Bài 6
DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
A. MỤC TIÊU
Về kiến thức: Giúp học viên nhận thức đúng và đầy đủ bản chất của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa; sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây
dựng, hoàn thiện và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Về kỹ năng: Rèn luyện cho học viên năng lực vận dụng lý luận dân chủ vào
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; giải quyết tốt những vấn đề
đang đặt ra đối với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Về tư tưởng: Giúp học viên nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng và thấy rõ
trách nhiệm của mình trong việc góp phần xây dựng, hồn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
B. NỘI DUNG
1. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Dân chủ và lịch sử hình thành các nền dân chủ
a) Quan niệm về dân chủ
- Theo nghĩa gốc (nguyên nghĩa)
Thuật ngữ Dân chủ xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ V đến IV trước Công
nguyên tại Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, dân chủ được viết là Demokratos, trong đó
Démos nghĩa là nhân dân và kratos nghĩa là quyền lực. Theo cách diễn đạt này, dân
chủ trong tiếng Hy Lạp cổ được hiểu nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính
trị dịch giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
Đến thế kỷ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật
ngữ “democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”- thể chế dân chủ, một trong
những hình thức chính quyền với đặc trưng là: chính quyền nhà nước phải thừa nhận
1
quyền tự do và bình đẳng của cơng dân. Điều đó có nghĩa là: Dân chủ là chính thể
nhà nước thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của nhân dân.
Xem xét các nền dân chủ trong lịch sử cho thấy, nội dung trên của khái niệm
dân chủ về cơ bản vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay. Điểm khác biệt cơ bản giữa
cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ
sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ
V.I.Lênin quan niệm: "Dân chủ là sự thống trị của đa số" 1. Do vậy dân chủ
được nhìn nhận như là một hình thức, một hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự
tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực
hiện sự thống trị đối với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ,
phạm vi tham gia thật sự của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước
phản ánh trình độ phát triển của nền dân chủ, phản ánh những vấn đề cốt lõi nhất của
dân chủ.
Dân chủ là sản phẩm của lịch sử, là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho văn minh tiến bộ của loài người qua các giai
đoạn lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử đều đã ghi dấu mốc quan trọng trên bước đường
phát triển dân chủ và thể hiện sự đấu tranh không khoan nhượng với những yếu tố
phi dân chủ (sự độc tài, chuyên chế, phát xít...), thậm chí, trong cuộc đấu tranh giành
dân chủ, nhân loại đã phải trả giá đắt bằng cả máu, xương của mình.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ dân chủ không phải là sản phẩm của tự
nhiên, cũng không phải là bẩm sinh, càng không phải là tặng phẩm của giới siêu
nhân nào đó, mà là kết quả của quá trình đấu tranh trong trường kỳ lịch sử của nhân
loại vì sự tiến bộ, văn minh. Do đó, đứng trên quan điểm phát triển biện chứng xem
xét thì dân chủ là một giá trị nhân văn, mang tính nhân loại. Mỗi bước tiến của dân
chủ phản ánh bước tiến về quyền con người. Dân chủ phát triển càng cao, quyền con
người càng được khẳng định; tự do, bình đẳng trong xã hội càng cao. Do vậy, với
1
V.I.Lênin, toàn tập, tập 36 Nxb. Tiến bộ, M.1976, tr.294
2
tính chất là một giá trị nhân văn (giá trị văn hoá) của nhân loại, dân chủ ngày càng
trở thành tiêu chí, thước đo của sự tiến bộ xã hội, trình độ văn minh của lồi người.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng khẳng định, trong quá trình phát triển của xã hội
loài người, khi xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước xuất hiện, quyền tự do
của mỗi cá nhân đều mang tính giai cấp, phản ánh lợi ích giai cấp (trước hết là giai
cấp cầm quyền). Lịch sử đã chứng minh rằng trong xã hội có giai cấp, cuộc đấu
tranh giành dân chủ bao giờ cũng biểu hiện tính giai cấp rõ rệt, đại biểu cho lợi ích
giai cấp, là công cụ và thủ đoạn của giai cấp thống trị. Những giá trị dân chủ có tính
nhân loại chính là kết quả cuộc đấu tranh giai cấp của những lực lượng xã hội tiến
bộ, những giai cấp tiên tiến, giữ vai trò trung tâm của thời đại. Do vậy, dân chủ
mang tính giai cấp sâu sắc. Khơng có dân chủ trừu tượng, phi giai cấp, ngồi giai
cấp. Bản chất của dân chủ được thể hiện ở tính giai cấp của nó.
V.I.Lênin đã chỉ rõ khơng có “dân chủ nói chung”, “dân chủ phi giai cấp”.
Tính chất giai cấp của phạm trù dân chủ là tiêu chí để phân biệt bản chất khác nhau
của các nền dân chủ (dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản - dân chủ xã
hội chủ nghĩa). Theo V.I.Lênin mỗi chế độ và nhà nước dân chủ đều do một giai cấp
thống trị chi phối các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, tính giai cấp thống trị
cũng chi phối tính dân tộc và tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội… ở mỗi dân tộc cụ thể. Năm 1919, V.I.Lênin viết: “…Quan điểm dân chủ thuần
t hình thức chính là quan điểm của người dân chủ tư sản, là kẻ không thừa nhận
rằng lợi ích của giai cấp vơ sản và của cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản cao hơn
hết”1. Do vậy, V.I.Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng khi xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, khơng được qn trả lời câu hỏi có tính chất nguyên tắc:
dân chủ cho ai và vì cái gì; tự do đối với ai, vì ai và vì cái gì.
