Nội dung: Phân tích mục đích, nhiệm vụ, tính chất và nguyên tắc của qui hoạch
phát triển tài nguyên rừng, liên hệ với các loại rừng ở Việt Nam.
Bài làm:
Khái niệm quy hoạch lâm nghiệp:
Quy hoạch lâm nghiệp là nhằm bố cục hợp lý về mặt không gian tài nguyên rừng, bố trí
cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo các cấp quản lý lãnh thổ và quản lý sản
xuất kinh doanh, làm cơ sở cho việc định hướng, lập kế hoạch sản xuất lâm nghiệp đáp
ứng nhu cầu lâm sản cho nền kinh tế, phát huy các tính năng có lợi khác của rừng, đảm
bảo kinh doanh sử dụng rừng toàn diện, hợp lý, hiệu quả và bền vững.
Mục đích của qui hoạch phát triển tài nguyên rừng
Mục đích của quy hoạch lâm nghiệp là tổ chức kinh doanh rừng toàn diện và hợp lý
nhằm khai thác tài nguyên rừng và phát huy những tính năng có lợi khác của rừng một
cách bền vững (lâu dài liên tục), hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu về lâm sản của nền kinh
tế quốc dân, đời sống nhân dân, xuất khẩu cũng như duy trì và phát huy các tính năng tác
dụng có lợi khác của rừng như phịng hộ, giữ đất, giữ nước, bảo vệ mơi trường sinh thái,
bảo tồn đa dạng sinh học…
Đối với bất cứ ngành nào, quy hoạch có vai trị quan trọng trong việc định hướng phát
triển của ngành. Một quy hoạch hiệu quả sẽ giúp phát triển bền vững ngành về các khía
cạnh kinh tế, xã hội và mơi trường. Quy hoạch phát triển của một ngành cần phải được
xây dựng và thực hiện hài hòa trong bối cảnh liên kết giữa ngành này và các ngành khác
có liên quan. Ngồi ra, xây dựng và thực hiện quy hoạch cũng cần phải đảm bảo sự thống
nhất giữa trung ương và địa phương để đảm bảo sự hài hòa trong định hướng phát triển.
Hiện nay, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 đang được dự thảo để trình Đại hội Đảng tồn
quốc lần thứ XIII. Đây là căn cứ quan trọng để: Chính phủ xây dựng quy hoạch tổng thể
quốc gia thời kỳ 2021-2030; Các bộ, ngành xây dựng các chiến lược, quy hoạch ngành
quốc gia; Các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 20212025 cũng như lập quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị - nông thôn… Do vậy, trong thời kỳ
2021-2030, ngành lâm nghiệp cần phải có giải pháp và quy hoạch tổng thể nhằm quản lý
rừng bền vững; khai thác, sử dụng rừng gắn với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao
giá trị kinh tế và giá trị văn hóa, lịch sử của rừng; bảo vệ mơi trường, ứng phó với biến
đổi khí hậu và nâng cao sinh kế của người dân bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa
quy hoạch lâm nghiệp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch
tổng thể quốc gia và các quy hoạch khác đang được thực hiện.
Nhiệm vụ của qui hoạch phát triển tài nguyên rừng
Với chức năng là một môn khoa học về tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch lâm
nghiệp có các nhiệm vụ sau đây:
(1) Điều tra, phân tích điều kiện cơ bản của đối tượng quy hoạch Để có cơ sở xây dựng
phương án quy hoạch lâm nghiệp hợp lý nhằm phát huy tác dụng của nó trong chỉ đạo
sản xuất, cần tiến hành điều tra đầy đủ, chính xác các nguồn tài liệu sau:
- Số, chất lượng và đặc điểm phân bố các loại đất đai, tài nguyên rừng;
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình sản xuất kinh doanh của đối tượng quy
hoạch;
- Hiện trạng sử dụng đất đai của đối tượng quy hoạch;
- Các quy luật cơ bản của tài nguyên rừng trong đối tượng quy hoạch.
Những số liệu thống kê sau khi tổng hợp và phân tích một cách tồn diện sẽ là căn cứ để
lập phương án quy hoạch lâm nghiệp.
