Trờng Đại học Vinh
Khoa ngữ văn
----------------------
Khoá luận tốt nghiệp
Chuyên ngành: lý luận văn học
Vũ Ngọc Phan và nhà văn hiện đại
Giáo viên hớng dẫn: ThS.
Sinh
Lớp:
Lê Sử
viên thực hiện: Lê Thị Luyến
47B4 Ngữ văn
Vinh - 2010
1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vũ Ngọc Phan là một trong số những nhà phê bình xuất sắc nhất
của văn học Việt Nam hiện đại (bên cạnh những tên tuổi lớn nh Hải Triều,
Thiếu Sơn, Đặng Thai Mai, Trơng Tửu, Hoài Thanh). Tác phẩm phê bình
của Vũ Ngọc Phan đà thực sự có ý nghĩa và ảnh hởng lớn đối với đời sống
sáng tác cũng nh hoạt động nghiên cứu và tiếp nhận văn học nửa đầu thế kỷ
XX cho đến nay, đặc biệt là Nhà văn hiện đại.
1.2. Nhà văn hiện đại là tác phẩm đà làm nên tên tuổi Vũ Ngọc Phan
với t cách là một nhà phê bình văn học trớc Cách mạng tháng Tám (sau cách
mạng Vũ Ngọc Phan với t cách là một nhà su tầm và biên khảo). Vì thế Nhà
văn hiện đại đợc xem là cả sự nghiệp phê bình của ông. Với những phát hiện
mới mẻ về 79 nhà văn hiện đại về những tác phẩm của họ trên nhiều thể loại.
Nhà văn hiện đại đà để lại những t liệu văn học quý báu cho tất cả những ai
tìm hiểu, nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại. Vũ Ngọc Phan là ngời đầu
tiên viết phê bình sự nghiệp của 79 tác giả vì thế mà nghiên cứu Nhà văn
hiện đại cũng chính là nghiên cứu những bớc đi đầu tiên của 79 sự nghiệp
văn học đồng thời cũng chính là nghiên cứu chặng đờng đầu tiên của văn học
Việt Nam hiện đại.
1.3. Mặc dầu Nhà văn hiện đại là một cuốn sách phê bình có giá trị, có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phê bình của Vũ Ngọc Phan và đối với văn
học Việt Nam nhng cho đến nay vẫn cha có một công trình nào nghiên cứu
trọn vẹn và toàn diện về nó mà phần lớn chỉ đợc nghiên cứu chung trong một
công trình cùng với một số tác giả khác hoặc chỉ là những bài viết nhỏ đăng
báo. Vì thế vẫn cha có một sự đánh giá thoả đáng cho Nhà văn hiện đại và
công lao của Vũ Ngọc Phan.
1.4. Phê bình văn học Việt Nam hiện đại nói chung, giai đoạn từ 19321945 nói riêng là một hoạt động văn học sôi nổi với nhiều khuynh hớng,
nhiều trờng phái phê bình khác nhau, vì thế có rất nhiều cách phân chia
2
khuynh hớng phê bình văn học dẫn đến có những sự xếp đặt khác nhau về
cây bút phê bình Vũ Ngọc Phan vào các khuynh hớng phê bình đơng thời.
Căn cứ vào lời phát biểu của chính Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại
nhiều ngời đà xếp ông vào nhà phê bình khoa học với phơng pháp phê bình
khoa học. Nhng đọc kỹ Nhà văn hiện đại với lối phê bình của Vũ Ngọc Phan
chúng tôi nhận thấy rằng giữa phơng pháp phê bình trong Nhà văn hiện đại
với lời tuyên bố của tác giả có phần cần phải trao đổi thêm.
Vì thế nghiên cứu Vũ Ngọc Phan và Nhà văn hiện đại chúng tôi muốn
đa đến một cái nhìn khách quan, xác đáng hơn về vị trí của Nhà văn hiện
đại trong sự nghiệp văn học của Vũ Ngọc Phan và trong chặng đờng đầu của
nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại về phơng pháp phê bình và những
đóng góp phê bình văn học của ông qua công trình này.
2. Lịch sử vấn đề
Từ kết quả su tầm các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết trên
các tạp chí, sách báo chuyên ngành từ khi Nhà văn hiện đại xuất bản cho
đến nay, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu Vũ Ngọc Phan và Nhà văn
hiện đại cha đợc các tác giả đề cập sâu sắc và toàn diện mà chỉ là những bài
viết, những công trình nghiên cứu chung với các tác giả và tác phẩm khác,
đặc biệt là với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam. Hoặc là những bài viết
đăng báo nói về phơng pháp phê bình, thái độ phê bình, phong cách phê bình
của Vũ Ngọc Phan một cách đại khái, sơ lợc. Trong các bài viết đó có những
ý kiến trái chiều, có khen và có chê Tiêu biểu là một số công trình sau:
Về những bài viết, những ý kiến biểu dơng, khen ngợi nhà văn Vũ Ngọc
Phan và khẳng định giá trị to lớn của công trình Nhà văn hiện đại. Trên tờ
Tân dân số ra ngày 5/10/1942 đánh giá: Nhà văn hiện đại là một công trình
khảo cứu và phê bình sự nghiệp văn chơng của các nhà văn hiện đại rất công
phu, lời văn sáng suốt mà ý kiến phần nhiều lại rất xác đáng, thật bổ ích cho
những ai muốn nghiên cứu văn chơng níc nhµ hiƯn nay”.
3
Trên tờ Tin mới số ra ngày 9/10/1942, thì nhận xét: Nhà văn hiện đại
của Vũ Ngọc Phan là một cuốn phê bình có phơng pháp, còn hành văn thì lại
rất sáng suốt, giản dị. Cứ xem đó ngời ta cũng hiểu đợc cái lịch trình tiến
hoá của nền văn học xứ này trong mấy chục năm gần đây.
Năm 1984, trong cuốn Từ điển văn học, các tác gải đà đánh giá về công
trình phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan nh sau: Trớc Cách mạng tháng
Tám, chủ yếu Vũ Ngọc Phan đợc nhiều ngời biết đến qua bộ sách Nhà văn
hiện đại (1942). Mặc dầu phơng pháp nghiên cứu cha thật khoa học nhng
công trình nghiên cứu có nhiều u điểm: t liệu phong phú, chính xác thái độ
khen chê rõ ràng và xây dựng. Đây là một bộ sách nghiên cứu nghiêm túc.
Năm 1987, tác giả Đặng Tiến trên tạp chí Đoàn kết (Pari) với bài viết có
nhan đề: Nguồn sáng Vũ Ngọc Phan, đà nhận xét: Lối phê bình của Vũ
Ngọc Phan là khoa học, khách quan, vừa tổng hợp lại vừa phân tích. Còn
trong cuốn Tác giả văn học Việt Nam, các tác gải đà nhận xét: Bộ sách năm
quyển này của ông đà trở thành một sự kiện văn học thời đó. Và ông đà tỏ
ra chắc chắn và khá sáng suốt khi phân tích, đánh giá văn chơng.
Năm 1992, trên tờ báo Văn nghệ số 38, Tô Hoài viết: Đối với Nhà văn
hiện đại, ý kiến có thể khác nhau nhng một điều ai cũng phải công nhận bộ
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan nh một thứ từ điển văn học đà đợc viết
một cách công phu, mọi dẫn chứng đều đợc đa ra một cách có phơng pháp và
có số lợng, chứng liệu tỉ mỉ, xác đáng. Vũ Ngọc Khánh có bài Học tập nhà
văn Vũ Ngọc Phan đăng trên tạp chí Văn học số 6 có đoạn: Thái độ phê
bình của Vũ Ngọc Phan là một u điểm rất đáng đợc biểu dơng. Ông trân
trọng tài năng, đề cao các thành tựu nhng bao giờ cũng có mức độ, không hề
quá lời. Những nhợc điểm của các tác giả, tác phẩm đều đợc ông chỉ rõ, cũng
rất bình tĩnh, nhà nhặn, nhiều khi thâm thúy hóm hỉnh kiểu nhà nho.