Với tư cách là một chế độ xã hội, dân chủ là một phạm trù lịch sử vì nó có sự
ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn nhất định và sẽ mất đi khi trong xã
hội không cịn giai cấp. Tính lịch sử của dân chủ với nghĩa là một chế độ xã hội còn
thể hiện qua quá trình hình thành, phát triển, vận động từ chỗ chưa có dân chủ đến
1
V.I.Lênin, Tồn tâp, T.37, Nxb. Tiến bộ, M.1980, tr. 76
3
có dân chủ, đến tồn tại, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa Mác – Lênin nêu rõ quá
trình phát triển của dân chủ là “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản
đến dân chủ vơ sản, từ dân chủ vơ sản đến khơng cịn dân chủ nữa1”.
Do vậy, hình thức của nền dân chủ là đa dạng vì chính thể của mỗi quốc gia
khơng chỉ chịu sự chi phối của thể chế chính trị mà còn chịu sự kiềm chế của các
điều kiện thực tế của các chính thể khác nhau 2. Khơng có mơ hình dân chủ và chế độ
chính trị chung cho mọi quốc gia, dân tộc.
Từ những tính chất nêu trên, khi xem xét bản chất dân chủ, chế độ dân chủ
khơng chỉ căn cứ vào tính giai cấp mà cịn phải đứng trên quan điểm lịch sử và phải
có thái độ biện chứng, khoa học đối với những thành tựu dân chủ với tính cách là
những giá trị mà lồi người đã đạt được trong tiến trình lịch sử. Chủ nghĩa Mác –
Lênin đã nhắc nhở giai cấp công nhân, các Đảng Cộng sản khơng nên nhấn mạnh
tính giai cấp, tính chính trị mà xem nhẹ tính lịch sử, giá trị nhân văn của dân chủ
(hoặc ngược lại); đồng thời, phải đứng trên quan điểm biện chứng để xem xét quá
trình phát triển của dân chủ với tư cách là một chế độ... có như vậy, mới tránh được
sự mơ hồ, duy ý chí, nóng vội, thậm chí là sai lầm và đổ vỡ chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm dân
chủ là của quý báu nhất của nhân dân 3. Đây là một trong những luận điểm nổi bật
trong tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dân chủ là "Làm sao cho dân
biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình dám nói dám làm 4".
Người nhấn mạnh: địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ 5, mọi quyền lực đều thuộc
về nhân dân, mọi lợi ích đều vì dân, mọi cơng việc đều do dân. Tư tưởng đề cao
1
V.I.Lênin, Toàn tập, T.33, Nxb. Tiến bộ, M.1976, tr.206
Xem: Khương Huy và Triệu Bồi Kiệt: Quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mác khoa học, Thông tin Những vấn đề lý
luận (phục vụ lãnh đạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), số 13 (7-2011), tr.36, 37
3
Hồ Chí Minh, Ttồn tập, tập 8, Nxb.Chính trị quốc gia,H.1996, tr.279
4
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, tr. 223
5
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, tr.515
2
4
nhân dân, hết lịng vì lợi ích nhân dân được Hồ Chí Minh coi như một chân lý. Theo
Người, dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ.
- Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ
Kế tục tư tưởng vì dân của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Trong thời kỳ Đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, dân chủ là mục
tiêu, là bản chất, là động lực phát triển đất nước. Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm
2011) khẳng định rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế
cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương
và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
… Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước của
cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”2.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), vấn đề dân chủ đã được
Đảng ta đưa vào chủ đề của Đại hội, đồng thời trở thành một mục độc lập trong phần
XIII của Báo cáo chính trị với tiêu đề: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”, đồng thời bổ sung thành tố “hoàn thiện,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân” trong mục tiêu,
nhiệm vụ của Đại hội3. Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc, đầy đủ của Đảng
không chỉ về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn về vai trò to lớn của
dân chủ, vì khơng phát huy dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân sẽ khơng
có chủ nghĩa xã hội.
Từ các cách tiếp cận trên, có thể hiểu: Dân chủ là một giá trị xã hội (giá trị
nhân văn) phản ánh những quyền cơ bản của con người; là một hình thức tổ chức
nhà nước của giai cấp cầm quyền, một chế độ chính trị xã hội mà ở đó những quyền
cơ bản của con người (tự do, bình đẳng, tơn trọng sự thống nhất trong đa dạng…)
2
Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 84-85
Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.166.
3
5
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ; đồng thời những quyền này được thể chế thành
các nguyên tắc (quyền lực thuộc về nhân dân, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, thiểu số phục tùng đa số, quyền tự do tư tưởng, ý chí, hành động, bầu cử tự do
và công bằng…) để quy định quyền lợi, trách nhiệm của nhân dân đối với nhà nước,
cộng đồng và ngược lại.
b) Lịch sử hình thành các nền dân chủ
- Nền dân chủ chủ nô
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của dân
chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi là “dân chủ quân sự”.
Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông
qua “Đại hội nhân dân”. Trong Đại hội này, nhân dân có quyền lực thật sự (nghĩa là có
dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất cịn kém phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và sau
đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền dân chủ chủ
nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước, nhà nước dân chủ chủ
nô (nhà nước Athen). Đặc trưng của nền dân chủ chủ nô là dân tham gia bầu ra Nhà
nước. Tuy nhiên, giai cấp chủ nô quy định: “Dân” chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần
nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và một số trí thức). Đa số cịn
lại khơng phải là “dân” mà là “nơ lệ” – họ không được tham gia vào việc bầu ra nhà
nước. Như vậy, về thực chất, nhà nước dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ
cho thiểu số, quyền lực của dân đã bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt.
- Nền dân chủ tư sản
Lịch sử loài người đã trải qua hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, song
“chế độ dân chủ phong kiến” đã không tồn tại. Với cách thức tổ chức quyền lực
của nhà nước, giai cấp phong kiến đã thủ tiêu những tiến bộ của nền dân chủ chủ
nơ trước đó, thiết lập nhà nước quân chủ của giai cấp mình.
