nó cũng đặt ra những mâu thuẫn về mặt quan hệ lợi ích đối
với mục tiêu, lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong suốt một
thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhiều người đã đem đối lập một
cách tuyệt đối và siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; coi những
gì có trong chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa đi và ngược lại,
trong đó có cả kinh tế thị trường vốn là thành quả phát triển của lịch sử loài
người. Cần nhận thức rõ rằng, xã hội cộng sản với tính cách một hình thái
kinh tế - xã hội khơng thể có sẵn mọi thứ trong lịng xã hội tư bản nhưng cũng
đã có những tiền đề về nhiều mặt quan trọng cho sự ra đời của một hình thái
kinh tế - xã hội mới. Một trong những tiền đề ấy chính là nền kinh tế thị
trường. Chính Lênin cũng đã sớm nhận ra sai lầm nóng vội khi đề ra “Chính
sách cộng sản thời chiến” nên đã kịp thời sửa chữa sai lầm ấy bằng “Chính
sách kinh tế mới”. Lênin viết: “Chúng ta khơng hình dung một thứ chủ nghĩa
xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học
mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” [9, tr. 334].
Có nhiều loại hình kinh tế thị trường và ở Việt Nam, kinh tế thị trường

gắn liền với định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa, hai yếu tố mâu thuẫn, trái ngược nhau như nhận
thức, quan điểm của một số người, mà là một mơ hình kinh tế phù hợp với
điều kiện đặc thù của Việt Nam. Kinh tế thị trường cần phải định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo các quan hệ lợi ích sẽ ln hướng đến con người
và vì con người. Một nền kinh tế như vậy, một mặt, tôn trọng và tuân theo các
quy luật khách quan của kinh tế thị trường, nghĩa là các hoạt động sản xuất và
kinh doanh phải phải hướng đến giá trị lợi ích; mặt khác, quan trọng hơn là
nền kinh tế ấy phải tạo được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển.
Xét về mục đích thực hiện các chức năng, dù xuất hiện với tư cách nào,
thì quan hệ giữa nhà nước và nền kinh tế thị trường về bản chất, là quan hệ lợi


18
ích. Đó là lợi ích của nhà nước và lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế ấy.
Nhà nước thực hiện quản lý là hướng tới mục đích bảo đảm cho nền kinh tế
thị trường phát triển hiệu quả. Nền kinh tế phát triển chính là cơ sở kinh tế,
bảo đảm sự phát triển của nhà nước.
Sự tương tác giữa nhà nước và nền kinh tế thị trường đều hướng đến gia
tăng lợi ích, tạo ra sự tăng trưởng cho các chủ thể tham gia. Đây chính là mặt
thống nhất trong mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nền kinh tế thị trường.
Về bản chất, đó chính là quan hệ cộng sinh, tùy thuộc vào nhau cùng phát
triển, cùng đạt được lợi ích. Mặt khác trong q trình tương tác có sự cạnh
tranh vai trị, lợi ích. Khi phân vai phù hợp, đúng với trình độ phát triển và
năng lực xử lý thì lợi ích sẽ được thỏa mãn. Ngược lại, khi phân vai không
đúng, nhà nước lấn át chức năng của nền kinh tế, hay nền kinh tế lấn át vai trị
của nhà nước thì sẽ dẫn đến kết cục: Sự quản lý của nhà nước kém hiệu quả
và bản thân nền kinh tế sẽ không thể phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực.
Đây chính là mặt mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nền kinh

