BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------oOo--------
BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ BÀI SỚ 2: Tại sao nói đường lối đổi mới năm 1986 ở Đại hội
Đảng Toàn quốc lần thứ 6 là một bước ngoặt lớn trong công cuộc
xây dựng CNXH ở nước ta? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề
này?
Họ và tên sinh viên: Phạm Phương Linh
Mã sinh viên: 11193011
Lớp tín chỉ: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam 11
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Trần Thị Thu Hoài
Hà Nội 2021
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
PHẦN I: KHÁI QUÁT ĐẠI HỘI ĐẢNG TỒN Q́C LẦN THỨ VI.......2
I. Bối cảnh lịch sử..............................................................................................2
1. Thế giới:.....................................................................................................2
2. Trong nước:................................................................................................2
II. Nội dung Đại hội...........................................................................................2
PHẦN II: ĐẠI HỘI ĐẢNG TỒN Q́C LẦN THỨ VI – BƯỚC NGOẶT
LỚN TRONG CƠNG CUỘC XÂY DỰNG XHCN Ở NƯỚC TA..................4
I. Thời kì bao cấp và đường lối (1976-1986).....................................................4
II. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) – bước ngoặt lớn trong công
cuộc xây dựng XHCN ở nước ta.......................................................................5
1. Đường lối đổi mới – dấu ngoặt phát triển..................................................5
2. Ý nghĩa.......................................................................................................7
PHẦN III: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU..........................................8
KẾT LUẬN..........................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................10
PHẦN MỞ ĐẦU
Đất nước sau khi được thống nhất, bước ra khỏi chiến tranh đã gặp mn vàn
khó khăn được Đảng và Nhà nước quan tâm khắc phục tình hình, từ đại hội VI
với đường lối đổi mới toàn diện theo định hướng XHCN đã tạo ra bước ngoặt
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Đại hội VI – Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới ở Việt Nam, là cột mốc mở ra
cục diện mới của nước ta trên con đường quá độ lên CNXH. Đất nước dần ổn
định, phát triển và hội nhập quốc tế. Đạt được những thành tựu như hiện nay là
nhờ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Để tìm hiểu rõ hơn về đường lối của đại hội VI cũng như làm rõ hơn về bước
ngoặt trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta, em chọn đề tài: “Tại sao nói
đường lối đổi mới năm 1986 ở Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ 6 là một bước
ngoặt lớn trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta? Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này?” để giúp bản thân có cái nhìn tổng qt hơn về một giai đoạn
lịch sử dân tộc.
1
PHẦN I: KHÁI QT ĐẠI HỘI ĐẢNG TỒN Q́C LẦN THỨ VI
I. Bối cảnh lịch sử
1. Thế giới:
Từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học-kỹ
thuật lần thứ hai, đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ, cải cách. Các nước đế quốc, đứng đầu là
Mỹ đang tìm cách chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
2. Trong nước:
Trong thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985, chúng ta không thực hiện được
mục tiêu đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
của nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa
nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước
ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm
1976-1980 chỉ đạt 0,6%. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan
hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu
cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đời sống nhân
dân gặp khó khăn
II. Nội dung Đại hội
Ðại hội lần thứ VI của Ðảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 15 đến 18-121986 tại Hà Nội. Dự đại hội, có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên.
Có 32 đồn đại biểu quốc tế đến dự.
Ðại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo
chính trị, tư tưởng, tổ chức. Ðại hội khẳng định những thành tựu đã đạt được
trong nhiệm kỳ trước, đồng thời chỉ rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có
những khó khăn gay gắt: Sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp;
tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt; lưu thông không thông suốt,
phân phối rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời
sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức cịn nhiều khó khăn; hiện tượng
tiêu cực trong xã hội phát triển.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, Ðại hội nghiêm
khắc tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm. Ðổi mới tư duy, nhận thức rõ
hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu
và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và những năm đầu khi
nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Ðại hội
đề ra đường lối đổi mới.