Trước sự hà khắc của chế độ chuyên chế (quân chủ) phong kiến, nhân dân
(đông đảo là nông dân) đã đấu tranh phản kháng buộc giai cấp quý tộc phong kiến
6
phải thực thi một số yêu cầu dân chủ. Ở phương Tây, vào thế kỷ XIV – XVI, các trào
lưu tiến bộ của giai cấp tư sản mới xuất hiện đã nêu cao yêu cầu tự do, dân chủ (nhất
là trong lĩnh vực văn hóa, khoa học) mở đường cho sự ra đời của chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản gắn liền với sự hình thành của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình khẳng định dân chủ tư sản đồng thời cũng
là quá trình phủ định nền quân chủ, diễn ra từ thấp tới cao trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ hẹp đến rộng, nhằm xóa bỏ từng yếu tố phản dân chủ của chế độ
phong kiến, đi tới phủ định nền quân chủ (mặc dù chưa triệt để). Q trình khẳng
định và phủ định này khơng phải tự động, tự nhiên mà là quá trình đấu tranh giai cấp
quyết liệt của giai cấp tư sản và những đồng minh của nó nhằm xóa bỏ phương thức
sản xuất phong kiến, lật đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến. Nền dân chủ tư
sản được hình thành tương đối đầy đủ trong quá trình đấu tranh cách mạng tư sản
– một nấc thang quan trọng của tiến bộ lịch sử.
Dân chủ tư sản là một sự phát triển về chất, đó là bước phát triển nhảy vọt so
với nền chuyên chế, độc tài của chế độ phong kiến, quân chủ. Bình đẳng, bình
quyền, tự do cá nhân là nội dung nổi bật của dân chủ tư sản (những yếu tố chưa hề
có trong chế độ phong kiến). Giai cấp tư sản khơng những hình thành và hồn chỉnh
một nền dân chủ tư sản, mà còn xây dựng một hệ thống chính trị cùng với một hệ
thống thiết chế nhà nước nhằm bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản. Đặc trưng
cơ bản của nền dân chủ tư sản là xác lập nhà nước pháp quyền (nguyên tắc hoạt
động: tam quyền phân lập) và xã hội cơng dân (cơng dân có các quyền cơ bản và
quyền bầu ra nhà nước) dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu.
So với chế độ quân chủ phong kiến, dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn
của nhân loại (C.Mác). Tuy nhiên, để bảo vệ quyền thống trị về chính trị, kinh tế,
giai cấp tư sản đã thẳng tay sử dụng chuyên chính đàn áp các cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động. Hiện nay, để tồn tại, giai cấp tư sản buộc phải có
nhiều điều chỉnh, trong đó có việc mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân. Nhưng
điều đó khơng có nghĩa là dân chủ tư sản đã biến thành dân chủ “nhân dân”. Với
7
những giới hạn không thể vượt qua, nền dân chủ tư sản vẫn là dân chủ dành cho
thiểu số những người có của.
V.I.Lênin cho rằng, ngay trong giai đoạn phát triển nhất của nền cộng hịa dân
chủ tư sản thì chế độ dân chủ ấy vẫn bị giới hạn trong khn khổ chật hẹp của sự
bóc lột tư sản, thực ra, nó chỉ là chế độ dân chủ đối với thiểu số mà thôi.1
- Nền dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa)
Thắng lợi chính trị của cách mạng vô sản tháng Mười Nga (1917) và các cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa khác đã đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động từ
địa vị những người nơ lệ bị bóc lột và áp bức lên địa vị những người chủ của xã hội.
Chính quyền đã thuộc về tay giai cấp công nhân với tư cách là nhà nước kiểu mới, là
bộ máy quản lý và điều hành mọi hoạt động của xã hội để thực hiện quyền làm chủ
của những người lao động đã được giải phóng.
Việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, việc Đảng Cộng sản khẳng định trong thực tế vai trò lãnh đạo nhà nước và xây
dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa... là những tiền đề, nguyên tắc dẫn tới xác
lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ mới về chất, cao hơn so với nền
dân chủ tư sản và các nền dân chủ trước đó. Theo V.I.Lênin: Xơviết, tựu trung, là
một hình thức và một kiểu chế độ dân chủ vô cùng cao hơn, chính là vì nó tập hợp
được quần chúng cơng nơng và lơi cuốn họ tham gia sinh hoạt chính trị, nên đó là cơ
quan gần dân nhất2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện trong thắng lợi của cách
mạng chính trị giành chính quyền của giai cấp cơng nhân, gắn liền với sự ra đời của
nhà nước kiểu mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ này lại có một q
trình phát triển và hồn thiện cùng với quá trình lịch sử lâu dài mà giai cấp công
nhân, nhân dân lao động dựa trên nhà nước của mình để xây dựng thành cơng chủ
nghĩa xã hội.
1
V.I.Lênin, Toàn tâp, tập 37, Nxb. Tiến bộ, M.1980, tr. 76
V.I.Lênin, Toàn tâp, tập 35, Nxb. Tiến bộ, M.1980, tr.136-137
2
8
Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền lực của
nhân dân - tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã
hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Như vậy, với tư cách là một nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch sử có
ba chế độ (nền) dân chủ. Nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền
dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn
với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự
dân chủ hay khơng cịn phải xem trong nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế
độ xã hội ấy như thế nào.
1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình hình thành phát triển của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ
rõ: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự vươn
lên thành giai cấp dân tộc”1, phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy
quyền lực nhà nước và tổ chức quyền lực đó thành nhà nước dân chủ vô sản. Theo
hai ông, giai cấp cơng nhân giành được chính quyền là dấu mốc làm xuất hiện một
nền dân chủ mới, khác về chất so với các nền dân chủ trước đó – dân chủ vô sản.
