Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.58 KB, 31 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>VƯƠNG QUỐC ANH ĐẤT NƯỚC – CON NGƯỜI Phần I. TÁC GIẢ: JAMES O’ DRISCOLL.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Contents Lời giới thiệu..............................................................................................................3 I. ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI ..........................................................................6 Về mặt địa lý ..........................................................................................................6 Về mặt chính trị......................................................................................................6 Bốn quốc gia ..........................................................................................................8 Một số thông tin khác liên quan đến người dân ở cả 4 vùng lãnh thổ.......................8 Hình ảnh John Bull ..............................................................................................10 Thế độc tôn của England......................................................................................11 Lòng tự tôn dân tộc ..............................................................................................12 The Union Jack ....................................................................................................13 2. LỊCH SỬ ..............................................................................................................14 Stonehenge ...............................................................................................................14 Bức tường Hadrian...................................................................................................15 Giai đoạn La Mã ......................................................................................................15 Sự xâm lược của người Đức (410 – 1066). .........................................................16 Vua Arthur............................................................................................................17 Vua Alfred ............................................................................................................17 1066......................................................................................................................18 Giai đoạn trung Cổ ( 1066 – 1485) ..........................................................................18 Ngôn ngữ và tầng lớp...........................................................................................20 Robin Hood ..........................................................................................................20 By Macchiato. Page 1.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Cuộc chiến hoa hồng............................................................................................20 Đầu rơi máu chảy.................................................................................................21 Thế kỷ 16..................................................................................................................21 Elizabeth I ............................................................................................................22 Vua Henry VIII ....................................................................................................23 Thế kỷ 17..................................................................................................................23 Ring – a – ring – a – roses....................................................................................25 Thế kỷ 18..................................................................................................................25 Thế kỷ 19..................................................................................................................27 Ghánh nặng của ngừoi da trắng ...........................................................................29. By Macchiato. Page 2.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> Lời giới thiệu Cuốn sách này dành cho: Người nước ngoài học tiếng Anh, từ trình độ trung cấp (Intermidiate) trở lên, cũng như những ai muốn tìm hiểu về đất nước Anh. Đây sẽ là tài liệu vô giá cho các khóa học về Anh và học viên nghiên cứu văn hóa Anh. Cuốn sách này dành tặng cho tất cả những ai hiểu rằng, kiến thức về đất nước rất cần thiết cho việc nâng cao hiểu biết và kỹ năng sử dụng Anh ngữ. Đã bao lần bạn bắt gặp một cụm từ tiếng Anh mà không thể hiểu hết ý nghĩa cụm từ đó, cho dù đã dùng từ điển? Đã bao l ần bạn hiểu hết từng từ từng chữ trong câu nói của một người Anh, nhưng lại không thể hiểu ý họ là gì? Ở bất cứ nền văn hóa nào, luôn có những điều mà người nói, người viết không biểu đạt hay không giải thích, bởi họ mặc định rằng người nghe, người đọc có chung những hiểu biết nền về văn hóa đó. Mục đích của cuốn sách này chính là lấp đầy những khoảng trống văn hóa này, sao cho mỗi khi nghe hay đọc điều gì đó, b ạn có thể đến gần hơn vị trí của một người Anh. Tất nhiên, bạn khó có thể hoàn toàn có khả năng của một người bản ngữ. Họ có những trải nghiệm, những sự ảnh hưởng từ khi mới được sinh ra. Bởi vậy, cuốn sách này cũng xét đến nguồn gốc một số sự việc, để bạn có thể có được cái nhìn tổng quan về đời sống Anh. Cuốn sách này nói về điều gì? Cuốn sách này cung cấp tất cả những thông tin cơ bản cần thiết về cơ cấu hệ thống chính trị, cũng như m ột số khía cạnh khác của đời sống nước Anh. Không chỉ vậy, sách cũng đề cập đến rất nhiều những vấn đề khác. Xuyên suốt cuốn sách này là cái nhìn rất đặc trưng của người dân Anh. Đây là một phần kiến thức rất quan trọng, bởi lẽ người Anh sử dụng những quan điểm, cái nhìn của mình để tô màu cho ngôn ngữ của họ. Chẳng hạn, để có thể hiểu cách dùng từ “Catholic”, bạn không chỉ phải biết vị trí pháp lý của tôn giáo này,. By Macchiato. Page 3.