TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
=== ===
LÊ THỊ THANH TRUYỀN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
GĨP PHẦN TÌM HIỂU MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH
SỬ VĂN HĨA Ở HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH
HÀ TĨNH
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VĂN HÓA
Vinh - 2012
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
=== ===
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
GĨP PHẦN TÌM HIỂU MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH
SỬ VĂN HÓA Ở HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH
HÀ TĨNH
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VĂN HĨA
GV hướng dẫn: ThS. Hồng Quốc Tuấn
SV thực hiện:
Lê Thị Thanh Truyền
Lớp:
49B – Lịch sử
Mã số SV:
0856055691
Vinh - 2012
1
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài này, tơi xin chân thành cảm ơn Ban quản lý di
tích: Đền Bạch Vân và chùa Thịnh Xá, những người quản lý ở nhà thờ
Nguyễn Lỗi và nhà thờ Tống Tất Thắng, Phòng Văn hóa huyện Hương Sơn,
Sở Văn hóa - Thơng tin tỉnh Hà Tĩnh, thư viện tỉnh Hà Tĩnh đã giúp đỡ cho
tơi tận tình trong việc thu thập tài liệu. Đặc biệt tơi xin gửi tới thầy giáo
Hồng Quốc Tuấn lời cảm ơn sâu sắc, Thầy đã tận tình hướng dẫn để tơi hồn
thành tốt đề tài này.
Do điều kiện thời gian và năng lực có hạn, đề tài chắc hẳn cịn có nhiều
thiếu sót, tác giả mong muốn nhận được sự góp ý của Q Thầy cơ và các bạn
để hoàn thiện đề tài hơn nữa. Xin trân trọng cảm ơn.
Vinh, tháng 5 năm 2012
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1.
Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 1
3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 2
4.
Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu........................................... 2
5.
Bố cục của đề tài .................................................................................... 2
B. NỘI DUNG ................................................................................................... 3
Chương 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN HƯƠNG SƠN,
TỈNH HÀ TĨNH ......................................................................... 3
1.1.
Điều kiện tự nhiên.................................................................................. 3
1.2.
Đặc điểm lịch sử, xã hội và dân cư ........................................................ 5
1.3.
Các di tích lịch sử ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh ................................ 9
Chương 2.
2.1.
MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HỐ TIÊU BIỂU ........ 11
Đền Bạch Vân và chùa Thịnh Xá ........................................................ 11
2.1.1. Đền Bạch Vân ...................................................................................... 11
2.1.2. Chùa Thịnh Xá ..................................................................................... 19
2.1.3. Hiện trạng và các phương án sử dụng, bảo về di tích.......................... 20
2.2.
Nhà thờ Nguyễn Lỗi ............................................................................ 21
2.2.1. Lịch sử dịng họ Nguyễn ở xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn và
nhân vật thờ tự ở nhà thờ Nguyễn Lỗi ................................................. 21
2.2.2. Đặc điểm nhà thờ Nguyễn Lỗi............................................................. 28
2.2.3. Hiện trạng và các phương án sử dụng, bảo vệ di tích.......................... 33
2.3.
Nhà thờ Tống Tất Thắng ..................................................................... 34
2.3.1. Vài nét về lịch sử dòng họ Tống Trần ở xã Sơn Hòa và nhân vật
được thờ tự ở nhà thờ Tống Tất Thắng ............................................... 34
2.3.2. Đặc điểm nhà thờ Tống Tất Thắng ...................................................... 39
2.3.3. Bài trí nội thất ...................................................................................... 44
2.3.3. Hiện trạng và các phương án sử dụng, bảo vệ di tích.......................... 45
Chương 3.
CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HỐ Ở HUYỆN
HƯƠNG SƠN TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN
CỦA NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG ......................................... 47
3.1.
Đền, chùa, nhà thờ họ trong đời sống tâm linh ................................... 47
3.2.
Nhà thờ họ và văn hóa dịng họ ........................................................... 48
3.3.