Công xã Pari năm 1871 là mầm mống đầu tiên của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin viết: “Công xã dường như đã thay bộ máy nhà nước bị đập tan bằng một
chế độ dân chủ “chỉ” hoàn bị hơn mà thôi… từ chỗ là dân chủ tư sản đã biến thành
dân chủ vô sản, từ chỗ nhà nước (bằng lực lượng đặc biệt để trấn áp một giai cấp
nhất định) nó biến thành một cái gì thực ra không phải là nhà nước hiểu theo nghĩa
thực sự nữa”2.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917) vĩ đại với sự xuất hiện
nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – Nhà nước Xô viết, xây dựng nền
1
C.Mác, Ph.Ăngghen, Tồn tập, T.4, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, tr.624
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, M.1978, T.33, tr.52
2
9
dân chủ phục vụ lợi ích cho đa số người lao động – nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt
đầu ra đời.
Như vậy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ được xác lập sau khi giai cấp công
nhân thơng qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản giành được chính quyền,
tiến hành cải tạo và xây dựng xã hội mới thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa dưới các hình thức khác nhau.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền
dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng
cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải là nền dân chủ của thiểu số và cho
thiểu số bóc lột, có đặc quyền đặc lợi và muốn dành thêm đặc quyền, đặc lợi; ngược
lại, nó là nền dân chủ của đa số và vì đa số. Do đó, về ngun tắc, nó bài trừ đặc
quyền, đặc lợi và vì lợi ích của đa số nhân dân lao động, nó phải gạt bỏ những kẻ
đặc quyền, đặc lợi ra khỏi vị trí quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Bản thân nền dân chủ này cũng phát triển từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện. Nhưng càng hoàn thiện bao nhiêu, nó càng tự tiêu vong bấy nhiêu.
Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ
mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ
thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và
ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự
quản). Q trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh
hoạt xã hội... để đến lúc nó khơng cịn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ,
tức là mất đi tính chính trị của nó.
Như vậy, q trình tiêu vong của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với
quá trình làm sâu, rộng hơn các thành quả dân chủ, đưa nó lên những trình độ phát
triển mới, tiến dần tới dân chủ trọn vẹn, dân chủ hoàn toàn, phù hợp với xu thế phát
10
triển của nhân loại từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”. Đây là quá
trình lâu dài, khi xã hội đã đạt trình độ phát triển rất cao, xã hội khơng cịn sự phân
chia giai cấp, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức độ hồn thiện, khi đó dân
chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, khơng cịn
nữa.
Cho đến nay, sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chỉ trong một
thời gian ngắn, ở một số nước có xuất phát điểm về kinh tế, xã hội rất thấp, lại
thường xuyên bị kẻ thù tấn công, gây chiến tranh, do vậy, mức độ dân chủ đạt được
ở những nước này hiện nay còn nhiều hạn chế ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Ngược lại, sự ra đời, phát triển của nền dân chủ tư sản có thời gian cả mấy trăm
năm, lại ở hầu hết các nước phát triển (do điều kiện khách quan, chủ quan). Hơn
nữa, trong thời gian qua, để tồn tại và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần
điều chỉnh về xã hội, trong đó quyền con người đã được quan tâm ở một mức độ nhất
định (sự điều chỉnh này không ảnh hưởng nhiều đến lợi ích cơ bản của giai cấp tư
sản). Nền dân chủ tư sản có nhiều tiến bộ, song nó vẫn bị hạn chế bởi bản chất của
chủ nghĩa tư bản.
Để có một chế độ dân chủ thực sự quyền lực thuộc về nhân dân, ngoài yếu tố
giai cấp công nhân lãnh đạo (mặc dù là yếu tố quan trọng nhất), đòi hỏi cần nhiều
yếu tố như trình độ dân trí, xã hội cơng dân, việc tạo dựng cơ chế pháp luật đảm bảo
quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền tham gia vào các quyết sách
của nhà nước, điều kiện vật chất để thực thi dân chủ.
1.2.2. Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ vô sản là
đồng nghĩa (V.I.Lênin cịn dùng thuật ngữ: dân chủ xơ viết, chun chính vơ sản).
Đây là nền dân chủ mà ở đó dân chủ với nghĩa tồn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Điều đó trở thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội, thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
a) Bản chất chính trị
11
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là sự lãnh đạo chính trị của giai
cấp cơng nhân thơng qua chính Đảng của nó đối với tồn xã hội, nhưng không phải
chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà là để thực
hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, Đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi
ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc. Với nghĩa này, dân
chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân thơng qua Đảng Cộng sản đối với tồn xã hội về mọi mặt được V.I.Lênin
gọi là sự thống trị chính trị.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người làm
chủ những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham
gia vào bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý
kiến xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhân viên nhà
nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân
chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Bàn về quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh cũng
đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của
dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân 1… Chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, do đó về thực chất là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với các
cuộc cách mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đơng, vì lợi ích của
số đông nhân dân. Theo Hồ Chí Minh: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc
dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước.
Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng
cử, hễ là cơng dân thì đều có quyền đi bầu cử2. Quyền được tham gia rộng rãi vào
cơng việc quản lý nhà nước chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
1
Hồ Chí Minh, Tồn tập, T.6, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr 232
Hồ Chí Minh, Tồn tập, T.4, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, tr.133
2
12
V.I.Lênin còn nhấn mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ của đại
đa số dân cư, của những người lao động bị bóc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng
tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I.Lênin đã diễn đạt một
cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa: “Chế độ dân
chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu
lần”3.
Tóm lại, xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất
giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp
(giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên
(một đảng hay nhiều đảng); ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).
b) Bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ
sở khoa học và công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật
chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một q trình ổn định chính
trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Mác - Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế
của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như tồn bộ nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, nó khơng hình thành từ “hư vơ” theo mong muốn của bất kỳ ai. Nó
là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời
lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm… của các chế độ kinh tế trước đó,
nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột bất cơng… đối với đa số nhân dân.