Lại Nguyên ân trong Đọc lại ngời trớc, đọc lại ngời xa có viết: ở mỗi
bài viết về một nhà văn, Vũ Ngọc Phan vừa nêu nhà văn bao quát lại vừa
dùng lại với những tác phẩm chính, toát yếu phẩm bình, từ đặc điểm chung
4
đến những đoạn, những câu cụ thể, ông viết nh một ngời viết bút ký. Nếu căn
cứ vào lối viết, có thể xem lối viết trong Nhà văn hiện đại là lối viết của các
nhà biên khảo, nhng nhà biên khảo ở đây đang làm việc trên một vùng tài
liệu còn cha hoàn thành: các tác giả còn đang viết tiếp, các tác phẩm còn
đang mới cha dễ ổn định cho sự đánh giá Bởi vậy dạng viết về tác giả ở
đây là dạng bút ký của nhà biên soạn. Giá trị chủ yếu của Nhà văn hiện đại
là ở chất của nó, các dữ kiện mà nhà biên khảo thu thập đợc.
Cũng trong năm 1992, Nguyễn Ngọc Thiện đà đánh giá về phơng pháp
phê bình của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại là: Phơng pháp so
sánh, phân định nhà văn và tác phẩm theo nhóm và loại, tỏ rõ sự am hiểu
sâu sắc đặc trng của các thể loại văn xuôi hơn cả, đặc biệt là đối với tiểu
thuyết.
Năm 1994, Trần Thị Việt Trung đánh giá rất cao sự đóng góp của Vũ
Ngọc Phan: Trong tất cả các cuốn sách phê bình theo phơng pháp khoa học
trớc 1945, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là cuốn sách nổi trội hơn cả,
có sức khái quát rộng lớn, có sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc, chuẩn xác và
khách quan hơn cả về các tác giả trong khoảng ba mơi năm ở Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan là một trong số rất ít nhà phê bình hiện đại có trình độ
chuyên môn cao ở nớc ta thời kỳ trớc 1945 và công trình phê bình này của
ông thực sự là một công trình khoa học có giá trị.
Năm 1995, Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản cuốn Nhà văn Vũ Ngọc
Phan, cuốn sách đà tổng hợp đợc nhiều ý kiến về bộ Nhà văn hiện đại. Hầu
hết các ý kiến đều thừa nhận thái độ làm việc công phu, tỉ mỉ, tận tụy, khách
quan khi viết bộ Nhà văn hiện đại. Cũng trong năm 1995, trong bài Đóng
góp của Vũ Ngọc Phan vào văn học sử nớc nhà, đánh giá: Có thể nói đây
là bộ sách văn học sử, qua những tác giả và tác phẩm cụ thể của một giai
đoạn phát triển quan trọng của nền văn học Việt Nam. Tổng hợp lại Nhà văn
hiện đại là một bộ sách quý để hiểu về một giai đoạn văn học của nớc nhà.
Nếu không có công trình của Vũ Ngọc Phan thì bây giờ và sau này còng khã
5
mà tìm hiểu sâu sắc, cặn kẽ, cụ thể và sinh động giai đoạn ấy, những tác giả
ấy, những tác phẩm ấy.
Năm 2002, nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Vũ Ngọc Phan, trên
tạp chí Văn học số 11/11/2002. Ngun Duy Q víi bµi viÕt Vị Ngäc
Phan, ngêi cầm bút chân chính đà đánh giá: T liệu dùng vào bộ sách lấy ở
sổ tay, ông có trên 50 sổ tay ghi về văn học Việt Nam, văn học nớc ngoài,
lịch sử Việt Nam. Cũng trong số báo này giáo s Phong Lê có bài Vũ
Ngọc Phan và Nhà văn hiện đại đà viết: Bộ sách Nhà văn hiện đại, bốn
quyển, năm tập sừng sững ở một tầng cao mà không ngời tập sự nghiên cứu
văn học hiện đại nào không chọn làm sách gối đầu giờng và Bộ sách còn là
hiện thân, là đại diện, là sản phẩm sự kết tinh ở đỉnh cao thành tựu của tiến
trình văn học hiện đại, văn học dân tộc diễn ra cha đầy ba mơi năm.
Tuy nhiên một tác giả dù tài năng đến đâu, một công trình dù đồ sộ đến
đâu và xuất sắc đến đâu cũng không tránh khỏi những hạn chế, vì thế đà có
những nhận xét, những đánh giá trái chiều. Tiêu biểu là ý kiến của tác giả Lê
Thanh đợc đăng tải trên các tạp chí: Tri tân và sau này đợc Lại Nguyên ân su tầm và biên soạn lại trong cuốn Lê Thanh, phê bình và nghiên cứu văn
học, Nxb Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2002. Lê Thanh Định
nghĩa nh thế Vũ Ngọc Phan mới chịu phân biệt nhà văn với nhà báo mà thôi.
Ông còn quên cho độc giả rõ thế nào là nhà văn, thế nào là nhà báo. Hẫu
hết trong các bài phê bình của ông có hai đoạn, một đoạn khen những cái
hay, một đoạn chê những cái dở, tôi có cảm tởng trong nhiều bài ông không
muốn chê nhng vì đà đặt ra công việc nh vậy nên ông cũng phải tìm cái gì, dù
rất nhỏ để chê. ở một đoạn, trong bài viết khác, Lê Thanh lại nói: Cũng cái
lối phê bình tỉ mỉ nó làm cho tác giả không phân biệt đợc cái gì cần nói, cái
gì cần bỏ qua và Vũ Quân chỉ đem những chỗ sai lầm ra đính chính, đem
một vài đặc điểm đặc sắc ra khen Phê bình một văn nghiệp, ông đem hầu
hết những tác phẩm của nhà văn ra khen chỗ này hay, chỗ kia dở, chữ này
dùng sai, khen chê định giá từng tác phẩm.
6
Các hạn chế mà tác giả nêu ra ở trên không phải là không có cơ sở, nhng
đó không phải là điều cơ bản để chúng ta nhìn nhận, đánh giá lại giá trị to
lớn của bộ sách Nhà văn hiện đại cùng những đóng góp của Vũ Ngọc Phan
trong tiến trình phát triển của nền phê bình văn học nớc nhà.
Nh vậy, nhìn chung các bài viết chủ yếu tập trung nghiên cứu, phê bình
về phơng pháp phê bình của Vũ Ngọc Phan và những đóng góp của ông qua
Nhà văn hiện đại rât chung chung và chỉ nhìn trên đại thể. ở đây Vũ Ngọc
Phan thể hiện rõ là một nhà phê bình có t tởng, quan niệm và chủ kiến riêng.
Vì thế ở đề tài này ngoài việc hệ thống hoá lại các phơng pháp phê bình của
Vũ Ngọc Phan chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu phê bình của ông qua
bộ Nhà văn hiện đại về các nhà văn hiện đại tiêu biểu.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ luận văn, trong chơng 3, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên
cứu những đóng góp của vũ Ngọc Phan trong việc phê bình các nhà văn Việt
Nam giai đoạn 1932 - 1945
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
- Đánh giá giá trị, vị trí của Nhà văn hiện đại trong sự nghiệp văn học
của Vũ Ngọc Phan và trong nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
- Phân tích, đánh giá phơng pháp phê bình của Vũ Ngọc Phan,
- Trình bày những đóng góp tiêu biểu của Vũ Ngọc Phan qua công
trình Nhà văn hiện đại.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trong khoá luận này chúng tôi sử dụng các phơng pháp nghiên cứu sau:
Phơng pháp đối chiếu so sánh
Phơng pháp phân tích tổng hợp
Phơng pháp lịch sử
6. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung chính của khoá luận gồm ba
chơng.