2
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, Đại hội nêu lên bốn bài
học kinh nghiệm có ý nghĩa hết sức quan trọng:
- Phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động.
- Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan.
- Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
- Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Đại hội khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng
tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời
tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao
trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là
ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo”.
Trong khi đặt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu, Đại hội vẫn
khẳng định phải “đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh
của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch,
bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc”.
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành
công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là: (1) Xây
dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu (2) Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội
chủ nghĩa một cách thường xuyên với những hình thức và bước đi thích hợp,
làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất (3) Đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế (4) Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông
(5) Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính
sách xã hội (6) Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước (7)
Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại (8) Phát huy quyền làm chủ tập
3
thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa (9) Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách
lãnh đạo tồn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược (10) Nâng cao
hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà nước.
PHẦN II: ĐẠI HỘI ĐẢNG TỒN Q́C LẦN THỨ VI – BƯỚC NGOẶT
LỚN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG XHCN Ở NƯỚC TA
Bước ngoặt là sự thay đổi quan trọng, căn bản, đôi khi đột ngột, đặc biệt là
trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Mỗi đại hội đảng đều có những đổi
mới, vậy tại sao đường lối đổi mới của đại hội đảng lần thứ VI được coi là bước
ngoặt lớn trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta? Để giải thích điều này, ta
cần biết đường lối đổi mới của đại hội lần thứ VI có gì khác so với thời kì trước
đó, cụ thể là thời kì bao cấp đã dẫn nước ta đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
I. Thời kì bao cấp và đường lối (1976-1986)
Khi miền Bắc được giải phóng vào năm 1954, nền kinh tế kế hoạch đã được áp
dụng nhưng thời kỳ bao cấp trên phạm vi toàn quốc chỉ bắt đầu từ đầu năm
1976 – 1986. Với nền kinh tế kế hoạch, ngành kinh tế thương nghiệp tư nhận bị
loại bỏ hồn tồn, được coi là khơng hợp pháp trong nền kinh tế chính thống.
Theo đó, hàng hóa sẽ phân phối tới người dân theo chế độ tem phiếu do nhà
nước điều hành, nắm tồn quyền. Thời kì này, việc vận chuyển hàng hóa tự do
giữa các địa phương, mua bán trên thị trường bị xóa bỏ hồn tồn. Hàng hóa do
nhà nước phân phối độc quyền và hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Việc phân
phối lương thực, thực phẩm sẽ dựa theo đầu người, xét theo hộ khẩu. Do đó, chế
độ hộ khẩu được hình thành. Nổi bật nhất là sổ gạo, trong đó có ấn định số
lượng và các mặt hàng được phép mua dựa trên số khẩu trong một gia đình.
Vào thời kì bao cấp, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta chính là cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, thể hiện qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Nhà nước
giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao
nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, doanh nghiệp được các cơ quan hành chính liên quan tham gia nhiều
vào việc kinh doanh, sản xuất nhưng không phải chịu trách nhiệm về lãi lỗ và
pháp lý đối với các quyết định của mình. Ngân sách nhà nước sẽ là cơ quan thu
lãi và lỗi cho các hoạt động của doanh nghiệp.
4
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật
là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì
vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu
nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Nước ta đã thực hiện 2 kế hoạch 5 năm trong giai đoạn này bao gồm: Kế hoạch
5 năm lần thứ 2 (1976 – 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 – 1986). Theo
quan điểm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mơ hình Liên Xơ, kinh tế kế hoạch
hóa là điểm nổi bật quan trọng nhất với kế hoạch phân bổ mọi nguồn lực, không
thừa nhận cơ chế thị trường và sản xuất hàng hóa, xem kinh tế thị trường là đặc
trưng của chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế nhiều thành phần khơng được thừa
nhận mà chỉ có kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ đạo, để tiến hành xóa bỏ
kinh tế tư nhân, cá thể và sở hữu tư nhân khỏi xã hội. Do đó, kinh tế Việt Nam
thời kì này lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ với nhiều tiêu cực. Phải đến
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) mới chỉ ra: phải nhận thức đúng đắn
đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản
xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, tuy nhiên nhiệm vụ đề ra ở đại hội này
chưa được hoàn thành, khủng hoảng vẫn tiếp diễn.
II. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) – bước ngoặt lớn trong công
cuộc xây dựng XHCN ở nước ta
1. Đường lối đổi mới – dấu ngoặt phát triển
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại
hội VI của Đảng (12-1986) đã nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm,
khuyết điểm trong đường lối của cả thời kỳ 1975-1986 và ngun nhân dẫn đến
tình trạng đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối
suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Ngồi nguyên nhân khách quan do tàn dư chiến tranh, nguyên nhân trong đường
lối (chủ quan) dẫn đến khủng hoảng là: Sai lầm trong đánh giá tình hình, xác
định mục tiêu, bước đi; Sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; Sai lầm trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa; Sai lầm trong lĩnh vực phân phối, lưu thơng; Duy trì quá lâu
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; Còn bng lỏng chun chính vơ sản (cả
trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của
địch…). Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về
chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
5
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh
dấu ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết
điểm, đổi mới tư duy lý luận trải qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ thực tiễn,
Đại hội đề ra đường lối đổi mới:
Đối nội: bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, chủ yếu là kinh tế và hệ
thống chính trị mà trọng tâm là kinh tế:
- Đổi mới kinh tế:
Một là, về lực lượng sản xuất: chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tập
trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn về lương thực-thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Trong công nghiệp, chủ trương xoá bỏ chế độ bao cấp,
chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ
thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, về quan hệ sản xuất:
+ Sở hữu: trước đổi mới là kinh tế 2 thành phần dựa trên sở hữu công cộng, sau
đổi mới chuyển thành kinh tế nhiều thành phần dựa trên cả sở hữu công và sở
hữu tư. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế vừa
nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vừa phát huy khả năng tích
cực của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế bình đẳng về
quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật. Đây là sự đổi mới so với đường lối ở thời kì
trước khi chưa công nhận nền kinh tế nhiều thành phần.
+ Cơ chế quản lý: chuyển từ kế hoạch hóa tập trung (thời bao cấp) sang kế
hoạch hóa theo phương thức hạch tốn kinh doanh XHCN.
+ Chế độ phân phối: Bỏ chế độ phân phối hiện vật chuyển sang chế độ phân
phối tiền tệ, tức là chuyển từ chế độ phân phối bình quân sang chế độ phân phối
theo lao động. Đến cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem phiếu đã được
xóa bỏ.
=> Hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng, lưu thơng tương đối thuận lợi. Nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước bước đầu hình thành. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng
hơn trước.
- Đổi mới hệ thống chính trị:
Một là, xác định sáu nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới
Hai là, xác định u cầu cơng tác tư tưởng trong tình hình mới
6
Ba là, đánh giá tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa
đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng.
Cuộc khủng hoảng trên dẫn đến hồi nghi về chủ nghĩa xã hội, giảm lịng tin
đối với Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những phần tử cơ hội, bất mãn nhân
dịp đó đẩy mạnh chống phá, địi đa ngun chính trị, đa đảng. Các thế lực thù
địch trong, ngoài nước ráo riết hoạt động hịng xố bỏ Đảng Cộng sản và chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ sự khủng hoảng đó Trung ương xác định phải
đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu, phải xác định rõ hơn mơ
hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; giữ vững các nguyên tắc
trong quá trình đổi mới.
Bốn là, chủ trương giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
Đảng phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến thức và năng
lực lãnh đạo, mở rộng dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân lao động.
Những đổi mới về hệ thống chính trị nêu trên của Đảng đã kịp thời làm cho tình
hình đất nước ổn định và thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào
và cách mạng Campuchia.
- Đối ngoại:
Sau đại hội VI, nước ta đã thể hiện sự đổi mới về mặt đối ngoại của mình.