(2) Xác định phương hướng, nhiệm vụ quản lý sử dụng đất đai tài nguyên rừng và lập
phương án QHLN Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội chung của cấp quản
lý lãnh thổ, định hướng phát triển của ngành Lâm nghiệp, cùng với những tài liệu thu
thập được tiến hành tổng hợp, phân tích, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng, trên cơ sở đó tiến hành quy hoạch sử dụng đất
đai, quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, quy hoạch các biện pháp kinh doanh, sử dụng
rừng và lập ra bản phương án quy hoạch lâm nghiệp hợp lý, toàn diện và hiệu quả cho đối
tượng quy hoạch.
(3) Kiểm tra việc thực hiện phương án Sau khi phương án quy hoạch được cấp có thẩm
quyền thẩm định, phê duyệt thì được tổ chức triển khai thực hiện. Trong quá trình thực
thi phương án, cần tổ chức theo dõi, giám sát, kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện các
hoạt động, các hạng mục sản xuất kinh doanh đã được đề xuất trong phương án.
Kết quả giám sát, kiểm tra cần được phân tích, tổng hợp để tìm ra ngun nhân những
thành cơng, thất bại và đề xuất các giải pháp điều chỉnh, kịp thời khắc phục những bất
cập trong quá trình thực thi. Song song với cơng tác theo dõi giám sát thường xun cần
có đánh giá theo định kỳ và khi kết thúc thời kỳ quy hoạch cần có đánh giá tồn diện kết
quả thực hiện phương án nhằm tiếp tục xây dựng phương án quy hoạch ở giai đoạn tiếp
theo.
Quy hoạch lâm nghiệp là một công tác phức tạp, phạm vi và quy mơ rất rộng, thời hạn
lâu dài. Vì vậy, muốn tiến hành cơng tác này có kết quả ngồi việc hiểu biết nghiệp vụ,
cần nắm vững các chủ trương, chính sách, luật pháp và các văn bản pháp lý của nhà nước
có liên quan tới sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn, phải có sự chỉ đạo thống nhất và có kế
hoạch.
Đối tượng của QHLN
Về nguyên tắc, đối tượng của quy hoạch lâm nghiệp bao gồm tất cả các phạm vi lãnh thổ,
các tổ chức, đơn vị có quản lý đất đai tài nguyên rừng. Tuy nhiên tùy theo phạm vi quy
mơ của đối tượng, tùy theo chính sách, luật pháp ở các quốc gia khác nhau, ở các giai
đoạn phát triển khác nhau với những quy định cụ thể khác nhau về hệ thống quy hoạch
mà đối tượng quy hoạch có thể có những sự phân loại và tên gọi khác nhau, song nhìn
chung có thể phân chia theo hai hệ thống là: 25
(1) QHLN cho các cấp quản lý lãnh thổ Đối tượng quy hoạch theo các cấp quản lý lãnh
thổ bao gồm phạm vi diện tích quản lý theo các đơn vị quản lý lãnh thổ, ở Việt Nam hiện
nay là các đơn vị hành chính từ tồn quốc đến tỉnh, huyện, xã. Đối với những đối tượng
quy hoạch rộng lớn (toàn quốc, vùng nhiều tỉnh, tỉnh) thường cịn có thể xây dựng chiến
lược phát triển lâm nghiệp. Nội dung chiến lược phát triển lâm nghiệp, quy hoạch lâm
nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ chủ yếu phát triển từ toàn bộ, chú ý mọi mặt phát
triển kinh tế - xã hội trên phạm vi lãnh thổ, từ đó căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và đặc điểm tài nguyên rừng để đề ra phương hướng và nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh, phát triển lâm nghiệp có tính ngun tắc cho phạm vi lãnh thổ đó. Theo Luật Quy
hoạch 2017 và Luật Lâm nghiệp 2017, thuộc các đối tượng này ở Việt nam hiện nay có: Quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia; - Phương án lâm nghiệp trong quy hoạch tỉnh, quy
hoạch vùng, quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Ngồi ra cịn có thể có các
phương án lâm nghiệp huyện (phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và phương
án lâm nghiệp tỉnh), phương án lâm nghiệp xã (phù hợp với phương án lâm nghiệp huyện
và kế hoạch sử dụng đất của xã).