7
Chơng 1. Vị trí của Nhà văn hiện đại trong sự nghiệp văn học của Vũ
Ngọc Phan và trong chặng đầu của nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại
Chơng 2. Phơng pháp phê bình của Vũ Ngọc Phan qua Nhà văn hiện
đại
Chơng 3. Đóng góp của Vũ Ngọc Phan qua việc phê bình những sáng
tác của các nhà văn hiện đại
8
Nội dung
Chơng 1
Vị trí của Nhà văn hiện đại trong sự nghiệp văn học
của Vũ Ngọc Phan và trong chặng đầu
của nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại
1.1. Sự phân chia phê bình văn học Việt Nam hiện đại ra thành các
giai đoạn
Phê bình văn học là một bộ môn của khoa học văn học bên cạnh các bộ
môn khoa học khác nh: Lý luận văn học, Lịch sử văn học, Phơng pháp luận
nghiên cứu văn học, Thi pháp học, Tâm lý học văn học Phê bình văn học
nhìn từ góc độ chức năng: Là nhân tố tổ chức quá trình văn học thành một
chỉnh thể, tác động vào sáng tác, và tác động vào quá trình tiếp nhận của độc
giả. Đó là hoạt động nghiên cứu, đánh giá, phán đoán giá trị của một hiện tợng văn học nh: tác phẩm, tác giả, trào lu văn học, khuynh hớng văn học,
thậm chí cả những công trình nghiên cứu phê bình của các nhà phê bình văn
học. Phê bình văn học nhằm vạch ra những nét đặc sắc, độc đáo của đối tợng
phê bình. Đồng thời chỉ ra những hạn chế của nó trong tiến trình phát triển
của văn học. Hoạt động này trớc hết là phải dựa vào việc cảm thụ đối với tác
phẩm và sau đó là cơ sở lý luận phê bình.
Phê bình văn học là một bộ phận của đời sống văn học vì thế hoàn cảnh
của sáng tác văn học cũng chính là hoàn cảnh của hoạt động phê bình. Thế
kỷ XX với sự hình thành dân tộc hiện đại và ý thức mạnh mẽ quyền sống của
dân tộc, văn học dân tộc, cùng với sự tác động của tâm lý thời chiến trong
cuộc kháng chiến cứu nớc lâu dài. Thế kỷ XX cũng chính là thế kỷ của đấu
tranh giai cấp gay gắt trên phơng diện ý thức hệ. Đặc biệt sự tiếp xúc giao lu
quốc tế giữa Việt Nam và thế giới, lý luận phê bình của nớc ta phát triển đợc
là nhờ vào sự tiếp xúc, giao lu với văn hoá văn học nớc ngoài. Thời kỳ đổi
mới tiếp tục ảnh hởng mạnh mẽ của phơng Tây. Thành tựu phê bình dựa vào
sự vận dụng thi pháp học phơng Tây cùng với sự phát triển sôi nổi của báo
9
chí và nhà xuất bản càng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động phê
bình văn học.
Việc phân kỳ tiến trình lý luận phê bình văn học Việt Nam hiện đại có
nhiều ý kiến khác nhau. Nhng ý kiến hợp lí và đợc nhiều ngời tán đồng ủng
hộ hơn cả là ý kiến của giáo s Trần Đình Sử.
Theo Trần Đình Sử, phê bình văn học Việt Nam hiện đại đợc chia làm
bốn giai đoạn nh sau:
1.1.1. Giai đoạn 1900-1931
Là giai đoạn chuyển mình của phê bình văn học, chuẩn bị cho bớc phát
triển ở giai đoạn sau. Sự ra đời của Đông Dơng tạp chí và Nam Phong tạp chí
làm cho tình hình văn học nói chung và phê bình văn học nói riêng đà nổi lên
hai khuynh hớng tiêu biểu: một là khuynh hớng cố tìm lại văn hoá văn học
trong quá khứ. Khuynh hớng thứ hai là mở rộng dịch thuật, giới thiệu t tởng
văn hoá văn nghệ Pháp và các nớc châu Âu trên báo chí hợp pháp. Tuy nhiên,
t tởng văn học và phê bình thời kỳ này chủ yếu là quan niệm truyền thống cổ
xa, t tởng mới tuy có đợc giới thiệu nhng cha đủ mạnh để trở thành xu thế
chính. Những mâu thuẫn giữa văn học có ích và văn chơi, văn sự nghiệp và
thú văn chơng, văn cổ điển và văn hiện đại đà dự báo cho những cuộc tranh
luận ở thời kỳ sau.
Khẳng định, đề cao tinh thần văn hoá dân tộc là đặc điểm nổi bật của
phê bình văn học giai đoạn này. Nó đợc thể hiện rõ qua các công trình của
các tác giả nh: Việt Hán văn khảo (1918) của Phan Kế Bính; Nam thi hợp
tuyển (1927) của Nguyễn Văn Học và đặc biệt là trên tạp chí Nam Phong
đà xuất hiện mục Phê bình sách mới. Bên cạnh đó còn là các cuộc tranh luận
mang tính luận chiến về t tởng của các nhà nghiên cứu. Nổi bật nhất là cuộc
tranh luận về Truyện Kiều. Cuộc tranh luận này thực chất là sự đụng độ về t
tởng chính trị giữa các nhà Nho yêu nớc (Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng)
và t tởng chính trị cải lơng của những ngời nuôi mộng quân chủ lập hiến t sản
(Phạm Quỳnh).
10
1.1.2. Giai đoạn 1932-1945
Đât là giai đoạn phát triển vợt bậc của phê bình văn học. Với sự phong
phú đa dạng của các khunh hớng phê bình du nhập từ phơng Tây. Đặc điểm
của lý luận phê bình văn học giai đoạn này chính là sự hình thành t tởng míi,
Phđ nhËn t tëng cị, më ra nhiỊu cc tranh luận quan trọng mà trong đó
hàng loạt vấn đề lý luận cho đến hết thế kỷ XX, bớc sang cả thế kỷ XXI vẫn
đang còn tranh cÃi và có nhu cầu tiếp tục cần đợc giải quyết. Đây cũng là giai
đoạn hình thành lý luận phê bình văn học nh một thể loại mới xa nay cha
từng có và đồng thời xuất hiện những nhà lý luận phê bình văn học chuyên
nghiệp.
Giai đoạn này cũng là thời điểm Vũ Ngọc Phan viết Nhà văn hiện đại vì
thế chúng tôi sẽ trình bày đặc điểm của giai đoạn này kỹ càng hơn ở mục sau.
1.1.3. Giai đoạn 1945-1986
Là giai đoạn hình thành, củng cố lý luận phê bình dới sự lÃnh đạo của
Đảng. Có vai trò khẳng định thành tựu của văn học cách mạng, đa văn học
đến với quần chúng nhân dân.
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn là việc xác lập sự lÃnh đạo toàn diện
của Đảng Cộng sản đối với văn hoá văn nghệ, là sự truyền bá lý luận văn học
Mác-xít và lý luận hiện thực xà hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn nghệ mới và
phê bình văn học mới theo định hớng dân chủ mới và xà hội chủ nghĩa. Đây
cũng là thời kỳ đất nớc bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị xÃ
hội khác nhau. Vì thế mà lúc này có cả hoạt động lý luận phê bình trong
vùng tạm chiếm.
