Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu Thời kì Hồng Bàng docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.88 KB, 8 trang )

Thời kì Hồng Bàng
Hồng Bàng (chữ Hán: 鴻龐) là giai đoạn lịch sử thời đại thượng cổ của
lịch sử Việt Nam. Nó dựa nhiều trên các truyền thuyết chuyện kể và một
số ít bằng chứng khảo cổ học và ghi chép lịch sử.
Niên đại
Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm
2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ.
Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới
sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn
(Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương),
phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người
Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự
lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua
Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc
tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra
người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con
trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía
Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về
phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ.
Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897
TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là
Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long
Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi),
tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long
Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy
hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con
theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về
Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
[1]


Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích
Quỉ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này
không có ghi chép lịch sử xác nhận.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác
nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12
nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc. Để tiện việc trao đổi buôn bán,
phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được
gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là
Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến
năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các
truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng
Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời
kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá
Đông Sơn).
Hình thái xã hội
Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam, có kinh đô đặt ở
Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
• Theo Lĩnh Nam chích quái thì nước Văn Lang đông giáp Nam Hải,
tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn
(Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt
Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương
Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn
Lang, Quế Lâm, Tượng Quận
• Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Văn Lang cũng có cương vực và
15 bộ tương tự như được nêu trong Lĩnh Nam chích quái nhưng tên
gọi các bộ có khác một ít: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc,
Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài
Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức và Văn Lang là

bộ nơi vua đóng đô.
Trong triều đình có các quan Lạc Hầu giúp việc, đứng đầu các bộ là quan
Lạc Tướng, đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là Bồ
Chính. Con trai vua gọi là "quan lang", con gái vua gọi là "mị nương", nữ
lệ gọi là "xảo xứng" (còn gọi là "nô tỳ"). Xã hội phân làm ba tầng lớp là
vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ).
Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, bắc gổ làm nhà sàn để ở, dệt cỏ làm
chiếu, vỏ cây làm áo. Ngày thường đàn ông để trần mặc khố, vua quan thì
có thêm áo hai mảnh, đàn bà thì mặc váy.
Về sản xuất có trồng lúa nước, thuần hóa gia súc, công cụ có lưỡi cày, đồ
dùng có thạp, vũ khí có rìu, đi lại có thuyền.
Sinh hoạt tinh thần có những tục xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu,
theo chế độ mẫu hệ, thờ cúng tổ tiên, tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên
như thần núi, thần sông, thần gió... Vào các ngày lễ hội thường đội trên
đầu mũ lông chim, thổi khèn, đánh trống, nhảy múa, bơi chải.
Trích Thủy kinh chú:
"Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người
ăn ruộng là Lạc Vương (Lạc Hầu). Các huyện gọi là Lạc Tướng
(quan cai quản), có ấn đồng dãi xanh, tức quan lệnh ngày nay."
Trích Lĩnh Nam chích quái:
"Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ
gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây
tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm
mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản
xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà
để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra
lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người
lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa
nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy
cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."

Các truyền thuyết
Thời Hồng Bàng được gắn với nhiều truyền thuyết. Dù có thể độ chính
xác không cao do được truyền miệng qua nhiều thế hệ, các truyền thuyết
cho thấy nhiều khía cạnh đời sống văn hóa và chính trị ở Việt Nam thời
kỳ này.
Truyền thuyết bánh chưng bánh giầy gợi ý, về chính trị, các vua Hùng đã
có thể công khai tổ chức các cuộc thi để tìm người kế vị; về nông nghiệp,
người Việt thời này đã phát triển trồng lúa nước (có thể bao gồm cả lúa
nếp) và chăn nuôi (có thể bao gồm lợn/heo, ...); về triết học, bánh chưng
và bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm vũ trụ gồm có mặt đất
hình vuông màu xanh lá cây và bầu trời hình tròn màu trắng. Tuy nhiên có
học giả, như Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình
tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng
trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam
[2]
.
Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng
người Việt ở miền nam Việt Nam (theo Trần Quốc Vượng là dạng
nguyên thủy của bánh chưng).
Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh thể hiện phần nào thiên tai chủ yếu
mà người Việt cổ phải chống chọi có thể là thuỷ tai. Nó cũng cho thấy các
sức mạnh thiên nhiên, hay những nhân vật quan trọng giúp người dân
chống chọi với thiên nhiên được thần tượng hoá (Sơn Tinh, Thủy Tinh).
Các vị thần này vẫn có thể có quan hệ hôn nhân với các công chúa của
vua Hùng, vốn là những người bình thường. Thông lệ cống nạp sản vật
quý hiếm như là một thước đo cho giá trị đã thịnh hành vào thời các vua
Hùng, theo lời kể của truyền thuyết này.
Các truyền thuyết khác như Phù Đổng Thiên Vương miêu tả một cuộc
xâm lấn của giặc Thương Ân vào thời Hùng Vương thứ 6, Mai An Tiêm
miêu tả sự khai phá vùng đất phía nam (Thanh Hoá) với giống hoa quả

mới (dưa hấu), sự tích trầu cau giải thích về phong tục ăn trầu ...
Văn Lang chấm dứt
Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía đông bắc Văn Lang sang
đánh (năm 258 TCN), kết thúc thời kỳ nhà nước Văn Lang. Ngày nay ở
vùng cao nguyên Đà Lạt, vẫn còn một tộc người thiểu số tự xưng là con
cháu loài chim Lạc, có thể giả định là di dân của các bộ lạc Lạc Việt cổ
sau nhiều thời kỳ chiến tranh loạn lạc.
Nghi vấn lịch sử
Trong sách giáo khoa bậc phổ thông, đời Hồng Bàng được dạy đầy đủ từ
Kinh Dương Vương cho tới 18 vua Hùng như một sự thật hiển nhiên. Tuy
nhiên, trong giới sử học, một số nghi vấn vẫn được đặt ra về đời Hồng
Bàng.
Nhà nước
• Có đời Hồng Bàng hay không? Có người cho rằng di tích lịch sử
chưa chứng minh được sự hiện hữu của một chế độ cai trị như sử
vẫn chép về đời Hồng Bàng. Người khác cho rằng sự hiện diện của
trống đồng có tuổi vào những năm 200-300 TCN, nếu chưa chứng
minh được đời Hồng Bàng, cũng đủ để không bác bỏ những điều sử
cũ chép về đời Hồng Bàng.
• Có phải đời Hồng Bàng là sản phẩm tưởng tượng của một sử gia thế
kỷ 14? Người đặt nghi vấn này dựa trên việc sử cổ không viết về
đời Hồng Bàng: Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu không
chép gì về đời Hồng Bàng mà bắt đầu từ đời Triệu Vũ Vương. An
Nam Chí Lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1335, cũng
không viết gì về đời Hồng Bàng mặc dù có nói nước An Nam đã
giao thiệp với Trung Hoa từ thời Nghiêu Thuấn. Phải đến khoảng
1377, trong Việt Sử Lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có

×