(2) QHLN cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp
quản lý sản xuất kinh doanh bao gồm các đối tượng trực tiếp quản lý sử dụng đất đai, tài
nguyên rừng, tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan đến sản xuất lâm
nghiệp: Các Cơng ty lâm nghiệp (các lâm trường), các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc
dụng, các chủ quản lý sử dụng đất đai tài nguyên rừng khác. Trong quá trình chuyển đổi
từ nền lâm nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội, một bộ phận lớn rừng và đất rừng
được giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng… quản lý sử dụng nên đối
tượng quy hoạch lâm nghiệp, lập kế hoạch sản xuất lâm nghiệp còn bao hàm diện tích đất
đai, tài nguyên rừng của các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cộng
đồng… Theo Luật Lâm nghiệp 2017, các đối tượng này cần phải xây dựng các phương
án quản lý rừng bền vững (trước đây vẫn gọi chung là phương án quy hoạch lâm nghiệp).
Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch
Từ khái niệm về quy hoạch và các hoạt động quy hoạch, Luật Quy hoạch năm 2017 đưa
ra các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch như sau:
1. Tuân theo quy định của Luật Quy hoạch, quy định khác của pháp luật có liên quan và
Điều ước Quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
2. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa quy hoạch với chiến lược và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội bảo đảm kết hợp quản lý ngành với quản lý lãnh thổ; Bảo đảm quốc
phịng, an ninh; Bảo vệ mơi trường;
3. Bảo đảm sự tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch
quốc gia;
4. Bảo đảm tính nhân dân, sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cộng đồng, cá nhân; Bảo
đảm hài hịa lợi ích của quốc gia, các vùng, các địa phương và lợi ích của người dân,
trong đó lợi ích quốc gia là cao nhất; Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới;
5. Bảo đảm tính khoa học, ứng dụng cơng nghệ hiện đại, kết nối liên thông, dự báo, khả
thi, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước; Bảo đảm tính khách quan,
cơng khai, minh bạch, tính bảo tồn;
6. Bảo đảm tính độc lập giữa cơ quan lập quy hoạch với Hội đồng thẩm định quy hoạch;
7. Bảo đảm nguồn lực để thực hiện quy hoạch;
8. Bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về quy hoạch, phân cấp, phân quyền hợp lý giữa
các cơ quan nhà nước.
Liên hệ với các loại rừng ở Việt Nam.
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển
kinh tế - xã hội mà còn gư chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá
trình điều hồ khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các ngun tố cơ bản khác trên hành
tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói
mịn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm
giảm mức ô nhiễm không khí. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển tnguyên rừng hiện
nay được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tếxã hội Việt Nam.
Công tác quy hoạch lâm nghiệp: Được áp dụng ở nước ta ngay từ thời Pháp thuộc, như
việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, hạt sản xuất củi, điều chế rừng thông theo
phương pháp hạt đều...
- Đến năm 1955 - 1957 tiến hành sơ thám và mô tả để ước lượng tài nguyên rừng,
-
-
-
năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc.
Từ những năm 1960 - 1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp áp dụng từng bước
phát triển tại miền Bắc.
Từ năm 1975 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng
cường mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều
tra quy hoạch của các sở lâm nghiệp, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn
không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp tiên tiến của
các nước vận dụng phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng Việt Nam.
Từ năm 1976 sau khi thống nhất đất nước sang những năm 80 của thế kỷ XX,
công tác quy hoạch cho các đơn vị lãnh thổ được coi trọng và triển khai thực hiện,
đặc biệt quy hoạch cấp huyện trong đó quy hoạch lâm nghiệp ở các huyện có rừng
cũng hết sức được quan tâm triển khai thực hiện.
Trong những năm 1990, ngành Lâm nghiệp đã chỉ đạo đẩy mạnh triển khai xây
dựng và thực hiện phương án điều chế rừng (hoặc phương án điều chế rừng đơn
giản) cho các lâm trường trong tồn quốc.