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> có bao nhiêu giáo hội tất cả, mà còn phải biết được nhìn chung, Công giáo có vị trí như thế nào trong đời sống tâm linh của người dân, cũng như các tôn giáo khác trên đ ất nước có quan điểm ra sao về các tôn giáo còn lại. Vì là một vấn đề quan trọng, nên Quan điểm là vấn đề được trình bày ở 2 chương, trong đó có: Quan điểm của người Anh về chính mình (chương 4), và quan điểm của người Anh về một số khía cạnh đời sống (chương 5). Tất cả những thông tin trong cuốn sách đều được đưa ra bởi 2 lí do. Ví dụ như cờ Union Jack (trang 13), là 1 phần kiến thức xã hội liên quan đến người Anh. Ví dụ như hiểu biết về hệ thống quốc hội kép chưa được phổ biến lắm, sẽ làm rõ cho những cái nhìn bao quát hơn. Đây không phải một cuốn bách khoa toàn thư. Vương Quốc Anh cũng có những điểm giống với các quốc gia khác, ở đây chỉ đề cập đến những điểm khác biệt. Sử dụng cuốn sách này: Ngoài những thông tin chính, ở mỗi chương đều có thông tin bổ sung, được trình bày ở nhiều dạng khác nhau( bảng, biểu, dạng chữ hay tranh ảnh v..v), sắp xếp ở nhiều chỗ khác nhau. Có đôi chỗ bạn sẽ thấy biểu tượng để chỉ đến một mục thông tin khác, nhằm làm rõ, bổ sung thêm thông tin hoặc trình bày thông tin liên quan tới điều đã nêu ở thông tin chính. Người đọc cũng có th ể đọc hai nguồn thông tin này một cách riêng lẻ. Trong khi đọc, nhớ rằng các thông tin đều liên quan đến nhau. Chẳng hạn, (trang 10) nói rẳng thánh Andrew là thần hộ mệnh của Scotland, đây là một sự thật bất di bất dịch. Tuy vậy, một số thông tin về các lĩnh v ực đời sống khác lại không có tính cố định như vậy. Lấy ví dụ như cuốn sách này có đề cập đến tầm quan trọng của sự riêng tư trong đời sống mỗi người Anh. Đây không phải là sự thật chung, mà chỉ là một kết luận rút ra từ những sự thật mà thôi. Tất nhiên, nhận định đó có thể là phiến diện, trong khi đa số nhận định về người Anh như vậy, cũng có nh ững nhận định khác với cùng một hoàn cảnh thực tế.. By Macchiato. Page 4.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Lưu ý v ề thuật ngữ Trong cuốn sách này, người đọc có thể gặp các từ như nhà nước, dân tộc, hay đất nước, tuy có ý nghĩa tương đương, nhưng không đư ợc dùng thay thế lẫn nhau. Nhà nước là từ mang ý nghĩa liên quan đ ến chính trị, để chỉ một cơ quan chính phủ. Từ dân tộc dược dùng khi nói đến người Anh(English), người Scotland, người xứ Welsh, hay người Ai-ơlen, đặc biệt khi muốn nhấn mạnh ý thức dân tộc. Từ đất nước được dùng với nghĩa rộng hơn, để chỉ người dân, chính phủ hay Vương Quốc Anh nói chung.. By Macchiato. Page 5.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> I.. ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI. Cuốn sách này nói về Vương Quốc Anh. Nhưng đâu mới thật sự là Vương Quốc Anh? Người Anh là ai? Bảng sau đây sẽ minh họa rõ hơn cho vấn đề này. Bạn có thể cho rằng với bóng đá quốc gia, mỗi nước một đội. tuy nhiên, với Vương Quốc Anh thì hoàn toàn khác. Cứ mỗi môn thể thao hay sự kiện thể thao, đều có những đội tuyển quốc gia khác nhau, được gọi là “Anh Quốc”( British). Chương sách này sẽ giai thích về điều này cũng như những cái tên quốc gia khác nhau khi người ta nhắc đến Anh. Về mặt địa lý Nằm về phía bờ biển Tây Bắc của châu Âu, có hai hòn đảo lớn và một số đảo nhỏ hơn, được gọi chung là British Isles. Trong hai đảo lớn nhất đó, một là Great Britain, đảo còn lại nhỏ hơn được gọi là Ireland. ( The British Isles). Các đội tuyển quốc gia của British Isles trong một số môn thể thao England Olympic. Wales. Scotland. Northern ireland. Scotland Scotland Scotland. Ireland Ireland Northern ireland. United Kingdom. Cricket England Rugby union England Football England. Wales Wales. Irish republic Irish Republic. Irish Republic. Về mặt chính trị British Isles được chia thành 2 nhà nước. Một quản lý hầu khắp đảo Ireland, thường được gọi là cộng hòa Ireland. Nhà nước thứ 2 cai quản phần còn lại của British Isles, bao gồm toàn bộ Great Britain, phía Bắc Ireland, và các đảo nhỏ lân cận. Đây cũng chính là ph ần lãnh thổ mà cuốn sách này tập trung nghiên cứu, với tên chính thức là: Vương Quốc Anh. By Macchiato. Page 6.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> và Bắc Ai – ơ – len, mặc dù người ta thường dùng cái tên ngắn gọn hơn để chỉ đất nước này. Chẳng hạn như khi tới cuộc thi Tiếng Hát truyền hình châu Âu, với Liên Hợp Quốc, với quốc hội Châu Âu, nước này được gọi là Vương Quốc Anh. Trong văn nói hàng ngày thì được gọi là UK, một số văn bản khác lại coi đây là “Great Britain”, ví dụ như khi vận động viên lên nhận huy chương ở thế vận hội Olympics. Cái tên “Britain” là cái tên chung được dùng khi nói và viết, không phân biệt trang trọng hay không trang trọng. Tính từ của UK là “British”.. Lãnh thổ do nhà nước quản lý Hai phần lãnh thổ nhỏ của British Isles có chế độ chính trị đặc biệt là quần đảo Channel và Isle of Man. Mỗi vùng lãnh thổ đều có chính phủ riêng biệt hoàn chỉnh, bao gồm quốc hội và hệ thống thuế. Cả hai đều chịu sự quản lý của phó toàn quyền do nhà nước Anh chỉ định. Một số cái tên lịch sử và văn học Albion là cái tên văn học hoa mỹ được dùng để chỉ nước Anh (England). Từ này có thể bắt nguồn từ “albus”, nghĩa là trắng. Từ miền đất châu Âu, băng qua đại dương, những vách đá vôi trắng quanh Dover trên bờ biển phía Nam là phần đất đầu tiên của Anh mà người ta có thể nhìn thấy. Britainia là cái tên mà người La mã đặt cho vùng phía Nam vương quốc Anh( hầu hết toàn bộ England hiện nay). Đây cũng là tên để gọi người phụ nữ biểu tượng cho đất nước Anh, luôn luôn xuất hiện với chiếc mũ trên đ ầu, tay cầm cây trượng đinh ba( biểu tượng của quyền lực trên biển) bởi vậy mới có bài hát bắt đầu bằng “ thống trị Britania, Britania thống trị những cơn sóng”. Hình ảnh của Britania đã đư ợc in ở mặt sau của đồng tiền xu Anh trong suốt 300 năm qua.. By Macchiato. Page 7.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Bốn quốc gia Nhiều người thường gọi vương quốc Anh bằng những cái tên khác. Cái tên “England” thật sự không đúng chút nào, và có thể gây phản cảm. England chỉ là một trong 4 nước thuộc British Islés( England, Scotland, Wales và Ireland). Sự thống nhất về mặt quốc gia này là một cả một quá trình kéo dài vài trăm năm (xem chương 2). Quá t rình kết thúc vào cuối năm 1800, khi quốc hội Ireland sáp nhập vào quốc hội chung của England, Scotland, và Wales ở Westminster, từ đó toàn bộ British Isles trở thành một nhà nước duy nhất – Vương Quốc Anh và Ireland. Tuy vậy, năm 1922, hầu hết Ireland tách riêng độc lập. Đã từng có khoảng thời gian bốn quốc gia này có sự khác biệt ở hầu hết tất cả các mặt đời sống. Đầu tiên, đó là sự khác biệt về chủng tộc. Người Ai ơ len, xứ Wales và người thuộc vùng cao ở Scotland chủ yếu có gốc Đức. Sự khác biệt này được thể hiện qua ngôn ngữ. Người vùng biển Xen tic nói tiếng Xen tíc: tiếng Ai ơ len, tiếng Scotland và tiếng Wales. Người thuộc vùng Đức nói tiếng Đức(trong đó có hệ tiếng phát triển thành tiếng Anh ngày nay). Các quốc gia này cũng có khuynh h ướng khác nhau cả về hệ thống kinh tế cũng như chính trị. Ngày nay, những ranh giới đó đã trở nên mờ nhạt, tuy vậy, cũng chưa mất đi hoàn toàn. Chỉ có một chính phủ duy nhất quản lý cả Vương Quốc Anh, người dân cũng được cấp chung một loại hộ chiếu, không phân biệt đến từ vùng lãnh thổ nào. Mặc dù vậy, vẫn có một số điểm khác biệt trong hệ thống chính quyền của bốn nước. Không những thế, người dân Ai ơ len, Scotland và xứ Wales đều có lòng tự tôn dân tộc rất cao. Một số hình ảnh khác của đặc trưng dân tộc Một số thông tin khác liên quan đến người dân ở cả 4 vùng lãnh thổ. Tên gọi. By Macchiato. Page 8.