3
V.I.Lênin, Toàn tâp, tập.37, Nxb. Tiến bộ, M.1977, tr.312
13
Dưới góc độ kinh tế, dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện là sự đảm bảo
về lợi ích kinh tế, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất
có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Lao động, việc làm và phân phối lợi ích
tương ứng với kết quả lao động là nội dung kinh tế của dân chủ, đây cũng là nội
dung mà quyền dân chủ được thể hiện một cách rộng rãi, trực tiếp. Do vậy, khác với
nền dân chủ tư sản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết
quả lao động là chủ yếu.
c) Bản chất tư tưởng - văn hóa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin (hệ tư tưởng của
giai cấp cơng nhân) làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã
hội mới. Đồng thời, nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống của
các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà
nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc… Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hố tinh thần; được nâng cao trình
độ văn hố, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này, dân chủ là một
thành tựu văn hoá, một quá trình sáng tạo văn hố, thể hiện khát vọng tự do được
sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đời sống tư tưởng - văn hóa rất phong
phú, đa dạng, tồn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, trở
thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và nó khác với
nền dân chủ tư sản về hệ tư tưởng chủ đạo (hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và hệ
tư tưởng của giai cấp tư sản)
Từ những căn cứ trên, có thể thấy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời sau nền
dân chủ tư sản, trên cơ sở kế thừa những giá trị của dân chủ tư sản, với mục đích đem
lại quyền lực thực sự cho nhân dân, tạo điều kiện, cơ chế để người dân thực hiện được
quyền và nghĩa vụ công dân đối với nhà nước và ngược lại, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải là nền dân chủ tiến bộ nhất trong lịch sử các nền dân chủ.
2. XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
14
2.1. Những yếu tố tác động tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
2.1.1. Những yếu tố thuận lợi
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ra đời từ khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền, là kết quả trực tiếp của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và phát triển trong những điều kiện kinh tế, xã hội đặc
biệt. Bước vào xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những thuận lợi
cơ bản:
Một là, học thuyết Mác – Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở
lý luận và phương pháp luận để xây dựng nền dân chủ và thực hiện q trình dân
chủ hóa ở Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh; góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân
Hai là, kế tục những giá trị của dân chủ trong lịch sử Việt Nam đã được xây
dựng ngay từ buổi đầu dựng nước và nâng lên một chất lượng mới trong thời đại Hồ
Chí Minh. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đất nước độc lập,
thống nhất, nhân dân được tự do và trở thành người chủ đất nước, được tự quyết
định vận mệnh và tương lai của mình.
Ba là, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã
mang lại nhiều thuận lợi rất quan trọng khi xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ người bóc lột
người; bỏ qua sự thống trị của một nhóm người đối với đa số nhân dân lao động.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện
có Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là lực lượng duy
nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
15
Kế tục tư tưởng vì dân của Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương xây dựng chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Nhà nước ta thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực, tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân. Hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội được thiết lập từ trung ương tới địa
phương là cơ sở bảo đảm cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây
dựng là lực lượng đơng đảo những người lao động được giải phóng đã vào vị trí người
chủ của chế độ mới, nịng cốt là khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức. Đây chính là những cơ sở quan trọng, những thuận lợi cơ bản
trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1.2. Những yếu tố cản trở
Một là, vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, những thành quả mà cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại là một bước ngoặt lớn lao trong việc
hình thành và phát triển nền dân chủ ở nước ta. Song một đất nước vừa thoát khỏi
chế độ thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân đang lãnh đạo chính quyền
phần lớn đều xuất thân từ nơng dân, vì thế khơng tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi những
tàn tích tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ.
Hai là, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bên cạnh
những thuận lợi nêu trên, cũng có nghĩa là xã hội nước ta chưa trải qua nền dân chủ
tư sản có lịch sử từ nhiều thế kỷ xây dựng và phát triển, với pháp quyền tư sản, nhà
nước pháp quyền và xã hội công dân. Nền dân chủ tư sản dù mang bản chất tư sản,
dù phục vụ chủ yếu cho giai cấp tư sản thống trị, nhưng nó cũng tạo ra mơi trường
đào luyện con người ngày càng ý thức được vai trò của cá nhân, tầm quan trọng của
học vấn, học thức và văn hoá đối với sự phát triển. Mơi trường xã hội đó cũng rèn
luyện cho con người những thói quen, những năng lực cần thiết thích ứng với những
địi hỏi pháp lý và nhân văn của dân chủ.
16
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản, việc xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta gặp phải khơng ít những khó khăn trở ngại. Ý thức
hệ phong kiến cịn ăn sâu vào xã hội, một xã hội mà nông dân còn chiếm đa số trong
dân cư; một xã hội nông nghiệp cổ truyền lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa phát
triển, phân cơng lao động trong xã hội cịn giản đơn và hạn chế. Tàn tích của ý thức
hệ phong kiến của người nông dân với những hạn chế như: tâm lý cục bộ địa
phương; tư tưởng cào bằng, đẳng cấp; dân chủ tự phát ... dễ làm triệt tiêu tính tích cực
cá nhân, triệt tiêu động lực phát triển. Không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam
thiếu tri thức khoa học và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Nguồn nhân lực của chúng ta
bị hạn chế về sự am hiểu, tinh thông nghiệp vụ, chuyên môn do chưa có chun mơn
hố sâu. Cùng với hạn chế đó, mặt bằng dân trí của xã hội cịn thấp, kết cấu hạ tầng
vật chất - kỹ thuật còn rất lạc hậu và chậm phát triển, thông tin đến với người dân cịn
chậm và khơng đầy đủ, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc miền núi,
vùng hẻo lánh xa xôi.