thị trường.
Tính thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị
trường thể hiện ở chỗ: Các quan hệ lợi ích bên trong nền kinh tế thị trường sẽ
kích cầu động lực để thực hiện thành công các mục tiêu của sự nghiệp cơng
hóa, hiện đại hóa. Lợi ích của nền kinh tế thị trường cũng chính là cơ sở để
Việt Nam hướng đến một trình độ phát triển cao cả về phương diện đời sống
vật chất lẫn tinh thần. Mục tiêu phấn đấu trở thành nước phát triển được Đại
hội XIII của Đảng đề ra sẽ có sự hỗ trợ rất lớn nếu khơng nói là giữ vai trò
chủ đạo của nền kinh tế thị trường và các quan hệ lợi ích bên trong nó. Tuy
nhiên, việc thực hiện nền kinh tế thị trường trong điều kiện nền sản xuất nhỏ
lẻ nên các yếu tố về tính cạnh tranh, nguy cơ phá sản, tình trạng thất nghiệp,...
của nền kinh tế thị trường sẽ tác động mạnh mẽ đến các quan hệ lợi ích. Các
đối tượng yếu thế, khơng thể thích ứng được với sự vận hành của cơ chế chị
trường sẽ bị đào thải, đồng nghĩa với việc thủ tiêu các quan hệ lợi ích mà họ
có được. Trong khi đó, định hướng xã hội chủ nghĩa khơng cho phép sự bất


19
bình đẳng phát triển thành phân cực xã hội, khơng cho phép đẩy những người
lao động vào tình trạng thất nghiệp, khơng thể chấp nhận tình trạng bất cơng,
tiêu cực ngày càng tăng nên xuất hiện mâu thuẫn này.
Kinh tế thị trường gây ra sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong
các quan hệ lợi ích, tuy nhiên, nếu khơng chấp nhận kinh tế thị trường thì
khơng thể bắt kịp xu thế phát triển chung của thời đại. Các mục tiêu, lý tưởng
xây dựng chủ nghĩa xã hội vì thế sẽ khó có thể đạt được theo đúng lộ trình đặt
ra. Trong vài thập niên gần đây, một số nước tư bản có nền kinh tế thị trường
phát triển đã thực hiện những giải pháp “chia sẻ các quan hệ lợi ích” nhằm
giảm bớt sự bất bình đẳng trong xã hội, nhờ đó đời sống của một bộ phận
người lao động được cải thiện. Tuy nhiên, do bản chất tìm kiếm lợi ích bằng
mọi cách, do những mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư bản khơng thể điều hòa

được cho nên nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không thể loại bỏ được
sự bất công, sự bất bình đẳng xã hội và sự phân cực giàu nghèo đang ngày
càng sâu sắc hơn. Vì vậy, để khắc phục những mâu thuẫn, đồng thời, hạn chế
những tác động tiêu cực của các mối quan hệ lợi ích trong cơ chế thị trường
thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần thiết phải có sự
điều tiết của nhà nước, vì sự phồn vinh của đất nước và của cả dân tộc. Về
điều này tiếp tục được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nhà nước quản lý,
điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác
giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường,
không can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường” [5, tr. 285].
Ngay từ khi bắt đầu thực hiện quá trình đổi mới, Đảng đã xác định rằng:
“Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã
hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế” [2, tr.
86]. Nói cách khác, các mối quan hệ lợi ích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ hướng đến các lợi ích của đời sống vật chất
cho nhân dân mà nó cịn hướng đến cả đời sống tinh thần, đến hạnh phúc của
con người. Mác đã từng nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ


20
nghĩa mỗi người đều coi người khác là phương tiện để lợi dụng. Ngày nay,
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặt lợi ích
con người lên hàng đầu, xem con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực
chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển [5, tr. 47]. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước
chủ trương không đợi đến khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện các mục
tiêu xã hội. Từ rất sớm, Đảng và Nhà nước đã chủ trương “tăng trưởng kinh
tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
trong suốt q trình phát triển” [3, tr. 113].
Tính thống nhất và mâu thuẫn về quan hệ lợi ích trong thời kỳ quá độ thể