Tháng 10/1990, Việt Nam và Ủy ban Châu Âu thiết lập quan hệ ngoại giao
Như vậy có thể thấy, sự đổi mới quan trọng – hay bước ngoặt được thể hiện ở
đường lối đổi mới đại hội VI so với thời kì trước đó là sự thay đổi về mặt đối
nội mà trọng tâm là kinh tế và đối ngoại.
2. Ý nghĩa
Có thể thấy, mặc dù vẫn còn khuyết điểm, đường lối đổi mới của đại hội VI đã
tạo ra một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp quá độ lên CNXH và mở ra thời kì
phát triển mới cho cách mạng Việt Nam
- Là mở đầu cho cơng cuộc đổi mới tồn diện của đất nước, là đại hội kế thừa và
quyết tâm đổi mới. Đường lối đổi mới của đại hội VI đã mở cho đất nước thoát
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội tiếp tục đi lên CNXH. Đại hội đã trở thành
động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, làm thay đổi bộ mặt xã hội. mở
ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử cách mạng Việt Nam.
7
- Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo
của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và
đổi mới theo xu thế thời đại mới.
- Là đại hội: “Trí tuệ - dân chủ - đồn kết và đổi mới”.
- Đại hội thể hiện sự kết tinh trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân và cũng thể hiện
tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc. Sau Đại
hội, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từng
bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng bước
đạt được những thành tựu rất quan trọng.
PHẦN III: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu đại hội VI và đường lối đổi mới được coi là bước ngoặt của đại
hội là vấn đề khơng chỉ có ý nghĩa lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH mà nó cịn có ý nghĩa thực tế rất lớn. Vì vậy vấn đề này được đề cập đến
trong nhiều sách, nhiều bài báo, nhiều video lịch sử, …..
Nghiên cứu đề tài này giúp cho em tăng thêm hiểu biết khi học môn học Lịch sử
Đảng cộng sản Việt Nam. Em được biết thêm về thời kì bao cấp, biết thêm về
thời kì đổi mới, giai đoạn đầu của thời kì đổi mới bắt đầu từ đại hội VI và những
thành quả đạt được, có cái nhìn khái quát và rõ hơn về đường lối, tình hình đất
nước trước và sau đổi mới ở đại hội VI, từ đó thấy được đường lối đúng đắn của
Đảng.
Đại hội VI của Đảng là minh chứng lịch sử quan trọng cho vai trò của sự đổi
mới để phát triển, ta thấy được rằng trong thời đại này muốn phát triển ta phải
không ngừng nỗ lực, đổi mới trong tư tưởng cũng như phương thức sản xuất
mới có thể đưa nước ta lên CNXH và sánh vai với các cường quốc năm châu.
Là một công dân Việt Nam đã có hiểu biết về Đảng và đường lối đúng đắn của
Đảng, em sẽ cùng những công dân khác tin tưởng vào đường lối của Đảng, góp
sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng vững mạnh và sánh vai cùng các
cường quốc trên thế giới.
8
KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước
đang gặp nhiều khó khăn, từ tàn dư chiến tranh và đường lối khơng cịn phù hợp
của thời kì bao cấp đã gây ra nhiều bất lợi cho công cuộc đổi mới đất nước. Tuy
vẫn cịn những thiếu sót khơng thể tránh khỏi nhưng đại hội VI đã tạo ra một
bước ngoặt cho sự phát triển của nước ta, đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong công cuộc phát triển đất nước với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh”.
Đại hội VI (1986) - Đại hội đề ra, khởi xướng đường lối đổi mới tồn diện đất
nước. Đến năm 2016, cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua 30 năm
(1986-2016). Đại hội XII của Đảng nhìn lại 30 năm đổi mới, đánh giá những
thành tựu đạt được, chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, rút ra những bài học.
Đại hội VI đã tạo ra những thành tựu to lớn tạo tiền đề quan trọng để nước ta
tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử để chúng ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
2. Tạp chí cộng sản
3. />4. Báo nhân dân Đại hội lần thứ VI của Đảng
5. />
10