Từ đặc điểm trên đà đa đến sự xác lập các đặc điểm lý luận và hoạt
động lý luận phê bình cơ bản là: thứ nhất, văn học phục tùng và phục vụ cho
chính trị của Đảng Cộng sản và nhân dân lao động, đây là đặc điểm xuyên
suốt từ ngày Đảng Cộng sản nắm quyền lÃnh đạo cách mạng và nhà nớc Việt
Nam ra đời. Thứ hai, là vỊ thÕ giíi quan vµ vèn sèng: mn phơc vơ cách
mạng, phục vụ sự nghiệp của Đảng thì nhà văn trớc hết phải có thế giới quan
tiến bộ nhất và cách mạng nhất. Đó chính là thế giới quan Mác-Lênin, lµ chđ
11
nghÜa duy vËt biƯn chøng vµ chđ nghÜa duy vËt lịch sử. Vốn sống là điều kiện
không thể thiếu để sáng tác văn học. Vốn sống ở đây không phải là vốn sống
tự có của mỗi con ngời mà là vốn sống của hiện thực cách mạng trên các mặt
trận sản xuất và mặt trận chiến đấu. Thứ ba, về phơng pháp sáng tác hiện
thực xà hội chủ nghĩa, đây là phơng pháp chủ đạo có tính chất chính thống
của hoạt động sáng tác và phê bình văn học giai đoạn này. Nó đề cao tính
dân tộc, dân tộc hoá.
Hoạt động nghiên cứu và lý luận phê bình văn học có những thành tựu
đáng chú ý, đáng ghi nhận đó là: xây dựng đợc một nền lý luận văn nghệ
cách mạng, nghiên cứu, diễn giải đờng lối văn nghệ của Đảng. Phê bình văn
học cách mạng với các tác phẩm phê bình lớn nh: Tiếng thơ của Xuân Diệu,
Nói chuyện thơ kháng chiến và Phê bình và tiểu luận của Hoài Thanh, Trên
đờng học tập và nghiên cứu của Đặng Thai Mai, Bình luận văn học của Nh
Phong, Tác phẩm và chân dung của Phan Cự Đệ, Phê phán chủ nghĩa hiện
sinh của Đỗ Đức Hiểu ở giai đoạn này chúng ta cũng đà xây dựng đợc một
nền nghiên cứu học tập mới. Các thế hệ nhà lý luận phê bình văn học giai
đoạn này rất đông đảo, thống nhất về mục tiêu và phơng pháp nhng khác
nhau ở khu vực hoạt động và có những đóng góp riêng.
1.1.4. Giai đoạn 1986 đến nay
Là giai đoạn đổi mới mạnh mẽ của phê bình. Trớc hết là sự nhìn nhận lại
những hiện tợng văn học bị đánh giá sai lầm và lệch lạc trong giai đoạn trớc.
Đầu tiên là sự đổi mới quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn nghệ.
Nếu ở giai đoạn trớc, quan điểm của Đảng về văn nghệ là vũ khí, là công cụ
của Đảng phục vụ sự nghiệp chính trị thì đến giai đoạn này quan quan niệm:
Văn nghệ là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xà hội, thể hiện
trình độ phát triẻn chung của một đát nớc, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất
tinh thần tạo ra những giá trị văn hoá. Những công trình nghệ thuật đợc lu
truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống con ngời.
Đến đây, Đảng ta nói: Văn nghệ phục vụ con ngời, xây dựng con ngời
mới, góp phần phục vụ các nhiẹm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan
12
träng trong viƯc x©y dùng con ngêi míi x· héi chủ nghĩa, chú trọng phát huy
bản sắc của nền văn hoá dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh để mở
rộng và làm sâu thêm quá trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống đất nớc.
Trong phê bình, ngời ta cố gắng đánh giá lại các hiện tợng văn học lịch
sử công bằng hơn, thấu đáo hơn nh văn học mấy chục năm đầu thế kỷ XX,
phong trào thơ mới, Tự lực văn đoàn, trờng hợp Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Tuân Ngay cả văn học cách mạng giai đoạn trớc cũng cần đợc nhìn nhận
lại cho thoả đáng và công bằng hơn, tránh xu hớng khẳng định, ca ngợi một
chiều. Một số hiện tợng văn học bị phê phán nặng nề trớc đây cũng dần dần
đợc minh oan, nhìn nhận lại cho đúng thực chất.
ở giai đoạn này, vấn đề đánh giá các tác phẩm văn học đơng đại cũng đợc chú trọng hơn nh: về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu, các sáng tác thơ theo hớng hiện đại chủ nghĩa. Việc
đánh giá tác phẩm văn học đơng đại bao giờ cũng gây tranh cÃi nhiều nhất,
bởi đó là lĩnh vực thờng xuyên có những va chạm giữa các tiêu chí phê bình
và quan niệm văn học cũ- mới. Cũng nh các giai đoạn phê bình văn học khác,
giai đoạn này xảy ra nhiều cuộc tranh luận trong phê bình tác phẩm nhng
khác với các giai đoạn trớc thờng chỉ có một bên phê phán, một bên chịu
trận, giai đoạn này đà có những cuộc trao đổi cởi mở hơn nhiều, mặc dầu
không phải bao giờ cơ hội phát biểu các ý kiến cũng đợc chia đều cho nhau.
Phê bình văn học giai đoạn này đặc biệt các thế hệ phê bình nghiên cứu
văn học thực sự hùng hậu: đó là các nhà văn, nhà báo, nhà quản lý văn nghệ
(Nguyễn Khải, Văn Tâm, Vơng Trí Nhàn), các nhà lý luận phê bình
nghiên cứu ở các trờng đại học (Lê Trí Viễn, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Đức
Hiểu, Trần Đình Sử, Trần Đình Hợu), các nhà lý luận phê bình nghiên cứu
ở các viện nghiên cứu (Phong Lê, Phan Ngọc, Đỗ Lai Thuý). Bên cạnh đó
còn có các nhà phê bình nghiên cứu ở hải ngoại (Thuỵ Khê ở Pháp, Hoàng
Ngọc Tuấn ở úc).
Nh vậy, lý luận phê bình văn học Việt Nam hiện đại có thể nói là một
quá trình phát triển mau lẹ, liên tục và không ít kịch tính. Bốn giai đoạn lý
13
luận phê bình trong thế kỷ hiện đại hoá văn học và hội nhập vào đời sống văn
học thế giới đà làm cho nền văn học từ trung đại cha thực sự phát triển về lý
luận phê bình trở thành một nền lý luận phê bình tuy có phần hạn chế nhng
vẫn cố gắng đồng hành cùng với văn học dân tộc và với lý luận phê bình văn
học thế giới trong những trào lu lớn.