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Họ bắt đầu bằng “Mac” hay “Mc” như (McCall, MacCarthy, MacDonald) luôn là họ của người Ai ơ len hoặc người Scotland. Tên bắt đầu với “O” (như trong O’Brien, O’Hara) là nét riêng biệt trong tên của người Ai ơ len. Rất nhiều họ (như Davis, Evans, Jones, lloy, Morgan, Price, Rees, Williams) có thể có nguồn gốc từ xứ Wales (Mặc dù rất nhiều trong số đó được dùng ở khắp nước Anh). Họ phổ biến nhất ở cả Anh và Scotland có lẽ là “Smith”. Cái tên cũng có hàm ý riêng Tên “John” theo tiếng Scotland là “Jan”, và theo tiếng Ai ơ len là “Sean” (mặc dù cả 3 cái tên này đều rất phổ biến trên khắp cả nước). Người Scotland, người Ai ơ len và người xứ Wales cũng có biệt danh. Ví dụ như người Anh, người Ai ơ len và người xứ Wales có thể gọi người Scotland là “Jock”, dù cho họ tên người đó có là gì chăng n ữa. Người Ai ơ len được gọi là “Paddy” hoặc “Mick”, người xứ Wale được gọi là “Dai” hoặc “Taffy”. Nếu như không phải trong mối quan hệ bạn bè, việc dùng biệt danh như vậy để gọi có thể quá suồng sã. Trang phục Hình ảnh đàn ông mặc váy, với khăn kẻ ô vuông truyền thống đã trở thành một biểu tượng của Scotland (mặc dù người ta ít mặc vào ngày thường) Nhạc cụ Đàn hạp là hình ảnh biểu trưng của xứ Wales và Ai ơ len. Trong khi đó, kèn túi lại là nét riêng biệt của Scotland (mặc dù loại nhỏ hơn dùng trong âm nhạc truyền thống của Ai ơ len). Những nét đặc trưng Có một số hình ảnh được coi là khuôn mẫu khi nhắc đến đặc điểm các quốc gia ở Vương quốc Anh. Ví dụ như, người Ai ơ len là những người hay nói, người Scotland thì nổi tiếng cẩn thận chuyện tiền bạc, người xứ Wale có tài ca hát. Tất nhiên, những hình ảnh. By Macchiato. Page 9.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> trên chỉ mang tính minh họa, cũng không đáng tin cậy để có thể đánh giá mỗi cá nhân ở mỗi quốc gia, tuy vậy, có thể phần nào đó thể hiện những điểm khác biệt trong nét giá trị gắn với văn hóa của đất nước đó. John Bull là một nhân vật hư cấu, được cho là đặc trưng cho người Anh (English), đức tính Anh. ( Có thể được so sánh với Uncle Sam của nước Mỹ). Nhân vật này xuất hiện ở hàng trăm hình ảnh hoạt hình của thế kỉ 19, với dáng vẻ bên ngoài điển hình cho một quý ông thế kỷ 18, gợi lên một quá khứ vùng thôn quê dân dã. (xem chương V) Hình ảnh John Bull Briton là từ dùng trong văn phong trang trọng, để chỉ cư dân người Vương Quốc Anh. “Ancient Briton” là từ để gọi lớp những người từng sống ở Anh trước và trong thời gian bị người La Mã chiếm đóng. Họ chính là tổ tiên của người xứ Wales ngày nay. Caledonia, Cambria và Hibernia lần lượt là tên La Mã của Scotland, Wales và Ireland. Những cái tên cũ này vẫn được dùng trong nghiên cứu để phân biệt ( ví dụ như loại tiếng Anh dùng ở Ai ơ len được gọi là “Hiberno- English”, và trong tên các tổ chức (ví dụ như hãng hàng không “Britain Caledonian”). Ai ơ len có cái tên văn thơ là Erin, nước này cũng đư ợc gọi là “ hòn đ ảo Ngọc bích”, gợi hình ảnh một vùng quê xanh mát. Người Scot vô hình Sau đây là một số đoạn trích từ bài báo do một người phụ nữ Scotland tên Janet Swinney viết, nhằm bày tỏ sự phẫn nộ về thế thống trị của nước Anh England đối với ở một số điểm. Đầu tiên, về viết tắt: một bản đồ xuất hiện trên tờ Observer tháng 5 năm 1989 có tiêu đề : “ Những con sông bẩn ở vương quốc Anh” ( Britain). Trên đó chỉ có sông của England và xứ Wales. Janet Swinney nói rằng: “Ý nghĩa c ủa cái hình minh họa này là gì? Ở Scotland không có sông hay không có sông bẩn, hay đơn giản là ai đó đã dùng Anh và xứ Wales để chỉ cả vương quốc Anh?”. By Macchiato. Page 10.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Thứ hai, cô còn chỉ ra việc dùng chung của England/English với cả Britain/Btitish: “Cách đây 1 vài năm, tôi đến Thổ Nhĩ Kỳ với 1 nhóm người Britons, hầu hết những người English đều rất vui vì đư ợc ghi nhận mình là người English trên vé lên xe, và không hề thấy có vấn đề gì cả. Và chuyện người Scotland nhận được email từ bất kỳ nơi nào trên Uk ghi địa chỉ là Scotland, England… cũng không có gì là lạ. Năm ngoái, các tác phẩm nghệ thuật từ Liên bang Soviet dự định được trưng bày ở Lễ hội Quốc gia Endinburgh đã được gửi tới Phòng Trưng Bày thành phố với địa chỉ Endinburgh, England. Khía cạnh thứ 3 của sự thống trị đó có thể được nhận thấy trên những cái tên đặt cho tổ chức quốc tế: “Gán mác tất cả mọi thứ là của England và xứ Wales như kiểu đấy là mặc định, và Scotland bị cho ra ngoài rìa. Vì sao chúng tôi lại còn có Bổ sung về giáo dục và Bổ sung về giáo dục cho Scotland, có “National Truth” và có “National truth for Scotland”, có “Trades Union Congress “ và “Trade Union Congress của Scottist”? trong một xã hội công bằng, tất cả những cái tên đó đều mang kèm cái tên địa lý làm ra nó: The times educational supplement (England and Wales) vân vân. J Swinney , :The invisible Scot” English Today, tháng 4 năm 1989. Thế độc tôn của England Những người dùng England để chỉ Britain có lẽ cũng có l ời biện bạch của riêng mình. Không thể phủ nhận mức độ thống trị của văn hóa England đối với văn hóa Britain. Hệ thống chính trị gồm bốn quốc gia này bắt đầu từ England, và England cũng là qu ốc gia có ngôn ngữ phổ biến. Rất nhiều lĩnh vực trong đời sống hàng ngày chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán England. Tuy vậy, sự thống nhất trong chính trị của vương quốc Anh không phải đã có được trên nền tảng những bất đồng. Nó xảy ra bởi người Anh đã có thể nỗ lực đem sức mạnh kinh tế và quân sự chiến thắng ba nước còn lại. Ngày nay, sự thống trị của nước Anh có thể được nhận thấy ở đời sống xã hội. Ví dụ như nguồn cung tiền do Ngân hàng England quản lý (không có cái thứ gọi là ngân hàng Britain). Nữ hoàng hiện tại được cả thế giới biết đến là Elizabeth the Second, mặc dù cả Scotland và Bắc Ireland đều chưa từng có Elizabeth the First! (Nữ hoàng Elizabeth đệ. By Macchiato. Page 11.