Ý nghĩa ................................................................................................ 52
C. KẾT LUẬN ................................................................................................ 54
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 56
E. PHỤ LỤC ................................................................................................... 58
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, trên mảnh đất Hương Sơn nói riêng và Hà Tĩnh nói chung
cịn lưu giữ rất nhiều di tích lịch sử, văn hố như: Đình, đền, chùa, nhà thờ
họ... rất có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị
lịch sử, văn hoá của địa phương và của đất nước. Việc tìm hiểu, nghiên cứu
các di tích lịch sử văn hố đó sẽ góp phần vào công cuộc giáo dục cho các thế
hệ hôm nay và mai sau niềm tự hào về quê hương đất nước, nơi chơn rau cắt
rốn và lịng biết ơn sâu sắc công lao to lớn của các thế hệ tiền nhân, thể hiện
rõ đạo lý "uống nước nhớ nguồn". Tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Góp phần
tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hóa ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh" làm đề
tài khoá luận tốt nghiệp đại học, chuyên ngành Lịch sử văn hoá.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đền Bạch Vân chùa Thịnh Xá, nhà thờ Tống Tất Thắng, nhà thờ
Nguyễn Lỗi là những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu. Trong mấy chục năm
qua đã có nhiều tác giả với nhiều cơng trình nghiên cứu nhưng trên nhiều bình
diện khác nhau. Có thể kể ra một số cơng trình như sau:
- “Di tích danh thắng Hà Tĩnh”, (1997), Trần Tấn Hành chủ biên, Sở
văn hóa Hà Tĩnh.
- “ Hương Sơn du ký”, (1926), Minh Phương, NXB văn học.
- “Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh”, (2004), Thái Kim Đỉnh, NXB văn học
nghệ thuật Hà Tĩnh.
- “Đền Bạch Vân”, Nguyễn Trí Sơn, Báo Hà Tĩnh số 2753 ngày
27/6/1998.
Trên cở sở kế thừa các nguồn tài liệu sách, báo, hồ sơ di tích với q
trình tổng hợp của bản thân tơi góp phần làm rõ đề tài “Góp phần tìm hiểu
một số di tích lịch sử văn hóa ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh".
1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài “Góp phần tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hóa
ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh" trước tiên tơi tìm hiểu về tự nhiên, lịch sử, xã
hội huyện Hương Sơn, sau đó đi vào đặc điểm cụ thể từng di tích và từ đó rút
ra những giá trị và ý nghĩa to lớn.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Dựa vào các tài liệu về các di tích lịch sử văn hóa, các bài báo, các hồ
sơ di tích để nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng làm nền tảng phương pháp luận
cho việc nghiên cứu. Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic,
phương pháp đối chiếu tài liệu để nghiên cứu. Ngồi ra cịn sử dụng phương
pháp phân tích, mơ tả, điền dã...
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục nội
dung của đề tài được bố cục trong ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về huyện Hương sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 2: Một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu.
Chương 3: Các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Hương Sơn trong đời
sống tinh thần của nhân dân địa phương.
2
B. NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
1.1. Điều kiện tự nhiên
Hương Sơn là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Hà Tĩnh
cách trung tâm tỉnh lỵ 70km. Phía đơng giáp với Đức Thọ, phía nam giáp với
huyện Vũ Quang, phía bắc giáp với huyện Thanh Chương (tỉnh Nghệ An),
phía tây giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, với đường biên giới
dài 56km. Có quốc lộ 8A nối liền với các nước trong khu vực qua cửa khẩu
quốc tế Cầu Treo. Có đường mịn Hồ Chí Minh chạy từ Bắc vào Nam qua
trung tâm huyện là điều kiện để phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa với các
tỉnh bạn và các nước trong khu vực Đơng Nam Á.