1.2. Sự phát triển mạnh mẽ của phê bình văn học giai đoạn 1932-1945
1.2.1. Diện mạo của phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1932- 1945
Một giai đoạn phê bình văn học mới bao giờ cũng đánh dấu bằng một
sự kiện mới, nảy sinh từ một nền t tởng mới. ở giai đoạn này, phê bình văn
học đợc đánh dấu bằng một loạt những sự kiện lớn hình thành trên nền t tởng
hiện đại. Đặc điểm chủ yếu của phê bình văn học 1932-1945 là sự hình
thành t tởng mới, phủ nhận t tởng cị, nỉ ra nhiỊu cc tranh ln quan träng
mµ hµng loạt vấn đề lý luận trong đó cho đến thế kû XX, bíc sang thÕ kû
XXI vÉn cßn tranh c·i và cha đợc giải quyết một cách triệt để. Đây cũng là
giai đoạn hình thành một nền lý luận phê bình văn học mới với t cách là một
thể loại mới mà xa nay cha từng có. Đồng thời cũng xuất hiện những nhà
phê bình văn học chuyên nghiệp nh: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Đặng Thai
Mai, Trơng Tửu, Hải Triều, Thiếu Sơn với những công trình mang ý nghĩa
tổng kết một giai đoạn văn học tiêu biểu là Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc
Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Phê bình và cảo luận của Thiếu
Sơn
1.2.2. Những sự kiện, vấn đề nổi bật của phê bình văn học Việt Nam
giai đoạn 1932-1945
Với sự xác lập quyền lÃnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930
đà đánh dấu một bớc ngoặt quan trọng không những về chính trị-xà hội mà
còn về văn học. Xét trên lĩnh vực văn học, năm 1932 với sự xuất hiện nhiều
hiện tợng văn học đà đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trên nhiều phơng diện:
nhóm tác giả Tự lực văn đoàn lấy tờ báo Phong hoá làm cơ quan ngôn luận ra
đời đà có nhiều sáng tác mới, xuất hiện nhiỊu trun ng¾n, tiĨu thut, phãng
sù viÕt theo lèi míi của Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo Và cũng là năm
14
ra đời của Thơ mới đợc đánh dấu bằng bài thơ Tình già của Phan Khôi. Đặc
biệt là sự xuất hiện một thế hệ văn sĩ mới, với cách cảm xóc míi, lèi suy nghÜ
míi dÉn ®Õn sù ra ®êi của nhiều kiểu viết mới. Từ những tiền đề đó đà làm
nảy sinh thêm nhiều cuộc tranh luận mới trong đời sống phê bình văn học.
Tiêu biểu nhất là: cuộc tranh luận xác lập quan niệm nghệ thuật mới, cuộc
đấu tranh cho sự hình thành và thắng lợi của Thơ mới, cuộc tranh luận về
vấn đề dâm hay không dâm trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng và tiếp tục
cuộc tranh ln vỊ Trun KiỊu.
1.2.2.1. Cc tranh ln cho sù hình thành và thắng lợi của Thơ mới
Cuộc tranh luận giữa Thơ mới và thơ cũ nó kéo dài trong suốt mời năm,
bắt đầu với bài Về một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi
đăng trên tờ Phụ nữ tân văn, Sài Gòn số 122 ra ngày 10/3/1932. Và kết thúc
bằng bài tiểu luận phê bình Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh năm
1942.
Đây là cuộc tranh luận rất gay gắt và phức tạp với sự tham gia của nhiều
cây bút có tên tuổi (Hoài Thanh, Lu Trọng L, Phan Khôi, Hải Triều). Lẽ
thờng những cuộc tranh luận bao giờ cũng xảy ra những sự công kích, bài
xích lẫn nhau nhằm khẳng định vị trí và tiếng nói của mình trên thi đàn. Các
nhà Thơ mới thì chế bai, chế giễu thơ cũ; còn các nhà thơ cũ cũng ra sức mịêt
thị và nhạo báng Thơ mới. Tinh thần của các nhà Thơ mới đợc gửi gắm trong
những lời phát biểu của Phan Khôi: Đem ý thật có trong tâm khảm tả ra
bằng những câu có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết.
Lu Trọng L hởng ứng và đòi hỏi: Tự do phát triển thi ca, đa thi ca đến chỗ
cao xa, rộng lớn. Ngời thanh niên Việt Nam chỉ ao ớc có một điều là có đợc một ngời thi nhân hiểu thấu mình và yên ủi mình, một bậc thầy tài lỗi lạc
đi vào tâm hồn của mình đến những chỗ cùng sơn mà vạch ra cái kín nhiệm,
u ất rồi đa phả vào những cái âm điệu dơng, cho mình đợc nhẹ nhàng th
thả. Đến năm 1936, thì Thơ mới thắng thế và tác giả Lê Tràng Kiều
khẳng định: Từ bây giờ chỉ còn ghi lại những áng thơ hay mà thôi, không
còn chia rẽ mới, cũ nữa. Đến năm 1942, Một thời đại trong thi ca cđa Hoµi
15
Thanh trình làng thì cuộc tranh luận này mới thực sự kết thúc. Ngời đem lại
sự thắng thế cho Thơ mới trớc hết chính là ở các tác giả Thơ míi víi nh÷ng
thi phÈm u tó cđa hä cïng víi tiếng nói ủng hộ của các nhà phê bình tiêu
biểu là Hoài Thanh, Phan Khôi, Thiếu Sơn
1.2.2.2. Cuộc đấu tranh x¸c lËp quan niƯm nghƯ tht míi
Thùc chÊt cc tranh luận này không chỉ bó hẹp trong phạm vi văn học.
Nó kéo dài từ năm 1935 - 1939, với hơn 80 bài viết của hàng chục tác giả có
tên tuổi. Mở màn cuộc tranh luận là bài Hai cái quan niệm về văn học của
Thiếu Sơn, đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy, số 38, ra ngày 16/02/1935. Và
kết thúc bằng bài Cái khiếu văn chơng của Các Mác của tác giả Lu Trọng L
đăng trên tạp chí Tao Đàn, số 8, ra ngày 16/06/1939.
Cuộc tranh luận làm rõ các khía cạnh của những quan hệ giữa văn học
với đời sèng: x· héi, lÞch sư, lËp trêng giai cÊp, néi dung, đề tài của phái Vị
nhân sinh do Hải Triều đứng đầu. Bên kia chiến tuyến là Hoài Thanh làm
chủ soái cùng với Thiếu Sơn và những ngời đồng t tởng trình bày các khía
cạnh đặc tính nghệ thuật của văn học: chức năng thẩm mỹ, tài năng, tự do
sáng tác, hình thức văn học, của phái Vị nghệ thuật. Hạn chế của phái
Vị nhân sinh là coi nhẹ tính chất đặc trng của văn học là tính thẩm mỹ, mà
quá thiên về chức năng xà hội của văn chơng. Còn hạn chế của phái Vị nghệ
thuật là cha thấy nguồn gốc và mối quan hệ giữa văn học và đời sống xà hội
mà quá đề cao dẫn đến cô lập văn chơng trong phạm vi thẩm mỹ. Với câu nói
nổi tiếng của Hoài Thanh văn chơng là văn chơng.
Thực chất cuộc tranh luận này là sự đụng độ giữa quan điểm văn học
tiểu t sản, t sản với văn học vô sản. T tởng Macxít đà đợc vận dụng nhiều
trong bài viết của các tác giả thuộc phái Vị nhân sinh. Các tác giả nh: Bùi
Công Trừng, Lâm Mộng Quang, Hải Triều, đà lần lợt trình bày các quan
điểm văn học theo lí luận Macxít, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng, quan hệ giữa văn học với giai cấp, văn học với xà hội, văn học với
tiến hoá. Các quan điểm này tuy mới mẻ, có sức thuyết phục nhng còn khô
16
khan, sơ lợc. Sự thắng lợi của phái Vị nhân sinh” lµ sù lùa chän cđa thêi
cc, lµ mét tÊt yếu lịch sử.
1.2.2.3 Cuộc tranh luận về vấn đề dâm hay không dâm trong sáng tác
của Vũ Trọng Phụng.