Trong q trình phát triển, toàn ngành đã xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược
phát triển lâm nghiệp các giai đoạn:
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn năm 1991 - 2000 do Bộ trưởng Bộ
-
Lâm nghiệp Việt Nam phê duyệt
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn năm 2001 - 2010 do Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn năm 2006 - 2020 do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Bước sang đầu thế kỷ 21 và đặc biệt trong những năm gần đây, phát triển bền
vững nói chung trong đó có quản lý rừng bền vững ngày càng được toàn nhân loại
quan tâm.
Việt Nam đã và đang tích cực hưởng ứng việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn,
tiêu chí quản lý rừng bền vững. Các công ty, doanh nghiệp lâm nghiệp đang tích cực
xây dựng và thực thi các phương án quản lý rừng bền vững, kế hoạch quản lý rừng
bền vững để có được chứng chỉ quản lý rừng bền vững, đảm bảo sản xuất kinh doanh
rừng hiệu quả, bền vững.
Môn học quy hoạch lâm nghiệp: Song song với việc tiến hành thực hiện công tác quy
hoạch lâm nghiệp trong thực tiễn sản xuất, môn học Quy hoạch lâm nghiệp cũng được
đưa vào giảng dạy ở các trường và nội dung môn học cũng luôn từng bước được cập
nhật những kiến thức mới, phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển của
ngành Lâm nghiệp trong từng giai đoạn phát triển.
Trước năm 1975 bài giảng của môn học này ở miền Bắc chủ yếu dựa vào giáo trình
Quy hoạch rừng và giáo trình Điều tra thiết kế kinh doanh rừng, cịn ở miền Nam là
giáo trình Điều chế rừng. Các giáo trình này chủ yếu dịch của nước ngồi, khơng
hồn tồn phù hợp với điều kiện tài nguyên rừng và thực tiễn lâm nghiệp nước ta,
đồng thời về nội dung cũng mới chỉ tập trung ở việc tổ chức kinh doanh rừng mà chưa
giải quyết sâu sắc vấn đề tổ chức rừng.
Năm 1992, Trường Đại học Lâm nghiệp xuất bản và giảng dạy môn học này theo Học
phần III - Quy hoạch rừng của giáo trình môn học Điều tra - Quy hoạch - Điều chế
rừng. Từ năm 1999 đến nay giảng dạy theo giáo trình mơn học Quy hoạch lâm
nghiệp. Hai giáo trình trên đã từng bước nghiên cứu cải tiến, cập nhật kiến thức mới,
phù hợp với thực tế Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển song đến nay, các giáo
trình này đã quá lạc hậu. Trong những năm gần đây, thế giới đã và đang có những
biến đổi nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu
ngày một gia tăng, vần đề phát triển bền vững được đặt ra đối với toàn nhân loại.
Trong bối cảnh đó, lĩnh vực lâm nghiệp đã có những bước tiến và đóng góp tích cực,
vấn đề quản lý rừng bền vững được hết sức quan tâm từ tầm quốc tế, quốc gia tới từng
tổ chức, đơn vị sản xuất, xu thế hội nhập quốc 32 tế ngày càng đi vào chiều sâu và
phát huy hiệu quả thiết thực. Vai trò của rừng đối với cuộc sống của con người hiện
tại được đánh giá và được thiết kế trong rất nhiều chương trình, hiệp ước, cơng ước
quốc tế (CITES - 1973, RAMSA - 1998, UNCED - 1992, CBD - 1994, UNFCCC 1994, UNCCD - 1995). Tại Việt Nam, hàng loạt các bộ luật và chính sách mới ra đời
liên quan mật thiết với phát triển lâm nghiệp như: Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật
Lâm nghiệp, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ mơi trường... Bên cạnh đó, Việt
Nam đã và đang tham gia nhiều công ước, hiệp ước, chương trình quốc tế nói trên có
liên quan tới bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển lâm nghiệp, quản
lý rừng bền vững…
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, tái cơ cấu trong thực tiễn tổ chức sản xuất lâm nghiệp
phù hợp với luật pháp chính sách hiện hành của nhà nước và các cam kết quốc tế mà
Việt Nam tham gia, nội dung môn học Quy hoạch lâm nghiệp cũng cần được thay đổi
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Việc biên soạn lại giáo trình mơn Quy hoạch lâm
nghiệp thay thế cho giáo trình xuất bản năm 1992 và 1999 là rất cần thiết.