hiện ngay trong các thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế thị trường trong quá
trình quá độ là chấp nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, giữa các
thành phần kinh tế có lợi ích cơ bản và lâu dài khơng hồn tồn giống nhau,
do đó bên cạnh tính thống nhất thì giữa chúng vẫn có sự mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất của quan hệ lợi ích được đặt trong một bức tranh tổng thể
chung là vì sự tiến bộ và phát triển của nền kinh tế, các thành phần kinh tế
đều được khuyến khích phát triển để thu được các giá trị lợi ích. Sự mâu
thuẫn về quan hệ lợi ích giữa các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ thể
hiện ở các quan hệ lợi ích cơng hữu và tư hữu, giữa tư nhân với nhà nước,
giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Đây là mâu thuẫn về mặt
lợi ích dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Sự tồn tại đa dạng các thành phần kinh tế làm xuất hiện các quan hệ lợi
ích theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa thể hiện ở việc chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và q trình bóc lột nhân cơng lao động.
Trong khi đó, mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ áp bức, bóc
lột, tạo điều kiện cho con người được tự do, dân chủ, phát triển toàn diện. Từ
đó đã nảy sinh mâu thuẫn các quan hệ lợi ích giữa những người công nhân lao
động với các chủ doanh nghiệp. Q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế
ngày càng mở rộng nên các cơng ty, tập đồn tư bản xuất hiện ở nước ta ngày
càng nhiều. Họ đầu tư với số lượng vốn lớn, công nghệ hiện đại, kèm theo đó
là kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường ngoài nước, giải


21
quyết việc làm trong nước và do đó góp phần khai thác và sử dụng có hiệu
quả hơn các tiềm năng kinh tế của đất nước. Mặc dù còn tồn tại sự bóc lột lao
động do lợi ích của người thuê mướn lao động nhưng cùng với sự trưởng
thành của chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ
giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên điều này chỉ có thể thực hiện được
trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước xã hội chủ

nghĩa, sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, sự lớn mạnh của kinh tế
hợp tác. Do đó, lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao
động trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cần được dung hòa ở
một trật tự nhất định để đảm bảo cơng bằng, bình đẳng.
Cũng cần phải lưu ý rằng, mọi hoạt động kinh tế đều có hai mặt là sản
xuất và tiêu dùng. Chúng thống nhất với nhau tạo thành một chỉnh thể nhưng
đồng thời cũng luôn tác động bài trừ nhau. Hoạt động sản xuất tạo ra sản
phẩm cịn hoạt động tiêu dùng thì lại triệt tiêu sản phẩm. Trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu
và các mối quan hệ lợi ích bên trong vẫn tiếp tục tồn tại.


22
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, sau gần 35 năm đổi mới, đến nay, bằng kinh nghiệm
quản lý và tư duy đổi mới sáng tạo, Đảng đã lãnh đạo đất nước thực hiện
thành cơng các mục tiêu, lộ trình đặt ra. Nền kinh tế đất nước vì vậy đã có
những sự tăng trưởng vượt bậc và bảo đảm các quan hệ lợi ích cần thiết trong
thời kỳ quá độ. Đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân ngày
càng một nâng cao. Cơ đồ và tiềm lực của đất nước ngày càng được củng cố
vững chắc để tiến bước vào giai đoạn mới, với những mục tiêu và khát vọng
to lớn hơn để thực hiện thành công thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu nêu trên được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan khác nhau, trong đó phải kể đến những nỗ lực của Đảng,
Nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với việc tuân thủ các quy luật của nền kinh tế thị trường, Đảng,
Nhà nước đã có nhiều đổi mới, sáng tạo trong tư duy quản lý để hạn chế
những mặt trái của cơ chế thị trường gây nên. Nhờ vậy, các mối quan hệ lợi
ích của các chủ thể kinh tế luôn được đảm bảo và duy trì ở mức cân đối, hài
hịa. Cũng cần phải lưu ý rằng, các mối quan hệ lợi ích trong tính thống nhất

và mâu thuẫn của nó sẽ tiếp tục tồn tại một cách khách quan trong chẳng
đường tiếp theo của thời kỳ quá độ. Và do vậy, khi bước vào thời kỳ mới, để
thực hiện thành công các mục tiêu, định hướng đã đặt ra thì cần phải chú
trọng đến sự tồn tại mang tính tất yếu, khách quan của các mối quan hệ lợi
ích. Từ đó, có những cơ chế phù hợp để phát huy mặt tích cực của các quan
hệ lợi ích trong việc tạo động lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.


23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Chung (2006), Triết học Mác về lịch sử, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp Lý
luận Chính trị Kinh tế Chính trị Mác-Lênin, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
7. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Kinh tế
Chính trị Mác-Lênin, Viện Kinh tế Chính Trị, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
10. Mác và Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Mác và Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Mác và Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×