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> nhất của England và xứ Wales trị vì từ 1553 đến 1603). Cụm từ “Anglo” cũng đư ợc sử dụng rất phổ biến (Người angle thuộc dòng Đức đến England từ thế ký thứ V. Từ England cũng có ngu ồn gốc từ đây). Ví dụ, báo chí và truyền hình nói về mối quan hệ Englo – Amarican để chỉ mối quan hệ giữa Britain và Mỹ (không chỉ England và Mỹ). Lòng tự tôn dân tộc Khi nói chuyện với người đến từ Britain, an toàn nhất là dùng “Britain” để chỉ nơi họ sống, và “Britsh” là tính từ khuyên dùng để nhắc đến những người này. Như vậy có thể tránh làm ai đó bực mình. Tất nhiên, nếu gọi người England là English cũng không sao. Đa số người British sống ở đây. Nhưng nên nhớ rằng, England không tạo nên toàn lãnh thổ vương quốc Anh. Trải qua lịch sử trường kỳ từ sự di cư từ Scotland, xứ Wales và Ireland đến England. Kết quả là, có hàng triệu người sống ở Anh nhưng không bao giờ nhận mình là ngư ời Anh. Có thể cả cuộc đời họ sống ở Anh, nhưng khi được hỏi, họ vẫn luôn là những người Scotland, người Irish, người xứ Wales, thậm chí bất đắc dĩ h ọ cũng chỉ nhận mình là British chứ không hề thuộc về Eire. Những người này thà cổ vũ cho các đội tuyển là quê hương của ông bà mình, chứ không cổ vũ cho Anh. Và nếu có cơ hội, họ chơi cho đội tuyển quê hương mình, chứ không chơi cho tuyển Anh. Ví dụ như bạn có nghe được những thành viên tuyển Worldcup Ireland nói chuyện năm 1994, bạn sẽ nghe thấy những giọng Anh hay giọng Scotland, nhưng sẽ chỉ có số ít giọng Irish. Hầu hết các cầu thủ đều không sống ở Ireland, không lớn lên ở Ireland. Tuy nhiên, hầu hết trong số họ sẽ không bao giờ chịu đấu cho đội nào khác ngoài Ireland. *** Từ đây, để đọc giả tránh nhầm lẫn, người dịch sẽ dùng từ Britain và England như trong bản gốc tiếng Anh. Điều này cũng đúng v ới hàng trăm người British khác sống ngoài British Isles. Những người có nguồn gốc Caribbean hay Bắc Á không phiền gì nếu được gọi là British (rất nhiều người tự hào về điều này), nhưng cũng r ất nhiều người trong số họ không muốn. By Macchiato. Page 12.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> được gọi là English. Và bất cứ khi nào người Tây Ấn hay đội tuyển criket Ấn Độ đấu với đội England, chắc chắn họ sẽ không cổ vũ cho England. Trên thực tế, có một sự phân chia về lòng tự tôn dân tộc rất phức tạp ở người dân Britain, đặc biệt là England. Một người da đen có gia đình gốc Caribean sẽ cổ vũ nhiệt tình cho tuyển Tây Idian nếu đội này đấu Criket với England. Nhưng cũng cùng 1 ngư ời đó sẽ vui vẻ cổ vũ cho England nhi ệt tình như c ổ vũ bóng đá nếu như đội Tây Indian không chơi. Một người xuất thân từ gia đình Ireland nhưng s ống cả đời ở England sẽ mong cho đội Ireland thắng đội England, nhưng cũng mong đội England thắng Italy y hệt vậy. Sự chồng chéo này cũng đúng với các dân tộc khác. Người English không coi người xứ Wale, người Ireland là người nước ngoài (hay ít nhất là cùng kiểu với những người nước ngoài kia). Một người bình luận viên của một trận đấu bóng đá trong trận đấu có Scotland hay Irish hay xứ Wale sẽ coi các đội này như đội Britain vậy. Một ví dụ điển hình cho sự giống nhau kép trên đài BBC trong cuộc thi Eurovision Contest năm 1992. Người bình luận là Terry Wogan. Wogan là người nước Ireland, trở thành dẫn chương trình truyền hình đư ợc yêu thích nhất BBC trong suốt những năm 1980. Kết thúc chương trình, khi mà cuộc bình chọn cho hai ca khúc được yêu thích nhất, 1 của Ireland, 1 của United Kingdom, chỉ trong vòng 5 phút mà Wogan sử dụng liên tiếp các ngôi We và us, khi thì chỉ UK, khi thì chỉ Ireland. The Union Jack The Union Jack là lá cờ Tổ Quốc của Uk. Đó là sự kết hợp của hình chữ thập St George, hình chữ thập của St Andrew và dấu gạch chéo của St Patrick.. By Macchiato. Page 13.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> 2. LỊCH SỬ. TIỀN SỬ Cách đây 2000 năm có một nền văn hóa Celtic kỷ đồ đá tồn tại khắp British Isles. Có vẻ như chính những người Celts, đến đây từ châu Âu từ thế kỷ thứ 8 Bc trở về trước, hòa nhập với những người bản địa nơi đây. Chúng ta biết đến các dấu ấn tôn giáo đã được xây dựng từ rất lâu trước khi người Celt tới, và vẫn còn được sử dụng rất lâu sau đó. Đối với những người Britain ngày nay, tầm quan trọng chính của những giai đoạn tiền sử đó chính là cảm giác huyền bí. Vẻ đẹp đó tập trung chủ yếu ở những tòa kiến trúc đẹp đáng kinh ngạc, vẫn còn tồn tại khắp cả nước. ở wiltshire, tây nam nước Anh, có hai ví dụ điển hình đó chính là: Silbury hill, ngọn đồi chôn lớn nhất châu Âu, và Stonehenge. Những địa điểm như vậy có tầm quan trọng đặc biệt với bất kỳ ai quan tâm đến văn hóa và cách thực hành tôn giáo của người tiền sử nước Anh. Chúng ta biết rất ít về các tôn giáo thời bấy giờ, nhưng hiện vẫn còn một số tổ chức ( Ví dụ, the Order of Bards, Ovates and Druids – 1 nhóm nhỏ những nhà thần bí trí tuệ và lập dị) tồn tại cho đến ngày nay.. Stonehenge Stonehenge được xây dựng vào một khoảng thời gian nào đó chưa được xác định ở vùng Salisbury Plain giữa những năm 3050 và 2300 BC. Đây là một trong những điểm khảo cổ nổi tiếng và huyền bí nhất thế giới. Một trong những điều kì bí đó là Ston ehenge đã đư ợc xây dựng như thế nào, với công nghệ thời bấy giờ (đá được lấy từ xứ Wales, cách đó hơn 200 dặm). Một điều kỳ bí nữa đó là mục đích của công trình này. Có vẻ như đây là một loại đồng hồ được người Druid dùng để đánh dấu các mùa. Stonhenge là nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo và trí tưởng tượng Anh, từng xuất hiện trong các cuốn tiểu thuyết như Tess of the D’Urbevilles của Thomas Hardy.. By Macchiato. Page 14.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Ngày nay Stonehenge không chỉ là địa điểm yêu thích của khách du lịch, mà còn là nơi tụ tập của những tay hippies và “những người du lịch thế hệ mới”. Ngày nay, khu di tích được rào lại để bảo vệ. Bức tường Hadrian Tường Hadrian được người La Mã xây dựng ở thế kỷ thứ 2 dọc biên giới phía Bắc của lãnh thổ này ở Britannia để có thể bảo vệ biên giới khỏi người Scot và người Pict. Giai đoạn La Mã Lãnh thổ La Mã của Britannia bao gồm hầu hết lãnh thổ England và xứ Wales ngày nay. Người La Mã áp đặt lối sống và văn hóa của mình, lợi dụng sự tồn tại của chế độ thống trị tiền sử Celtic để thống trị và khuyến khích tầng lớp thống trị tiếp nhận cách ăn mặc và ngôn ngữ La tin. Phía Nam Scotland, họ truyền bá sự ảnh hưởng mà không thật sự cai trị. Trong khoảng thời gian này, một dòng Celtic kêu gọi người Scot di cư từ Ireland tới Scotland, từ đây trở thành đồng minh với người Picts (một dòng Celtic khác và là kẻ địch với người La Mã. Sự phân chia này của người Celts thành những người chịu ảnh hưởng của quy định La Mã và những người không chịu ảnh hưởng có thể giải thích sự phát triển cua hai nhánh tiếng Celtic riêng biệt. Điều đặc biệt về người La Mã đó là, mặc dù đã chiếm đóng Britain lâu như vậy nhưng những gì họ để lại không nhiều. Hầu hết những vùng khác thuộc châu Âu đặt cả một hệ thống luật pháp và cai trị tạo nên nền tảng cho hệ thống hiện đại và cả ngôn ngữ mà sau này phát triển thành một nhánh của nhóm ngôn ngữ Latin. Britain thì khác, chẳng để lại gì cả. Hơn nữa, hầu hết những khu dân cư, đền, hệ thống đường xá, và những thành phố họ lập nên trong đó cơ Londonium( Luân đôn), đều đã sớm bị phá hủy hoặc không được sửa chữa gì. Hầu như những thứ còn lại chỉ là những cái tên như Chester, Lancaster và Gloucester có chứa từ Castra của La Mã.. By Macchiato. Page 15.