Mở đầu cho cuộc tranh luận này là bài viết của Thái Phỉ với nhan đề
Văn chơng dâm uế đăng trên báo Tin văn, số 25, ra ngày 01/09/1936 và đợc
kết thúc sau đám tang của Vũ Trọng Phụng, tháng 9 - 1939. Trong bài viết
của mình Thái Phỉ đà không tiếc lời phê phán: họ thấy thiên hạ a thích cái
dâm uế thì hoặc là cố tình nhồi nhét cái cảnh dâm uế vào hầu hết bất cứ
chuyện gì mình biết, hoặc là viện cái chủ nghĩa cá nhân, dụng tâm vào cái
dâm uế một cách quá đáng, táo bạo và vì thế thành ra sống sợng, khó coi
đừng để đến lúc công chúng phải nỗi lòng công phẫn. Cùng với quan điểm
của Thái Phỉ còn có Nhất Linh, Nh Phong, Lê Thanh đà chế giễu Vũ Trọng
Phụng: Loè độc giả bằng học vấn sơ học của mình, t tởng hắc ám, căm hờn,
nhỏ nhen, một nhà văn nhìn cuộc đời qua cặp kính đen, một bộ óc cũng đen
và một nguồn văn càng đen nữa. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những ý
kiến bênh vực Vũ Trọng Phụng, tiêu biểu nhất là kiến của Trơng Tửu trên
tạp chí Tao Đàn, tháng 11- 1939, ông viết: gần đây ông đà có suy nghĩ vì
chủ nghĩa xà hội, trong đô thành văn học Việt Nam hiện đại ông giữ
nguyên một ngọn cờ mà chính tay ông dệt thành. Ông đà chiếm riêng đợc
một ghế ngồi - ở góc tận cùng bên trái. Nghệ thuật tả chân nhận ông là một
phần t tiên phong và can đảm.
Về vấn đề tính dục trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng đơng thời bị nhìn
nhận rất khắt khe, điều này không khó hiểu bởi xà hội ta suốt một thời gian dài
chịu ảnh của t tởng Khổng - Mạnh và chiến tranh xảy ra liên miên. Đây cũng là
lý do cắt nghĩa vì sao mấy chục năm sau cuộc tranh luận này và các sáng tác
của Vũ Trọng Phụng vẫn phải chịu sự đánh giá thiếu công bằng của d luận xÃ
hội và của giới văn nghệ sĩ. Vấn đề này trong văn học phải đến sau năm 1986 thời kì đổi mới, mới có đợc cái nhìn thông thoáng hơn, công bằng hơn, khách
quan hơn trong không khí thế giới văn học hội nhập.
17
C¸c cc tranh ln vỊ Trun KiỊu vÉn tiÕp tơc diễn ra khá sôi nổi đÃ
góp phần làm cho đời sống phê bình văn học giai đoạn này sôi nổi và đặc sắc
hơn.
1.2.3. Những nhà phê bình tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn
1932-1945
1.2.3.1. Thiếu Sơn
Với quan niệm phê bình là ngời đọc dùm cho độc giả, ông là ngời cho
xuất bản cuốn sách phê bình đầu tiên Phê bình và cảo luận. Là tác giả phê
bình có xu hớng tổng kết, bởi lần đầu tiên ông trình bày chân dung của chín
nhà văn đầu thế kỷ XX. Trong công trình của mình, Thiếu Sơn đi vào miêu
tả, phân tích và khen chê cá tính của từng tác giả, từng khuynh hớng chính
trị, học thuật cho đến tính cách. Ông phê bình một cách công khai, thành
thật. Cái mới của Thiếu Sơn là phê bình các nhà văn đơng thời. Các công
trình nghiên cứu của ông có ý nghĩa mở đờng, góp phần đa phê bình văn học
Việt Nam trở thành một hoạt động có tính chất chuyên nghiệp và có tính lý
luận qua những phơng pháp mà tác giả sử dụng. Thiếu Sơn là một trong
những ngời tham gia sôi nổi vào các cuộc tranh luận văn nghệ giai đoạn này.
Là ngời ủng hộ nhiệt tình cho phong trào Thơ mới, luận chiến cho nghệ thuật
vị nghệ thuật
1.2.3.2. Hoài Thanh
Là một trong những kiện tớng của phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
Ông nổi tiếng là một cây bút phê bình ấn tợng, tài hoa và tinh tế bậc nhất.
Hoài Thanh đến với phê bình văn học bằng quan niệm: Văn chơng là văn
chơng, tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật, tìm cái đẹp trong nghệ
thuật là phê bình (trớc Cách mạng). Theo ông nhiệm vụ của nhà phê bình là
phải nhận thấy cái hay cái đẹp trong tác phẩm văn chơng. Vì vậy, Hoài Thanh
rất đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn và ông xem văn chơng thuộc lĩnh vực
thẩm mỹ cho nên cái đẹp của văn chơng không chỉ là ở chỗ phản ánh và kết tinh
cái đẹp trong đời sống mà còn phải thể hiện sự sáng tạo độc ®¸o cđa ngêi nghƯ
18
sĩ. Trớc cách mạng, ông đà thành công lớn với cuốn Thi nhân Việt Nam - trở
thành tác phẩm phê bình mẫu mực của thời đại.
Phơng pháp phê bình của Hoài Thanh là: lấy hồn tôi để hiểu hồn ngời,
tức là ông thâm nhập vào tác phẩm bằng trực giác, cảm xúc, tởng tợng, cảm
thụ một cách hồn nhiên của chủ thể phê bình. Hoài Thanh là ngời tham gia
sôi nổi vào các cuộc tranh luận văn học giai đoạn này và luôn là ngời đứng
đầu trong các cuộc tranh luận ấy.
1.2.3.3. Trơng Tửu
Là ngời viết phê bình, nghiên cứu văn học từ rất sớm. Tên tuổi của ông
thực sự đợc giới nghiên cứu và phê bình cũng nh độc giả biết đến qua các
công trình: Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Văn chơng Truyện Kiều
(1944), Tơng lai văn nghệ Việt Nam (1945).
Trơng Tửu là một trong những ngời đầu tiên vận dụng lý thuyết khoa
học vào phê bình văn học. Khoa học theo Trơng Tửu là phải khách quan
trong đánh giá và phải có lý thuyết làm điểm tựa để phê bình. Tuy nhiên, phơng pháp khoa học và những ảnh hởng của học thuyết về chủng tộc - địa lý
của Taine, lý thuyết phân tâm học của Freud và lý thuyết về văn học phản
ánh tồn tại xà hội của Kark Mark đợc ông vận dụng phê bình văn học có chỗ
lại cực đoan và cha thoả đáng, cho nên đơng thời ông không nhận đợc nhiều
sự ủng hộ của giới phê bình.
1.2.3.4. Hải Triều
Là một trong những nhà phê bình tiêu biểu cho khuynh hớng phê bình
văn học Macxit. Tên tuổi của Hải Triều thực sự đợc giới phê bình và công
chúng độc giả biết đến qua những cuộc tranh luận: Nghệ thuật vị nghệ thuật
và Nghệ thuật vị nhân sinh với Hoài Thanh và cuộc tranh luận duy vật và
duy tâm. Ông là một trong những ngời đầu tiên đa vào văn học Việt Nam
khái niệm văn học Macxit và vận dụng vào văn học. Đồng thời, ông cũng là
ngời đầu tiên chủ trơng tả thực xà hội trong văn chơng.
Hải Triều là một nhà luận chiến biết lợi dụng cơ hội, nắm bắt sơ hở của
đối phơng và đánh họ những đòn không thể chối cÃi đợc. Bây giờ nhìn lại,
19
các tác phẩm của ông đều có tính chất sơ khai nhng l¹i cã ý nghÜa x· héi to
lín. Nã đề cao uy lực của cách mạng, góp phần làm cho t tởng và đờng lối
văn hoá cách mạng của Đảng Cộng sản, đợc tiếp nhận một cách thắng lợi vào
đông đảo quần chúng nhân dân.
1.3. Vị trí của cuốn Nhà văn hiện đại trong phê bình văn học Việt
Nam giai đoạn 1932 - 1945
Nhà văn hiện đại (1942) là một công trình phê bình văn học rất đồ sộ
với 1650 trang - một công trình quý giá của nền phê bình văn học Việt Nam
hiện đại. Cho đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị về nhiều mặt. Nhà văn hiện
đại chiếm một vị trí quan trọng trong phê bình văn học Việt Nam giai đoạn
1932 - 1945.