Ba là, cùng với những hạn chế do nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, sự tác động của cơ chế thị trường, sự đan xen giữa cái mới và cái cũ
làm nảy sinh nhiều vật cản trên con đường tiến tới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Những vật cản trở đó là: Trình độ phát triển dân chủ cịn thấp và chưa đầy đủ, hệ
thống pháp luật thiếu và không đồng bộ, chưa tạo ra được khung pháp lý và cơ chế
đủ mạnh để thực hiện dân chủ. Sự suy thối, biến chất của một bộ phận khơng nhỏ
cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức quyền; tệ tham nhũng, buôn lậu đã trở
thành quốc nạn. Bệnh quan liêu diễn ra khá phổ biến ở các cấp, các ngành đã gây nỗi
bất bình trong các tầng lớp nhân dân. Nhiều luật được ban hành nhưng việc chấp
hành luật không nghiêm từ một bộ phận công dân, việc thi hành luật không công
minh của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan hành pháp và tư pháp đã làm cho
hoạt động của bộ máy Nhà nước kém hiệu lực và hiệu quả. Tệ ô dù bao che cho kẻ
xấu, khiếu kiện của người dân chưa được xem xét đầy đủ và kịp thời đã làm giảm
lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ,
tình trạng ấy sẽ làm cho dân chủ biến thành "Quan chủ", quyền được uỷ thác đã biến
17
thành quyền bị chiếm đoạt, quyền làm chủ của nhân dân đã biến thành quyền của
những ai nắm được chức quyền. Tất cả những khó khăn đó gây ảnh hưởng không
nhỏ tới việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2. Phương hướng và giải pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất: Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ ở
các quốc gia trên thế giới. Một mặt phải nghiên cứu sâu, có tính hệ thống lý luận về
dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa trong kho tàng chủ nghĩa Mác – Lênin, mặt khác,
làm rõ giá trị hợp lý của các nền dân chủ khác để kế thừa, học hỏi.
Đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cơ sở khoa
học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của nhân loại được biểu hiện trong
chủ nghĩa tư bản. Phải làm rõ sự phát triển trình độ dân chủ của văn minh nhân loại
được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản chứ không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa
tư bản. Một số giá trị của dân chủ tư sản cần thiết cho thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam không tiếp thu bản chất giai cấp của dân chủ
tư sản, nhưng tiếp thu, học tập các hình thức thực hiện để đảm bảo quyền lực nhà
nước thực sự thuộc về nhân dân.
Thứ hai: Trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, cần phân biệt dân chủ
xã hội chủ nghĩa với tư cách là chế độ dân chủ đầy đủ của chế độ xã hội chủ nghĩa
đã phát triển tương đối toàn diện với dân chủ trong giai đoạn (thời kỳ) quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đây là hai trình độ phát triển khác nhau của xã hội, với các đặc
điểm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội khác nhau. Do đó, đặc điểm, tính chất, hình
thức thực hiện cũng khác nhau. Trong thời kỳ quá độ, nước ta tồn tại nhiều hình thức
sở hữu khác nhau, cơ cấu xã hội, quan hệ giai cấp đa dạng, phức tạp; từ đó cũng dẫn
đến sự đa dạng về nhu cầu dân chủ.
18
Thứ ba: Cần hiểu đúng bản chất của mối quan hệ dân chủ và nhất nguyên
chính trị, thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng lãnh đạo.
Hiện nay không ít ý kiến cho rằng ở Việt Nam phải đa đảng mới có dân chủ.
Họ viện dẫn rằng do kinh tế có nhiều thành phần thì chính trị phải có đa đảng. Việc
xem xét mối quan hệ giữa kinh tế nhiều thành phần với kết cấu kiến trúc thượng tầng
chính trị, có thể khẳng định rằng nền kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết
(không tất yếu) dẫn đến kiến trúc thượng tầng chính trị đa đảng, có đảng đối lập, bởi
vì, trong thực tế lịch sử đã có những thời kỳ nền kinh tế nhiều thành phần không làm
nảy sinh chế độ chính trị đa đảng.
Vấn đề đa đảng hay một đảng là tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
mỗi nước trong từng giai đoạn, vai trò của từng thành phần kinh tế trong đời sống xã
hội, tương quan lực lượng giai cấp, quy định của Hiến pháp và pháp luật của mỗi
nước, uy tín và sức mạnh của đảng cầm quyền, quan niệm về dân chủ và ảnh hưởng
của các nhân tố bên ngoài, v.v... Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc
khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất
của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng mà thể hiện ở
việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào
những mục đích gì trên thực tế. Khơng nên chỉ xem xét chế độ đa đảng hay một
đảng làm căn cứ duy nhất để đánh giá tính chất và trình độ của dân chủ.
2.2.2. Giải pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
a) Xây dựng mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên ba trụ cột
chính: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân.
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,
thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình doanh nghiệp trong nền
19
kinh tế. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các tài sản mới như sở
hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu… quy định rõ, quyền trách nhiệm của các chủ sở hữu
đối với xã hội.
- Thể chế môi trường kinh doanh cũng như thể chế kinh tế nói chung chỉ phát
huy tác dụng có hiệu quả khi tạo được sự đổi mới triệt để nhận thức đúng đắn của xã
hội về vai trò quan trọng của thể chế. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện thể chế
phải được tiến hành đồng bộ cả ba khâu: i) ban hành văn bản, quy định của thể chế;
ii) xây dựng cơ chế vận hành, thực thi thể chế trong hoạt động kinh doanh cụ thể; iii)
hoàn thiện tổ chức bộ máy theo dõi, giám sát việc thi hành thể chế, xử lý vi phạm và
tranh chấp trong thực thi thể chế. Trong khi triển khai đồng bộ thể chế mơi trường
kinh doanh phải tập trung cải cách hành chính, từ bộ máy hành chính đến thủ tục
hành chính để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đúng pháp luật.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Sớm hình
thành việc rà sốt, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh phù
hợp với Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, để hồn thiện thể chế mơi trường kinh
doanh dân chủ, cần tập trung khắc phục thực trạng yếu kém của một số văn bản luật
pháp. Đổi mới, hoàn thiện các quy định về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, về
ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Thực hiện nhất quán cơ chế giá
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Thứ hai, xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
- Xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật làm cơng cụ điều chỉnh các quan hệ
xã hội cơ bản. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy
trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi
để đưa nhanh vào cuộc sống. Tăng tính ổn định, bền vững của pháp luật.
- Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là biện pháp để hạn chế
sự lộng quyền, lạm quyền và là cơ sở khách quan yêu cầu phải có cơ chế, phương
thức kiểm sốt, giám sát quyền lực nhà nước. Kiểm soát, giám sát cả từ các nhánh
quyền lực lẫn nhau, cả từ nhân dân và các tổ chức của nhân dân. Ở đây, nhân dân
20
vừa ủy quyền, vừa kiểm soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các quyền
mà mình đã ủy thác.
Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, áp dụng các hình thức
thưởng phạt nghiêm minh đối với người được ủy quyền. Cán bộ, công chức cần
được giáo dục tốt, nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ; vinh dự với vị trí cơng
tác của mình được nhân dân giao phó, lường trước được hậu quả bất lợi khi vi phạm
lợi ích chính đáng của nhân dân... để họ có năng lực tự điều chỉnh hành vi, thực hiện
đúng chức trách được giao, phục vụ lợi ích của nhân dân.
- Hoàn thiện thể chế bầu cử theo nguyên tắc dân chủ. Bầu cử là phương thức để
quyền lực nhà nước được thiết lập bởi nhân dân và nhân dân tự thực hiện sự ủy quyền
của mình. Bầu cử có liên hệ mật thiết với dân chủ, bầu cử tự do và công bằng là
phương thức bảo đảm cho việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ. Trong một nền dân
chủ, quyền lực nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của người dân. Cơ chế
căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do,
công bằng.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, quyền bầu cử phải gắn chặt với quyền bãi
miễn đại biểu khi khơng cịn xứng đáng – đó là phương thức hữu hiệu để kiểm soát
quyền lực nhà nước.
- Phát huy dân chủ, thực hiện cạnh tranh trong bầu, bổ nhiệm cán bộ. Về
ngun tắc, ở Việt Nam khơng có sự cạnh tranh đảng phái, nhưng cần thiết có sự
cạnh tranh giữa các đảng viên trong việc tranh cử vào các vị trí lãnh đạo của Đảng ở
các cấp; cạnh tranh giữa đảng viên với người không phải đảng viên vào vị trí lãnh
đạo một số cơ quan nhà nước các cấp. Cạnh tranh là một hình thức biểu hiện cụ thể,
sinh động của dân chủ. Có quy định cạnh tranh cơng khai, minh bạch sẽ hạn chế tình
trạng cạnh tranh khơng công khai, cạnh tranh ngầm trong lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ.
Cạnh tranh là hình thức phát hiện và phát huy năng lực cán bộ tối ưu hơn sự phát
hiện và giới thiệu của tổ chức. Bởi, khi tổ chức giới thiệu nhân sự, cá nhân được giới
thiệu khơng hồn thành nhiệm vụ nhưng cả cá nhân và tổ chức khơng ai chịu trách
nhiệm về sự giới thiệu. Cịn khi có sự cạnh tranh, tự ứng cử, cá nhân ứng cử chịu
21
trách nhiệm trước tổ chức và cử tri về năng lực, hiệu quả hoạt động của mình. Mặt
khác, nhờ thực hiện cạnh tranh, tổ chức Đảng và nhân dân có cơ hội để kiểm tra,
giám sát tính hiệu quả trong hoạt động của các vị trí trên. Đây có thể coi là hình thức
mới của thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Không nên cho rằng, cạnh tranh sẽ dẫn đến mất đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Bởi, để cạnh tranh, Đảng cũng phải ban hành các quy chế, điều kiện cạnh tranh. Cá
nhân tham gia cạnh tranh phải tuân theo quy chế như điều lệ Đảng.
- Nghiên cứu phân định quyền lực chính trị của Đảng với quyền lực công của
Nhà nước và quyền lực tối cao của Nhân dân. Hiện nay, ngồi quyền lực cơng của
Nhà nước đã được quy định khá cụ thể trong Hiến pháp 2013 thì quyền lực chính trị
của Đảng, quyền lực tối cao của Nhân dân chỉ được quy định khá chung chung. Yêu
cầu đặt ra phải xác định cụ thể, luật hóa nội dung, phạm vi, phương thức lãnh đạo
của Đảng, vai trò làm chủ của Nhân dân để mỗi chủ thể thực hiện đúng vai trị của
mình theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Tổng kết thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn để có thể nhân rộng những yếu tố hợp lý, điều chỉnh
những quy định không phù hợp. Hiện nay, cần tổng kết kinh nghiệm thực hiện dân
chủ ở cơ sở để mở rộng phạm vi, mức độ ở cấp cao hơn, rộng hơn, nhất là trong thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân
- Ban hành quy định, thí điểm tổ chức thực hiện bầu cử trực tiếp Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã, phường tại một số địa phương nhiệm kỳ 2016 – 2020, sau đó
tổng kết rút kinh nghiệm.
- Hồn thiện thể chế chính trị đáp ứng yêu cầu của xây dựng, thực hiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong tình hình mới. Trước hết, phải xây dựng
một bộ máy nhà nước đủ mạnh để vận hành có hiệu quả các chuẩn mực dân chủ đã
được thể chế hố; có một đội ngũ cán bộ ngang tầm địi hỏi của một thể chế dân chủ,
họ thực sự là những người gần dân, thân dân, vì dân.