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Sự xâm lược của người Đức (410 – 1066). Một lí do khiến cho người La Mã Britannia biến mất một cách nhanh chóng có thể do ảnh hưởng từ thành phố. Ở nông thôn, nơi hầu hết người dân sinh sống thì kỹ thuật canh tác vẫn được giữ nguyên, tiếng Celtic vẫn có vai trò chủ chốt. Sự chiếm đóng của người La Mã chủ yếu là quản lý thuộc địa chứ không phải là định cư trên diện rộng. Tuy nhiên, trong suốt thế kỷ thứ 5, một lượng lớn những người Tây bắc châu Âu tới đây xâm lược và sinh sống. Hai dòng người này là người Angles và người Saxons. Những người Anglo – Saxons này sớm nắm được phần Tây Nam đất nước. Phía Tây đất nước tạm thời do người Britons quản, dưới mệnh lệnh của vua Arthur. Tuy nhiên, cuối thế kỷ thứ 6, họ thống trị trước hầu hết phần lãnh thổ England và một số phần Nam Scotland. Celti Britons hoặc Saxon hóa, hoặc được chuyển tới phía Tây, nơi nền văn hóa và ngôn ngữ của họ có thể tồn tại Tây nam Scotland, Wales và Cornwall. Người Anglo Saxon ít quan tâm đến thành phố và thị trấn. nhưng lại chú ý tới vùng nông thôn, họ được dạy kỹ thuật canh tác mới rồi lập các làng, trở thành nền tảng của xã hội England cho nghìn năm sau. Khi mới tới Britain, Anglo Saxon là những người vô thần. Thiên chúa giáo đã đư ợc du nhập vào Britain theo 2 hướng trong thế ký 6 và thế ký 7. Dòng tôn giáo du nhập trực tiếp từ Rome khi St Austine đến vào năm 597 và thành lập trụ sở ở Cantery ở Tây Nam England. Tôn giáo này được phổ biến tới Scotland và Bắc England hơn 150 năm trước đó. Mặc dù người Thiên chúa giáo La Mã dần dần chiếm hết British Isles, tôn giáo kiểu Celtic vẫn bám trụ ở Scotland và Ireland khoảng vài trăm năm. Tôn giáo này ít chú ý đến hình thức tổ chức và cũng không cần đến một vị vua làm hậu thuẫn. Điều này một phần giải thích vì sao cả hai sức mạnh thế tục lẫn sức mạnh tôn giáo ở các nước này tiếp tục bám rễ ở các khu vực địa phương, đồng thời cũng ít ổn định hơn bất kỳ nơi nào trên đất nước Anh trong suốt thời trung cổ. Britain trải qua một đợt xâm chiếm khác từ phía Đức trong thế kỷ thứ 8. Những kẻ xâm chiếm này được gọi là Vikings, Norsemen và Danes, đến từ Scandinavia. Thế kỷ thứ 9 họ. By Macchiato. Page 16.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> thống trị và định cư ở vùng cực Bắc, cực Tây Scotland, cùng với một số vùng biển Ireland. Họ ngưng xâm chiếm England khi bị vua Alfred và vương quốc Saxon đánh bại. dẫn đến một thỏa thuận chia cắt giữa England, Wessex, ở phía Nam và phía Tây, và Danelaw ở phía Bắc và phía Đông. Tuy nhiên, sự khác biệt văn hóa giữa người Anglo Saxon và người Đan Mạch khá là nhỏ. Có nền văn hóa gần giống nhau, ngôn ngữ mẹ đẻ cùng là tiếng Đức. Hơn nữa, người Đan Mạch dần trở nên sùng bái Thiên Chúa Giáo. Những điểm tương đồng này làm cho vấn đề chính trị trở nên cởi mở hơn, vào cuối thế kỷ 10, England trở thành một nước mang nền văn hóa Đức. Vua Arthur Vua Arthur là hình ảnh hư cấu khá phổ biến trong lịch sử. Trong văn hóa dân gian và những câu chuyện thần thoại, ông là một anh hùng vĩ đ ại. Ông cùng với những kỵ sỹ của mình bên bàn tròn được coi là ví dụ hoàn hảo của giới quý tộc và hiệp sỹ trung cổ. Trên thực tế, ông sống từ trước thời trung cổ rất lâu và là một người Celt La Mã hóa cố gắng giữ lại lợi ích cho người Anglo Saxon- những con người sau này trở thành người English. Vua Alfred Vua Alfred không chỉ là một chiến binh có tài, một học giả tận tụy mà còn là một nhà trị vì trí tuệ. Ông là quốc Vương duy nhất được gọi là vua Alfred vĩ đ ại. Ông cũng là ngư ời nổi tiếng với câu chuyện chiếc bánh cháy. Khi Alfred đang đi du hành để quản lý những người Viking, ông ngụy trang thành dân thường. Có một lần, ông dừng chân tại nhà một người phụ nữ. Người phụ nữ này nhờ ông trông giúp những cái bánh để bánh không bị cháy mất trong khi cô ra ngoài lấy thức ăn. Vua Alfred lơ đãng và đ ể bánh bị cháy. Khi người phụ nữ quay trở lại, cô đã rất tức giận mắng mỏ Alfred rồi đuổi ông đi. Alfred không để cho cô biết ngài chính là Đức Vua.. By Macchiato. Page 17.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> 1066 Đây là ngày nổi tiếng nhất trong lịch sử nước England. Ngày 14 tháng 10 năm 1066 một đội quân xâm lược đến từ Normandy đánh bại England trong trận Hastings. Trận chiến đã kết thúc đẫm máu, hầu hết các chiến binh England đều tử trận, trong đó có vị tướng lĩnh là vua Harold. Ngày giáng sinh năm đó th ủ lĩnh Norman Duke Norman of Normandy đã đư ợc lên ngôi vua của England. Ông được gọi là người thống lĩnh William. Đó là ngày mà lần cuối cùng England bị xâm chiếm.. Giai đoạn trung Cổ ( 1066 – 1485) Sự xâm chiếm thành công của nười Na uy tới England vào năm 1066 đã mang tới cho Britain một luồng gió văn hóa Tây phương. Trước đây chủ yếu là quan hệ với Scandinavia. Chỉ có ở Scotland mối liên kết này mới tồn tại; những đảo Tây và các đảo phía Bắc vẫn do vua Scandinavian trị vì. Xuyên suốt thời kỳ các vua England cai trị các khu vực đất liền đều có tranh chấp với người Pháp về chủ quyền. Không giống cuộc xâm lược của Đức, sự xâm lược của Na Uy có quy mô nhỏ hơn. Không có làng Na Uy, vùng Na Uy, thay vào đó, lính na Uy được cho quyền sở hữu đất, và cả quyền cai trị người dân ở đó. Một hệ thống phong kiến nghiêm ngặt được áp dụng. Những đại quý tộc, nam tước, chịu trách nhiệm trực tiếp với nhà vua, những tên chúa đất ít quyền hơn thì m ỗi tên nắm một làng, đứng dưới quyền của nam tước. Nông dân là những người trực tiếp chịu áp bức nghiêm ngặt, thậm chí không thể đi đâu nếu như không được cho phép. Những nông dân này là người Saxon nói tiếng Anh. Chúa đất và nam tước là những người Nauy nói tiếng Pháp.. By Macchiato. Page 18.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> Một hệ thống chính phủ mạnh mà người Nauy áp dụng đồng nghĩa với nhà nước Norman anglo có quyền lực trên toàn British Isles. Không ngạc nhiên khi mà vì thế, chính quyền của chế độ quân chủ Anh dần dần mở rộng đến các phần lãnh thổ khác trong 250 năm tiếp theo. Cuối thế kỷ 13, một lượng lớn lãnh thổ đông Ireland do các chúa đất Anglo Na uy trực tiếp cai trị dưới danh nghĩa vua Anh. Sau một vài cuộc chiến, Scotland đã có thể duy trì độc lập chính trị. Câu chuyện văn hóa trong giai đoạn này cũng khác. 250 năm sau sự xâm chiếm của người Na uy, chính tiếng Đức chứ không phải tiếng Na Uy đã trở nên phổ biến trong hầu hết các tầng lớp người Anh. Hơn thế nữa, hệ thống pháp luật cũng dựa trên nền tảng của luật pháp người Anglo Saxon, chứ không phải của người La Mã. Mặc dù có những quy định từ phía Anh, miền Bắc và miền Trung xứ Wales không có nhiều người Saxon hay người Na Uy sinh sống. Kết quả là, tiếng Welsh và văn hóa Welsh vẫn rất phát triển. Eisteddfods, một lễ hội quốc gia về các ca khúc và thơ phú Wales vẫn còn tồn tại cho towisw ngày nay. Những chúa đất Anglo – Nauy của vùng Đông Ireland vẫn trung thành