Tồn huyện có 32 đơn vị hành chính gồm: 30 xã và 2 thị trấn, đó là thị
trấn Phố Châu và thị trấn Tây Sơn trong đó thị trấn Phố Châu là trung tâm văn
hóa, chính trị của huyện, là đầu mối lưu thơng hàng hóa từ cửa khẩu Cầu Treo
đến các vùng trong cả nước.
Diện tích đất tự nhiên là 110.414ha, trong đó diện tích đất canh tác chỉ
có 10% cịn lại là đất lâm nghiệp, địa hình rộng, đồi núi, khí hậu tương đối
khắc nghiệt đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sơng của nhân dân. Trong đó,
diện tích rừng núi là 8.385.257 ha (chiếm khoảng 80% tổng diện tích), gồm
có rừng rậm đại ngàn, rừng thưa, đồi trọc chằng chịt liên hoàn nối tiếp nhau
tạo thành cánh cung của Tây Nam. Theo thống kê thì Hương Sơn có 165 ngọn
núi, 160 con khe, 128 đồi, rú, cồn. Ngoài ra hầu như xã nào cũng có đồi núi
thấp chen giữa các thung lũng làm cho Hương Sơn giống như các lòng chảo
khổng lồ lọt thõm giữa vùng cánh cung rừng ấy. Điều kiện thiên nhiên địa lý
và phong thổ đó rất thuận lợi cho một nền nơng nghiệp nương rẫy xen lẫn một
nền nông nghiệp lúa nước ở các thung lũng lòng chảo và ven các bờ, khe suối
xung quanh sông Ngàn Phố.
3
Ở đây có rất nhiều đồi thoai thoải thuận lợi cho việc trồng chè, cây ăn
quả và trồng trỉa lúa nương, lúa rẫy, các loại cây lương thực, thực phẩm khác
như ngô, sắn, đậu… Hơn ở đâu hết, hàng ngàn năm nay kinh tế vườn ở
Hương Sơn phát triển hơn bất cứ một huyện nào trong tỉnh với cam, quýt,
bưởi, mít, dứa… Xưa nay dân Hương Sơn vẫn truyền nhau câu nói “nhất mẫu
trạch bằng bách mẫu điền”. Kinh tế vườn đồi cùng với kinh tế chăn nuôi hươu
hằng năm đưa lại cho dân Hương Sơn thu nhập lớn, góp phần quan trọng vào
việc ổn định đời sống của dân cư ở đây từ bao đời nay.
Tài nguyên thiên nhiên ở Hương Sơn khá phong phú nhất là tài nguyên
đất và rừng. Tài nguyên đất ở huyện Hương Sơn có 6 nhóm với 14 loại khác
nhau: Đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất thung lũng do sản phẩm
dốc tụ, đất xói mịn, đất mùn vàng. Rừng Hương Sơn có nhiều loại gỗ quý.
Theo số liệu thống kê thì có 465 lồi thực vật bậc cao với nhiều loại quý hiếm
như: Cẩm lai, lát hoa, lim, dổi, pơ mu, hoàng đàn, trầm hương... và nhiều loại
dược liệu q. Về động vật có 70 lồi thú trong đó có nhiều lồi q hiếm
như: Sao La, Mang Lớn, Hổ, Voi.... với tiềm năng rừng về số lượng động
thực vật kể trên, có thể khẳng định rừng trên địa bàn huyện Hương Sơn rất
phong phú, đa dạng.
Con sông Ngàn Phố chẻ dọc huyện Hương Sơn ra thành hai cánh tả
ngạn và hữu ngạn, hai vùng thượng lưu và hạ lưu. Miền hạ lưu có hai cánh
đồng tương đối rộng và phẳng là Địa Vì và Đấu Lường. Các cánh đồng ở đây
thường tươi tốt vì tài nguyên nước rất dồi dào nhờ hệ thống sông suối, kênh
mương dày đặc và nhiều hồ đập lớn, đặc biệt là nhờ có con sơng Ngàn Phố.