Thứ ba, củng cố, phát triển cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
22
Hiện nay, trong các văn kiện, Đảng ta đã xác định cơ sở kinh tế, cơ sở chính
trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vận hành đồng bộ,
cần thống nhất nhận thức cơ sở xã hội - đó là các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp
pháp của nhân dân. Hình thức tồn tại của tổ chức này là các hội, hiệp hội, câu lạc
bộ, nhóm xã hội. Yêu cầu các tổ chức này không trái với các quy định pháp luật,
thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Chức năng các tổ chức này vừa đáp ứng nhu
cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vừa tham gia các hoạt động cộng đồng.
Có lộ trình cụ thể thể chế hóa các quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp 2013
thành các quy định pháp luật cụ thể. Rút kinh nghiệm nhiều Hiến pháp trước đây, có
quy định về các quyền tự do, dân chủ của công dân, nhưng các cơ quan nhà nước
khơng thể chế hóa các quyền đó thành các luật cụ thể; từ đó, người dân khơng được
hưởng các quyền làm chủ trên thực tế.
b) Nâng cao dân trí, văn hóa pháp luật cho tồn thể xã hội (cán bộ đảng viên,
công chức, viên chức, nhân dân…).
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Trước hết, nhân dân cần hiểu (nhận
thức được) mình có những quyền gì cả ở tầm tổng quát, lâu dài, lẫn quyền cụ thể. Đó
mới là thơng tin về chủ thể. Để có dân chủ, cịn cần có thơng tin về khách thể: đó là
cái gì, tình hình gì đã diễn ra, sự biến đổi của tình hình đó, tác động của sự biến đổi
ấy tới môi trường xã hội và tự nhiên, những thơng tin khác nhau về các vấn đề đó.
Đây chính là những thơng tin “đầu vào” để chủ thể quyền lực – Nhân dân - có thể
phân tích, phát hiện tình huống có vấn đề nhằm tham gia giám sát, phản biện, đề
xuất giải pháp...
Để dân “hiểu” rõ mọi vấn đề, họ cần có cơ hội tiếp cận thơng tin như nhau, bình
đẳng về thơng tin (trừ những thơng tin mật hoặc tuyệt mật) là điều kiện đầu tiên bảo
đảm dân chủ khi tranh luận, thảo luận, tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của
cuộc sống. Muốn vậy, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước là phải nâng cao dân trí, phải
làm cho hoạt động của nhân dân mang tính tự giác ngày càng cao thơng qua cơng tác
tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục. Sức mạnh thật sự của chế độ, của Đảng cầm quyền,
của Nhà nước thể hiện ở trình độ dân trí cao, xã hội năng động, người dân biết phát
23
huy tối đa năng lực của mình. Tất cả những điều đó chỉ trong chế độ dân chủ mới có
khả năng tạo ra được. Không dựa trên cơ chế dân chủ thì khơng có một thứ pháp
luật, đạo đức hay cơng cụ nào có thể ngăn chặn hữu hiệu sự thao túng của các nhóm
lợi ích, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Chất lượng dân chủ của một xã hội phải được đo bằng sự chuẩn bị thông tin,
cung cấp thông tin đầy đủ cho nhân dân để nhân dân được biết. Khi dân trí được nâng
lên, nhân dân sẽ tham gia bàn bạc các công việc của xã hội, đất nước.
c) Thực hành dân chủ trong Đảng làm trung tâm để thực hiện dân chủ ngoài
xã hội.
- Đảng cần tiếp tục đổi mới công tác lý luận, tư tưởng, tổ chức cán bộ, kiểm
tra, phương thức lãnh đạo theo hướng mở rộng dân chủ hơn nữa. Đảng phải thường
xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, chăm lo cơng tác cán bộ;
nâng cao trình độ trí tuệ và chất lượng cơng tác lý luận với sức sáng tạo cao. Đường
lối, chủ trương, chính sách phải ln ln xuất phát từ lợi ích của nhân dân, không
giáo điều, bảo thủ.
- Đảng phải thật sự thấm nhuần dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ; tránh
dân chủ hình thức. Đảng phải giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch
Đảng và chống tham nhũng, lãng phí. Hiện nay, đang có những biểu hiện tiêu cực
xuất hiện trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến niềm
tin của Nhân dân đối với Đảng, phá hoại quan hệ máu thịt giữa Đảng và Nhân
dân.
- Cùng với việc chủ động nâng cao đạo đức trong Đảng, phải rất coi trọng
việc nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng và thu hút được nhiều nhân tài vào Đảng;
đề phịng tính kiêu ngạo cộng sản, biết lắng nghe ý kiến, kể cả những ý kiến trái
tai.
- Thực hiện tốt “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân”. Đây là điểm mấu chốt để tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng và
Nhân dân.
24
C. CÂU HỎI THẢO LUẬN
Vì sao V.I.Lênin khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đầy đủ
hơn, tốt đẹp hơn và cao hơn gấp triệu lần so với dân chủ tư sản?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy làm rõ bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa? Liên hệ với nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
2. Làm rõ những thuận lợi, khó khăn và định hướng xây dựng, hồn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay? Đồng chí có đề xuất, kiến nghị gì với
Đảng, Nhà nước để tiếp tục hoàn thiện và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay?
E. TÀI LIỆU
Tài liệu bắt buộc
1.V.I.Lênin, Toàn tập, T.33, Nxb. Tiến bộ M. 1981: phần Nhà nước và cách
mạng, tr. 123-330.
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, T.5, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr. 698, 158,
84, 85.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia,
H.2011, tr.19-21.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2016.
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Trung Hiếu: Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện
nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004
2. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên): Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ công cuộc đổi
mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2015, tr.136-238.
25