với vua England, trong khi trái lại, luật pháp thì theo ngôn ngữ và phong tục Xen tơ. Mặc dù độc lập về mặt chính trị, Scotland không thể ngăn ngôn ngữ và văn hóa Anh (English) trở nên phổ biến ở vùng đất thấp phía Bắc. Thứ nhất, những yếu tố liên quan đến Anglo-saxon ở đây được củng cố nhờ nhóm người quý tộc Saxon tới đánh đuổi cuộc xâm lược Anh của người Noocman. Thứ hai, vua Celtics nhìn nhận rằng việc áp dụng cách cai trị kiểu Anglo- Norman có thể làm mạnh thêm quyền lực hoàng gia. Cuối giai đoạn này, một sự chia rẽ văn hóa nảy sinh giữa vùng thấp, nơi mà ngôn ngữ & tập tục sống tương tự kiểu Anh, và vùng cao, nơi mà văn hóa & ngôn ngữ Xen tơ thống trị cũng như sự quản lý của hoàng gia ít có tầm ảnh hưởng- do địa hình đồi núi. Cũng chính trong giai đo ạn này mà Nghị Viện bắt đầu dần cách mạng thành cơ chế dân chủ như ngày nay. Từ Nghị viện ( Parliament) có nguồn gốc từ tiếng Pháp Parler, được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 13 để chỉ những quý tộc do nhà vua chỉ định . Năm. By Macchiato. Page 19.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> 1925, Nghị viện kiểu mẫu đã đ ặt nền tảng cho tương lai bằng việc tập hợp những đại biểu từ vùng thành thị tới nông thôn. Ngôn ngữ và tầng lớp Sự xuất hiện của hai lớp từ vựng cho các loại vật nuôi trong tiếng Anh hiện đại là kết quả của quá trình chia tầng do cuộc xâm lược Nooc man gây ra. Các từ để chỉ động vật sống (như cow, pig, sheep...), có gốc Anglo- Saxon, còn các từ để chỉ loại thực phẩm từ các loài này (beef, pork, mutton), có gốc tiếng Pháp do người Norman mang tới. Chỉ có người Norman mới được ăn thịt, nông dân Anglo saxon nghèo đói thì không. Robin Hood Robin Hood là một huyền thoại anh hùng. Vua Richard đệ nhất (1189- 1199) dành hầu hết khoảng thời gian cai trị để tranh đấu trong cuộc chiến tranh giữa đạo Cơ Đốc và đạo Hồi. Khi Richard ra đi, Nước Anh ( England) được John, em trai vua cai quản, người ít được lòng dân vì chính sách thuế mà ông đưa ra. Theo như truyền thuyết, Robin Hood sống cùng với nhóm “merry men” ở rừng Sherwood bên ngoài Notting ham, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tuy bị quân lính địa phương truy đuổi, anh hùng Robinhood chưa từng bị bắt. Cuộc chiến hoa hồng Trong thế kỷ thứ 15, hoàng gia Anh do hai nhóm đối lập đứng đầu. Quyền lực của nhóm quý tộc mạnh nhất, có quân đội riêng cũng đ ồng nghĩa v ới việc vị trí của hoàng gia có thể bị ảnh hưởng. Dòng họ Lancaster với biểu tượng bông hồng đỏ ủng hộ hậu duệ của công tước xứ Lancaster, trong khi đó dòng họ York, biểu tượng hoa hồng trắng, lại bảo vệ cho hậu duệ công tước xứ York. Cuộc đấu tranh quyền lực dẫn đến cuộc chiến hoa hồng từ năm 1455 tới 1485, kết thúc khi vua Henry VII chiến thắng, giết chết Richard III trong trận Bosworth Field. Tiếp sau đó là kỷ nguyên ổn định, chính quyền nắm quyền lực mạnh, có được sự ủng hộ từ tầng lớp người nghèo khổ bần cùng do chiến tranh.. By Macchiato. Page 20.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> Đầu rơi máu chảy Nắm giữ vị trí quan trọng ở thế kỷ 16 không phải là điều gì an toàn. Vương triều Tudor đã không trung thành với cấp dưới quyền cũng như đối xử tàn nhẫn với các quý tộc chống lại vương triều. Phân nửa số những người có tiếng tăm trong thời kỳ này bị giết vì lí do phản bội. Chỉ một số ít được đi qua Traitor’s Gate, làm tù nhân trong tháp London giữ được mạng sống. Thế kỷ 16 Quyền lực của vương triều Anh ngày càng mạnh trong giai đoạn này. Sức mạnh của những vị nam tước vĩ đại dần bị giảm sút do cuộc chiến hoa hồng. Bệnh dịch hạch cũng góp phần vào quá trình suy tàn. Khi dịch bùng phát lần đầu tiên, nó đã cư ớp đi sinh mạng của khoảng 3 phần dân số ở Anh, vào giữa thế kỷ 14 và khoảng 300 năm sau đó mới dần dần biến mất. Thiếu hụt nguồn lao động cùng với tầm quan trọng ngày càng gia tăng của thương mại đã ảnh hưởng tới quan hệ giữa bộ máy cai trị phong kiến và dân nghèo. Vương triều Tudor ( 1485- 1603) thiết lập một hệ thống cai trị do những chuyên gia phải phụ thuộc vào hoàng gia thực thi. Kết quả là, những quý tộc phong kiến không còn cần thiết đối với chế độ chính trị này nữa. Vai trò của tầng lớp này trong việc thực hiện các chế độ cai trị cũng giảm xuống. Nghị viện vốn được chia thành hai phần, Thượng viện bao gồm lớp quý tộc phong kiến và những người đứng đầu nhà thờ, Hạ viện gồm đại biểu từ các thị trấn, các địa chủ vùng nông thôn. Lúc bấy giờ, việc có được sự đồng thuận từ phía Hạ Viện là rất quan trọng bởi lẽ đây chính là cơ quan quyền lực của các nhà buôn mới và địa chủ (những người có tiền). Không giống như các nước khác ở Châu Âu, lí do trực tiếp dẫn đến đạo Tin Lành ở Anh là chính trị và yếu tố cá nhân chứ không phải do học thuyết ( xem thêm về Vua Henry VIII). Vua Henry VIII muốn ly hôn nhưng không có được sự chấp thuận từ phía Giáo Hoàng. Hơn nữa, việc trở thành người đứng đầu Nhà Thờ Anh độc lập khỏi Rome làm. By Macchiato. Page 21.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> cho tất cả đất nhà thờ nằm trong quyền quản lý của ông, kèm theo đó là một khoản thu kếch xù. Chia rẽ với nhà thờ Rome củng cố tinh thần yêu nước từ phía Anh. Cuối cùng, đất nước này mất hết quyền sở hữu thực tế đất ở Pháp, từ đó trở thành một quốc đảo tách biệt. Đồng thời, châu Âu ngày càng có thêm nhiều các cuộc thám hiểm khám phá châu Mỹ và nhiều vùng đất khác trên thế giới cũng đ ồng nghĩa v ới việc Anh gần với trung tâm văn minh phương Tây hơn, thay vì chỉ đứng ở rìa như trước đây. Cũng chính 25 năm cuối của thế kỷ khai hóa và lạc quan này mà Shakespeare bắt đầu viết những tác phẩm của mình. Vì lẽ đó, tinh thần yêu nước và kết tội các tôn giáo đã dẫn đến sự phổ biến của Đạo Tin Lành trên khắp nước Anh cuối thế kỷ. Hình thức tổ chức và lễ nghi của tôn giáo Anglicanism này không khác gì mấy so với Công giáo. Tuy vậy, ở vùng đất thấp Scotland thì các yếu tố này có thực tế hơn. Thần học Calvin (Calvinism) nhấn mạnh đến tính giản đơn, phản đối lễ nghi và tổ chức và trở thành tôn giáo chủ chốt. Cũng chính trong khoảng thời gian này mà hình ảnh khuôn mẫu rằng người Scotland nghiêm khắc, tằn tiệm được hình thành. Tuy vậy, người Scotland ở vùng cao vẫn duy trì lòng tin với Công giáo, tiếp tục mở rộng phần vịnh nối giữa hai phần lãnh thổ. Người dân Ireland cũng tôn th ờ Công Giáo. Nơi đây đạo Tin Lành gắn với người Anh, vào lúc này vẫn đang nỗ lực để thống trị cả thế giới. Elizabeth I Elizabeth Đệ Nhất, con gái vua Henry VIII là nữ hoàng đầu tiên trong số 3 nữa hoàng có thời gian cai trị lâu dài nhất trong lịch sử vương quốc Anh ( hai vị còn lại là nữ hoàng Victoria và Elizabeth đệ nhị ) . Trong quá trình cai trị, bằng thuật ngoại giao khôn khéo, bà tạo nên một nước Anh ổn định vững chãi với đạo Tin Lành, kèm theo đó là tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc. Bà chưa từng kết hôn, nhưng lại có thể sử dụng điều này làm công cụ ngoại giao. Bà trở thành Nữ Hoàng Đồng Trinh. Vùng đất sau này trở thành. By Macchiato. Page 22.