1.3.1. Nhà văn hiện đại đà tổng kết một giai đoạn văn học - giai đoạn
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Đọc Nhà văn hiện đại chúng ta có thể nhận thấy đợc quá trình phát
triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, mà nh chính tác giả đà nhận
xét: một năm của ta bằng 30 năm của ngời [14; 413]. Quá trình đó đợc Vũ
Ngọc Phan xem xét, đánh giá rất kỹ càng, tỉ mỉ và công phu trên tất cả các
khu vực thể loại và các thế hệ nhà văn thông qua 79 sự ngiệp văn chơng của
các tác giả lớp trớc và lớp sau.
Về nhóm tác giả ở phong trào dịch thuật, bớc đầu tiên đi từ việc giúp
cho ngời đọc hiểu rõ các loại văn Phơng Tây và dẫn dắt ngời ta đến sự thí
nghiệm các loại văn ấy trong sáng tác [14; 414]. Sự thí nghiệm bắt đầu diễn
ra ở văn thể, tiếp theo sẽ là ý kiến và t tởng, đó chính là quá trình ảnh hởng
của văn học phơng Tây vào Việt Nam và nó đợc hoàn thiện dần từ các nhà
văn lớp trớc đến các nhà văn lớp sau. Văn của các nhà văn lớp đầu phần
nhiều lôi thôi, dài dòng, đến cách chấm câu, ngắt câu cũng cha tờng tận, nhng về các nhà văn lớp sau có ngắn gọn hơn. Theo Vũ Ngọc Phan, văn chơng
của các nhà văn lớp đầu vẫn giữ đợc tính chất dân tộc. Đến các nhà văn lớp
sau thì đà có sự tiÕn bé rÊt nhanh: “sù tiÕn ho¸ rÊt mau chãng và vững vàng
20
ấy trong khoảng 30 năm làm cho nhiều thức giả phải vui mừng và tin cậy ở tơng lai [14; 418].
Trên lĩnh vực biên khảo, Nhà văn hiện đại cũng đà cho ngời đọc thấy
quá trình phát triển của nó: mấy nhà văn lớp trớc đi từ ngọn nguồn để xét về
văn hoá Việt Nam, nghĩa là tra cứu từ cái Hán học cũ của ta để đi đến những
ảnh hởng của văn hoá Tàu, nhng cũng tiến hoá hẳn rồi [14;421]. Phê bình về
các nhà biên khảo bao giờ Vũ Ngọc Phan cũng tỏ thái độ rất khách quan và
nghiêm túc làm cho ngời đọc có đợc niềm tin vào những nguồn thông tin mà
tác giả đem lại. Đặc biệt là lối viết đối sánh giữa các nhà biên khảo ở lớp trớc
và lớp sau để độc giả nhìn vµo cã thĨ thÊy ngay sù tiÕn bé cđa lÜnh vực này.
Về thơ, Vũ Ngọc Phan nhận định: Ngời ta nhận thấy một phong trào
rất rõ rệt: các nhà thơ ®i tõ lèi viÕt rÊt bã buéc ®Õn nh÷ng lèi thơ thật tự do,
để rồi lại quay về cái phải chăng có tính chất Việt Nam, không quá thiên về
Tàu nh xa cũng không thiên quá về Tây nh trớc [14;421]. Khái quát đó quả
là rất đúng khi ta nhìn vào quá trình phát triển của Thơ mới từ tác giả đầu
tiên với thi phẩm của họ cho đến những thi phẩm cuối cùng của những nhà
thơ cuối phong trào.
Trên thể loại bút kí, phóng sự và kịch, Vũ Ngọc Phan qua Nhà văn hiện
đại cũng đà nói rõ cho ta biết sự ảnh hởng của Tây Âu trên cách thĨ: “ cã thĨ
nãi bót kÝ vµ phãng sù lµ hai thể loại rất gần nhau nhng ai cũng phải thừa
nhận rằng phóng sự và kịch là hai thể loại chịu ảnh hởng của Âu Tây nhiều
hơn cả về thể cách, và có lẽ hai thể loại này còn lâu ta mới có thể tạo ra đợc
một lối văn thích hợp với tình hình của dân tộc Việt Nam [114,421]. Đó là
lời nhận xét rất chính xác về tình hình thực tế của thể loại kịch và phóng sự
trong văn học Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX.
ở khu vực các thể loại: lịch sử ký sự, truyện ký và phê bình, Vũ Ngọc
Phan đánh giá là các thể loại các nhà văn ta chậm tiến nhất vì việc tra cứu
tài liệu hiện thời rất khó khăn [14;421]. Còn về phê bình, nếu ngời cầm bút
còn xét đoán theo tình cảm và theo sự đố kỵ thì đến sự công bình cũng không
thể có chứ cha nói đến tìm chân lý và tìm cái đẹp trong thơ văn [14; 422].
21
Riªng vỊ tiĨu thut, Vị Ngäc Phan cho thÊy sù tiến hoá không ngừng
của thể loại này: Từ sự quan sát cạn hẹp, nhiều tiểu thuyết gia Việt Nam đÃ
bắt đầu đi sâu vào tâm hồn ngời ta và có cái khuynh hớng cải tạo cuộc nhân
sinh rất là rõ nét [14;422]. Đó là một nhận định khá chính xác ®èi víi tiĨu
thut ViƯt Nam hiƯn ®¹i, bëi xÐt tõ tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách, Hồ
Biểu Chánh cho đến tiểu thuyết của Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Tô
Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao sau này ng ời ta đà thấy
tiểu thuyết đà có những bớc tiến đáng ghi nhận mà không thấy tiểu thuyết đÃ
có những bớc tiến đáng ghi nhận mà không một thể loại nào đạt đợc kể cả về
số lợng và chất lợng.
Nh vậy, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan đà phác họa đợc một bức
tranh văn học Việt Nam hiện đại bao quát nhất, rộng rÃi nhất từ trớc tới nay.
Vì thế mà Trần Đình Sử đà xếp Vũ Ngọc Phan vào những nhà phê bình có xu
hớng tổng kết.
1.3.2. Vị trí của Nhà văn hiện đại xét về chất lợng phê bình
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan có những nhận định khá chính xác
về tác phẩm và phong cách phê bình của nhà văn tiêu biêu trên nhiều lĩnh
vực. Vị trí của nó đợc giáo s Phong Lê đánh giá rất cao vì đây là một công
trình phê bình lớn nhất và đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện đại phê bình
về văn học Việt Nam hiện đại. Và phần nhiều tác giả trong Nhà văn hiện đại
là những nhà văn đợc Vũ Ngọc Phan nghiên cứu phê bình đầu tiên về họ. Thứ
nữa là, công việc này đợc Vũ Ngọc Phan tiến hành với một độ lùi thời gian
rất ngắn, có những tác phẩm mà tác giả viết xong còn cha ráo mực, vì vậy mà
những đánh giá của ông đa ra là hoàn toàn mới mẻ nh có tác giả đà nhận xét:
Quả là cuốn sách đạt chất lợng rất cao cả ở hai phẩm chất: khảo cứu và phê
bình. Về khảo cứu đó là một công phu lao động cực kỳ chu đáo, tỉ mỉ Về
phê bình: đó là chân dung 79 ngời viết trong tên gọi tổng quát là nhà văn bao
gồm cả hai lĩnh vực sáng tác và trớc tác [8].
22
Về t chất phê bình phải nói rằng Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại
đà có không ít những phát hiện rất đích đáng về các tác phẩm của các tác giả.