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> bang Virginia của Mỹ được các nhà thám hiểm Anh( Ngài Walter Raleigh) đặt tên theo tên bà. Vua Henry VIII Vương triều Henry VIII là một trong những vương triều nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh, lý do chủ yếu là ông có đến tám bà vợ. Trong khoảng thời gian ông trị vì, một cuộc cải cách đã diễn ra. Những năm 1530, vua Henry sử dụng nghị viện để đưa ra luật xóa bỏ quyền lực của nhà thờ Roman ở Anh. Sự mâu thuẫn của ông với Rome không có liên quan gì đến giáo điều (vì ông muốn được tự do cưới thêm vợ và thỏa mãn ước mơ làm người đứng đầu nhà thờ Anh). Cũng trong th ập kỷ này, ông cho ra một điều luật yêu cầu phải gắn bó chặt chẽ tuyệt đối với niềm tin và thực hành Công giáo. Trước đó ông còn viết một bài khiêu khích đạo Tin Lành, nhờ đó mà được giáo hoàng phong tặng danh hiệu người đấu tranh vì sự trung thực. Biểu tượng cho danh hiệu này hiện còn được in trên tiền xu Vương Quốc Anh ngày nay. Thế kỷ 17 Khi vua James đệ nhất trở thành vị vua Anh đầu tiên của vương triều Stuart, ông đã là vua của Scotland, do đó mà vương miện của 2 vùng lãnh thổ được hợp nhất. Mặc dù nghị viện và hệ thống cai trị và tòa án tách biệt nhưng sự khác biệt ngôn ngữ dần được thu hẹp trong giai đoạn này. Tiếng Anh do người Scotland đồng bằng sử dụng được phát triển thành tiếng Scots. Tuy nhiên, nhà thờ Tin Lành của Scotland lại sử dụng kinh thánh Anh thay vì kinh thánh Scots. Cũng chính điều này, cùng với sức lan tỏa Anh- nơi mà vị vua giữ ngôi, làm cho tiếng Anh hiện đại trở thành ngôn ngữ viết tiêu chuẩn cho Scotland. Trong thế kỷ 17, tôn giáo và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ. Đến thế kỷ 17, mối quan hệ này càng được thắt chặt hơn. Đầu thế kỷ, một vài kẻ đã cố giết vua bởi ông không có niềm tin mãnh liệt vào công giáo. Cuối thế kỳ, thêm một vị vua nữa bị ám sát, một phần vì niềm tin công giáo của vị vua này quá mạnh mẽ, và cũng đã có v ị bị trục xuất khỏi quê hương cũng vì lí do này.. By Macchiato. Page 23.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> Đây chính là hoàn cảnh lịch sử mà nghị viện thiết lập quyền uy tối cao cho nhà nước quân chủ Vương quốc Anh. Sự căm phẫn trong lòng dân ngày càng trở nên gay gắt khi mà vương triều Stuarts có thể kiếm lợi cho mình mà không có được sự đồng thuận từ phía Hạ viện. Điều này là trái với lệ truyền thống. Thêm vào đó, hệ tư tưởng đạo tin Lành, đặc biệt là Thanh giáo dần phát triển ở England,. Người nông dân coi việc thực hành các nghi lễ, cũng như tôn ti th ứ bậc theo nhà thờ Anh giáo là trái với đạo đức. Một bộ phận dân chúng còn coi cuộc sống xa hoa của nhà vua và những kẻ ủng hộ vương triều là xấu xa. Những người này kịch liệt chống lại Công giáo, nghi ngờ sự trung thành của vương triều Stuart với công giáo. Mâu thuẫn này đã dẫn đến cuộc nội chiến, sau này bị nghị viện đàn áp. Nhà vua (Charles I) bị bắt và trở thành vị vua đầu tiên trong lịch sử châu Âu bị chịu án sau khi được xét xử với tội danh gây hại cho người dân. Đứng đầu trong quân đội nghị viện, Oliver Cromwell , trở thành “ huân tước bảo hộ” của chế độ cộng hòa có quân đ ội riêng, một chính phủ đã thẳng tay tàn phá Ireland, sau đó chinh phục cả vương quốc Anh. Tuy vậy, sau khi Cromwell chết, ông, cùng với cả hệ thống chính phủ và những tàn tích của chế độ ông từng đặt ra ( nhà hát và một số loại hình giải trí khác đã bị cấm) đã không còn được ủng hộ đến nỗi mà người ta đã xin người con trai của vị vua từng bị xử tử quay trở lại nắm quyền. Nhà thờ Anh được phục hồi. tuy nhiên, mâu thuẫn giữa hoàng gia và nghị viện cũng dần xuất hiện trở lại. Hoàng tộc, vua James II cố gắng trao nhiều quyền cho Công giáo cũng như c ủng cố thêm quyền lực cho tôn giáo này trong chính phủ. Kéo theo đó là cuộc “Cách mạng vinh quang” ( gọi là vinh quang vì không có đổ máu), từ đây, Hoàng tử William xứ Orange, người thống trị Netherlands và người vợ của mình là Mary đã nhận lời thỉnh từ phía Nghị viện và trở thành Vua và Hoàng hậu của đất nước. Từ hình thức thiết lập này mà hoàng gia chỉ có thể trị vì dựa trên sự tham vấn ủng hộ của Nghị viện. Nghị viện ngay lập tức thảo một bộ luật trong đó hạn chế một số quyền của hoàng tộc (đáng lưu ý là quyền bãi bỏ phiên tòa). Cuộc cách mạng cũng đã cho phép người chống Anh giáo được tự do thực hành tôn giáo của họ. Điều này có nghĩa là, Nhà. By Macchiato. Page 24.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> thờ của giáo hội Trưởng Lão ( Presbyterian Church) với đa số tín đồ là người Scotland, được bảo hộ về quyền hợp pháp. Tuy nhiên, những người chống Anh Giáo ( Dissenter) không được phép giữ các chức vụ trong nhà nước hay Nghị viện. Trong khi đó, vua James II đã bỏ trốn tới Ireland. Tuy vậy, quân đội Ireland theo Công giáo mà ông kêu gọi ở đây đã bị lật đổ. Từ đây, đã có một số luật cấm người công giáo tham gia bầu cử ngay cả trên quê hương của họ. Ulster, phía bắc đất nước là nơi sinh sống của rất nhiều những tín đồ giáo hội Trưởng Lão gay gắt chống lại Công giáo. Hậu duệ của họ vẫn còn đư ợc biết đến với cái tên Orangement ( Thể hiện sự ủng hộ hoàng tử William xứ Orange) . Họ đã tạo nên sự ngăn cách giữa Bắc Ireland hiện đại và những người Công giáo bản địa. Ring – a – ring – a – roses Ring – a – ring – a – roses A pocket full of posies Atishoo! Atishoo! We all fall down. Đây là một bài hát đồng dao trẻ em rất phổ biến đến tận ngày nay. Nguồn gốc của bài hát là do Đại dịch năm 1665, sự bùng nổ của Dịch hạch tại Vương quốc Anh. Vòng tròn bông hồng đỏ dùng để chỉ những đốm đỏ trên người bệnh nhân. Người ta tin rằng chùm hoa ( túi thảo dược) có thể chữa khỏi bệnh. “Atishoo” thể hiện tiếng hắt hơi, một trong những triệu chứng bệnh mà sau đó người bệnh có thể “fall down” ngã xuống và tử vong trong vòng vài giờ đồng hồ. Thế kỷ 18 Về mặt chính trị, thời kỳ này khá ổn định. Nghị viện và hoàng gia có mối quan hệ khá tốt. Một lí do giải thích cho điều này chính là những nhà chính trị của Nghị viện, qua quyền. By Macchiato. Page 25.