Chẳng hạn về Nguyễn Tuân, tác giả nhận xét: Tính hoà hoa và giọng khinh
bạc đệ nhất trong văn giới văn học Việt Nam hiện đại Một ngày không xa,
khi văn chơng Việt Nam đợc ngời Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi
dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn một địa vị xứng đáng
hơn nữa [13; 430]. Nhận định này cho đến nay đà đợc thời gian kiểm chứng,
văn phẩm của Nguyễn Tuân quả thật đợc rất nhiều ngời mến mộ. Hay viết về
tác phẩm Quê ngời của Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan nhận định: Quê ngời của
Tô Hoài còn cho ta thấy biết bao cái giản dị, nên thơ của dân quê Việt Nam
[14; 269]. Đặc biệt là những lời đánh giá về thơ của Xuân Diệu: Xuân Diệu
đà đem đến cho thi ca Việt Nam nhiều cái mới nhất, và rất chính xác, tinh
tế, nhạy cảm khi nói: Ngời ta thấy dù văn xuôi hay văn vần bao giờ Xuân
Diệu cũng là một thi sĩ, một thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu [13; 708]. Những
đánh giá về đóng góp của thơ Xuân Diệu và những nhận xét về văn phong
của ông cho ngời đọc thấy Vũ Ngọc Phan là một nhà phê bình có khả năng
nhạy bén và tinh tờng trong việc thẩm thơ và chọn thơ.
Nói về chất lợng phê bình của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại,
giáo s Phong Lê cũng đánh giá rất cao qua những phát hiện của ông về 79
nhà văn hiện đại nửa đầu thế kỷ XX: ở t chất phê bình này phải nói là Vũ
Ngọc Phan đà có không ít những phát hiện rất đích đáng. Chẳng hạn về
Nguyễn Tuân, Lê Văn Trơng, Tô Hoài, Vũ Bằng những phát hiện mà tôi tin
là tác giả nào cũng phải chịu mà không một chút tự ái hoặc phật ý [8].
Nhà văn hiện đại với chân dung 79 sự nghiệp mà suốt hơn nửa thế kỷ sau
khi cuốn sách ra đời, không nhà nghiên cứu phê bình văn học nào mà không cần
đến nó nh một bộ sách công cụ cực kỳ quan trọng cho việc tìm hiểu văn học dân
tộc trong bớc chuyển gấp rút từ trung đại sang hiện đại [8].
1.3.3. Vị trí của Nhà văn hiện đại xét về phơng pháp phê bình
23
Về phơng pháp phê bình văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX
đà có rất nhiều ý kiến đa ra và đợc nghiên cứu một cách thấu đáo. Qua các ý
kiến ấy chúng ta thấy phơng pháp phê bình văn học giai đoạn này rất đa dạng
và phức tạp, đặc biệt là giai đoạn 1932-1945 khi mà phê bình văn học đÃ
chính thức trở thành một thể loại của văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi nhà
phê bình đều lựa chọn cho mình một phơng pháp làm việc riêng theo quan
niệm của chính họ về hoạt động phê bình văn học. Vũ Ngọc Phan trong Nhà
văn hiện đại cũng đà lựa chọn cho mình những phơng pháp làm việc đem lại
hiệu quả cao.
Bàn về phơng pháp phê bình của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại
đà có nhiều ý kiến khác nhau. Tác giả Đặng Tiến trên tạp chí Đoàn kết (Pari)
cho rằng: Lối phê bình của Vũ Ngọc Phan là khoa học, khách quan, vừa
tổng hợp, vừa phân tích. Còn Tô Hoài trên báo Văn nghệ, số 38, naqm 1992
nói: Bộ sách Nhà văn hiện ®¹i cđa Vị Ngäc Phan nh mét thø tõ ®iĨn văn
học đợc viết một cách công phu, mọi dẫn chứng đều đợc đa ra một cách có
phơng pháp và số liệu, chứng liệu tỉ mỉ, xác đáng. Tác giả Nguyễn Ngọc
Thiện trên tạp chí Văn học tháng 11-1942 đà đánh giá về phơng pháp phê
bình của Vũ Ngọc Phan khi viết Nhà văn hiện đại là: Phơng pháp so sánh,
phân định nhà văn và tác phẩm theo nhóm, loại. Còn giáo s Trần Đình Sử thì
nhận xét rằng phơng pháp phê bình của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện
đại thể hiện phơng pháp thực chứng qua việc chọn lọc và phân tích các đoạn
trích để khen chê về cá tính và phép viết văn, ông là ngời có cái nhìn bao
quát cả tiến trình văn học khi phải tiến hành lựa chọn, phân loại nhng phê
bình của Vũ Ngọc Phan giới hạn trong việc phẩm bình văn, tính chất chủ
quan rất đậm [16]. Trịnh Bá Đĩnh trong Ba kiểu phê bình hiện đại lại xếp
Vũ Ngọc Phan vào nhóm những cây bút có lối mô tả khen chê và thuộc nhà
phê bình trong khuynh hớng bình giải văn học. Trong công trình này, chúng
tôi tán đồng ý kiến của Trịnh Bá Đĩnh xếp Vũ Ngọc Phan vào kiểu nhà phê
bình bình giải. Các phơng pháp phê bình của tác giả trong bộ sách Nhà văn
hiện đại sẽ đợc chúng tôi trình bày một cách rõ ràng, cụ thể ở ch¬ng 2.
24
Tóm lại, Nhà văn hiện đại là một công trình phê bình có phơng pháp.
Nó góp phần làm phong phú, đa dạng thêm về phơng pháp và khuynh hớng
phê bình văn học nửa đầu thế kỷ XX nói riêng và nền văn học Việt Nam nói
chung.
Nh vậy, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình phê
bình có vị trí rất quan trọng trong phê bình văn học Việt Nam hiện đại giai
đoạn 1932-1945. Là tài liệu không thể vắng bóng trong các th mục nghiên
cứu và những ý kiến, nhận xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan về một tác giả, tác
phẩm nào đấy luôn là cơ sở, là điểm tựa cho sự phát triển hoặc điều chỉnh các
luận điểm của công trình và luận án. ở hiện tợng này giá trị khoa học trong
công trình của bác Phan đang không ngừng đợc mở rộng [8].
1.4. Vị trí của Nhà văn hiện đại trong sự nghiệp phê bình văn học
của Vũ Ngọc Phan
Vũ Ngọc Phan (1902-1989) là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện đại
và văn học dân gian Việt Nam. Sự nghiệp văn chơng của ông gắn liền với
những hoạt động xà hội, chính trị và văn hoá. Ông đà để lại cho nền văn học
Việt Nam những công trình nghiên cứu văn học đồ sộ và có ý nghĩa. Sự
nghiệp văn chơng của Vũ Ngọc Phan đợc chia làm hai giai đoạn, lấy Cách
mạng tháng Tám làm điểm tựa cho sự phân chia.
Trớc Cách mạng, sau khi đỗ tú tài Vũ Ngọc Phan đi dạy học t. Từ 19291940 ông cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí đơng thời nh tờ Pháp-Việt văn
học, Nhật tân, Phổ thông bán nguyệt san, Trung Bắc tân văn, Sông Hơng.
Ông còn là chủ báo của tờ Tuần báo Hà Nội, lúc này Vũ Ngọc Phan chủ trơng lập Nhà xuất bản Hà Nội. Chính trong thời gian này ông đà viết hàng
trăm bài báo, dịch và viết dạng phóng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết từ
tiếng Anh và tiếng Pháp.
Năm 1941, biện soạn các cuốn sách: Nhìn sang láng giềng, đây là một
tập bút ký; Thi sĩ Trung Nam (1942); viết về một số nhà thơ thời kỳ cận đại ở
Trung Bộ và Nam Bộ: Con đờng đổi mới của thanh niên (1944), sách nghiên
25