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> bổ nhiệm của hoàng gia, đã có th ể kiểm soát việc bầu cử và thói quen bỏ phiếu của rất nhiều nghị sĩ trong Hạ viện Sự phân chia trong nghị viện ở thế kỷ trước mặc dù đã phai nhạt đáng kể nhưng vẫn để lại thoáng chút tranh đấu giữa hai nhóm bè phái. Một nhóm là the Whigs là hậu duệ chính trị của phái nghị trường. Họ ủng hộ những giá trị của cần mẫn chăm chỉ tiết kiệm, tin tưởng vào chính phủ của nhà vua và tầng lớp quý tộc. Nhóm còn lại, the Tories, ủng hộ chế độ quân chủ và tầm quan trọng của nhà thờ Anh giáo (cũng có khi là cả Công giáo và nhà Stuarts). Cả hai khái niệm, Whigs và Tory lần đầu được sử dụng trong những năm 1760, việc chọn trung thành với nhóm nào đi chăng nữa chủ yếu là sự ảnh hưởng từ phía gia đình hoặc tôn giáo hơn là niềm tin về chính trị. Đây cũng đư ợc coi là sự mở đầu cho hệ thống Đảng ở vương quốc Anh ( Xem chương 6) Hệ thống thu chi ngân sách hàng năm do các nhà chức trách Hoàng tộc chấp thuận giao cho Nghị viện cũng khởi đầu trong giai đoạn này. Cũng vì th ế, hoàng gia có quyền chỉ định thủ tướng chính phủ. Đầu thế kỷ, theo như thỏa thuận, nghị viện Scotland sáp nhập với Nghị viện Anh và xứ Wales ở Westminster, London. Tuy nhiên, Scotland vẫn có hệ luật pháp riêng, gần giống với hệ thống luật của châu Âu hơn là Anh, cho đến nay vẫn vậy. Phần duy nhất của nước Anh thay đổi hoàn toàn do áp lực chính trị của giai đoạn này chính là khu cao nguyên Scotland. Đây là nơi đã hai lần thất bại trong việc đưa vương triều Stuarts ủng hộ Công giáo lên nắm quyền. Sau lần thứ hai bị đàn áp, rất nhiều người dân vùng núi này bị giết và bị trục xuất khỏi Anh, trang phục truyền thống (tartan kilt) bị cấm. Nền văn hóa Celtic bị xóa bỏ. Sự thay đổi về mặt văn hóa là điểm cần chú ý của thời kỳ này. Vương quốc Anh dần mở rộng ra châu Mỹ, dọc theo bờ biển hướng Tây châu Phi và Ấn độ. Thương mại phát triển do có thêm thị trường mới là nhân tố dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp. Những đối mới công nghệ trong sản xuất và giao thông cũng góp phần vào cuộc cách mạng này.. By Macchiato. Page 26.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> Ở Anh, sự phát triển các hình thức công nghiệp sản xuất cùng với tiến bộ trong nông nghiệp dẫn tới biến đổi vượt bậc trong đời sống kể từ cuộc xâm lược Anglo- Saxon. Diện tích đất chung cho chăn nuôi của mọi người dân trong làng từ thời Anglo Saxon đã không còn do đã đư ợc địa chủ mở rộng và dùng vào các mục đích mang lại nhiều giá trị hơn. (Một số phần đất còn lại cho đến ngày nay chủ yếu là công viên). Hàng trăm người từ nông thôn chuyển lên sống ở các thị trấn mới hoặc thành phố. Hầu hết các thị trấn và thành phố này đều thuộc Bắc Anh, nơi có sẵn nguyên liệu thô cho sản xuất. Cũng vì vậy, phía bắc Anh trước đây vốn phát triển sau phía Nam, nay trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước. Khu vùng đất thấp Scotland và Bắc xứ Wales cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp, dẫn tới sự phân hóa giữa những vùng này với các khu vực khác ít phát triển hơn. Phía Nam nước Anh, London chiếm vị trí quan trọng, không phải với vai trò công nghiệp mà là một trung tâm kinh doanh buôn bán. Cuối thế kỷ, nơi đây có dân số gần đạt mốc 1 triệu. Dù không phát triển như các khu đô thị, quyền lực xã hội lại thuộc về khu vực ngoại ô nông thôn. Việc sở hữu một căn nhà khang trang sẽ là minh chứng cho quyền lực. Vào thế kỷ 18, có đến trên một ngàn ngôi nhà như vậy được dựng lên. Thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 19, Britain mất hầu hết thuộc địa Mỹ bởi phong trào đấu tranh giành độc lập. Những năm đầu thế kỷ, Britain mắc kẹt trong cuộc chiến với Pháp mà rất có khả năng sẽ bị Pháp sang xâm chiếm. Ngay sau khi kết thúc thế kỷ 19, đế quốc Anh trở thành nước cai trị vùng lãnh thổ rộng lớn chưa từng có. Một phần lãnh thổ này là Ireland. Trong giai đoạn này, thực tế Ireland đã tr ở thành một phần của Anh, kèm theo đó và việc văn hóa Anh được truyền bá rộng rãi ở Ireland. Trong những năm 1840, hai vụ khoai tây mất mùa liên tiếp dẫn đến nạn đói kinh hoàng. Hàng. By Macchiato. Page 27.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> triệu nông dân gốc Ireland nói tiếng Celtic phải bỏ mạng hay phải di cư. Đến cuối thế kỷ, hầu hết người dân đều sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ mẹ đẻ. Một phần khác bị thông trị thuộc Canada, Úc và New Zealand, ở đây chủ yếu người Anh sinh sống. Những quốc gia này đều đã thiết lập nhà nước tự trị nhưng vẫn công nhận quyền cai trị chung của Anh. Một thuộc địa khác nữa là Ấn Độ, đất nước có bề dày văn hóa nhiều năm tuổi hơn Anh rất nhiều. Hàng chục ngàn lính Anh và kỵ binh được cử đến để cai trị Ấn Độ, đứng đầu là một tay chỉ huy có vai trò như quốc vương ở Anh. Vì Ấn Độ xa, con đường tới đây mất khá nhiều thời gian nên hầu hết những người Anh được cử đến đã dành chủ yếu phần đời còn lại của mình làm việc ở đây, tạo dựng cuộc sống mới theo kiểu Anh - Ấn. Họ áp dụng chế độ cai trị như ở Anh rồi quay lại quê hương khi đã nghỉ hưu. Phần lớn lãnh thổ châu Phi cũng thuộc về đế quốc này, ngoại trừ Bắc Phi, nơi có một số dân Anh sinh sống, hầu hết dân cư thuộc địa dựa vào tài nguyên bờ biển để buôn bán và mãi tới cuối thế kỳ mới sáp nhập vào đế quốc. Ngoài ra, đế quốc Anh còn cai trị rất nhiều vùng đất nhỏ và các đảo khác. Trừ một số vùng như Caribean là do dân cư Anh đã ở đây từ trước, còn lại đều do vị trí giao thương chiến lược mà phải thành thuộc địa. Một sự thay đổi về quan điểm của Anh về thuộc địa trong thời kỳ này tạo ra động lực mới cho các nhà xây dựng đế quốc. Nếu như trước đây thuộc địa là vấn đề định cư, thương mại hay chiến thuật quân sự và mục đích chủ yếu là sở hữu chứ không hẳn là cai trị thì đến cuối thế kỷ, thuộc địa được coi như vấn đề định mệnh. Đế quốc Anh dần trở thành quốc gia có quyền lực kinh tế mạnh nhất, cộng với nhiều năm ổn định chính trị vượt trội ở châu Âu khiến Anh trở nên tự tin vô cùng, thậm chí ngạo mạn về văn hóa và nền văn minh của mình. Người Anh bỗng tự coi mình như có nghĩa v ụ phải truyền bá văn hóa, văn minh đến toàn thế giới. Làm người đứng đầu một đế quốc vì thế cũng giống như mang trọng trách đạo đức, với cái tên “ghánh nặng của người da trắng”. By Macchiato. Page 28.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> Ghánh nặng của ngừoi da trắng Dưới đây là một vài dòng trong bài thơ c ủa Rudyard Kipling (1865- 1936), được coi là nhà thơ của đế quốc. Chấp nhận gánh nặng Người Da Trắng Hãy gửi đi những người trai ưu tú Hãy buộc những đứa con đến chốn lưu đày Để phụng sự những tù nhân bị bắt Để chờ đợi trên yên ngựa nặng Lũ ngư ời dã man đ ầy kích độngNhững giống người mới bị chinh phục Nửa là quỷ và nửa là trẻ con *** Bản dịch của Vũ Hoàng Linh, Thivien.net Những cuộc đấu tranh khác, theo nhà thơ, là “dã man” và cần phải “được văn minh hóa”. Mục đích cao cả của người da trắng là phục vụ cho vai trò này. Đây không phải là tìm kiếm quyền lực. Nhiệm vụ này là do chúa ban, được ông nhắc đến trong một bài thơ khác: God of our fathers, known of old, Lord of our far- flung battle line Beneath whose awful hand we hold Dominion over palm and pine. By Macchiato. Page 29.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> By Macchiato. Page 30.
<span class='text_page_counter'>(32)</span>