Về khí hậu, Hương Sơn cũng như cả nước có khí hậu mang đậm nét
nhiệt đới gió mùa, song do bị chi phối bởi yếu tố địa hình sườn Đơng Trường
Sơn nên có sự phân hóa khắc nghiệt với đặc trưng là mùa đông lạnh ẩm, mưa
nhiều, mùa hè khơ nóng. Nhiệt độ Hương Sơn tương đối thấp với nền nhiệt độ
trung bình cả năm khoảng 23,40C. Tổng lượng mưa hàng năm của huyện
4
tương đối lớn tương đối lớn từ 2000 - 2100 mm nhưng phân bố không đồng
đều giữa các tháng trong năm. Số giờ nắng trong năm khoảng 1463 giờ, mùa
hè nắng thường gay gắt và bất lợi cho quá trình quang hợp của cây trồng, ảnh
hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp. Trên địa bàn huyện chịu ảnh hưởng của
hai loại gió: Gió mùa Đơng Bắc về mùa đơng làm cho nhiệt độ giảm xuống
nên thường gây hậu quả xấu đến sản xuất nơng nghiệp. Gió mùa Tây Nam
vào mùa hè thường làm cho khí hậu hanh, khơ, nóng nên thường gây ra hạn
hán, cây khô héo dễ dẫn đến cháy rừng. Hằng năm trên địa bàn huyện Hương
Sơn còn chịu ảnh hưởng trực tiếp khoảng từ 1- 2 cơn bão và áp thấp nhiệt đới.
Với điều kiện tự nhiên như trên thì nó đã tạo ra những thuận lợi nhất
định để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tuy nhiên nó cũng có những khó
khăn địi hỏi huyện phải có những chính sách phù hợp để giải quyết các vấn
đề đó.
1.2. Đặc điểm lịch sử, xã hội và dân cư
Trong lịch sử, Hương Sơn đã có nhiều tên gọi khác nhau. Theo “Đại
Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn thì: Đất Hương Sơn
xưa thời nhà Đinh và Tiền Lê thuộc châu Phúc Lộc, đất Hoan Châu. Thời
Lý thuộc châu Nghệ An, thời Trần gọi là Đỗ Gia, thời thuộc Minh (1407 1427), tách thành hai huyện Cổ Đỗ và Thổ Hoàng thuộc Nghệ An phủ. Từ
đầu thời hậu Lê lại nhập làm một, trở lại tên Đỗ Gia. Năm Quang Thuận
thứ 10 (1469), thời Hậu Lê đổi tên thành huyện Hương Sơn gồm 10 tổng,
57 xã, thôn, thuộc phủ Đức Quang xứ Nghệ An. Tên huyện Hương Sơn ra
đời từ đây.
Năm 1867 nhà Nguyễn tách 5 tổng phía nam là Quỳ Hợp, Chu Lễ,
Phương Điền, Phú Lộc, Hương Khê của huyện Hương Sơn thành huyện
Hương Khê. Như vậy đất Hương Sơn cịn 5 tổng phía Bắc là: Đỗ Xá, An Ấp,
Hữu Bằng, Dị Ốc và Thổ Hoàng thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
5
Từ năm 1831 - 1919, huyện Hương Sơn thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh. Năm 1931 chính quyền thực dân phong kiến bỏ đơn vị hành chính cấp
phủ, huyện Hương Sơn trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1976, xã Ân Phú thuộc huyện Hương Sơn chuyển sang huyện
Đức Thọ và đổi tên thành Đức Ân. Từ năm 1976 - 1991, là huyện Hương
Sơn, tỉnh Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991 trở lại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hương Sơn có 5 tổng, 48 xã
thơn. Sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền mới bỏ cấp tổng. Số thôn xã cũ
hợp nhất lại thành 22 xã mới. Từ 1948 - 1950 hợp 22 xã đó thành 15 xã. Vào
1953 - 1954, Hương Sơn tách 15 xã thành 29 xã. Năm 1991 xã Sơn Phố được
nhà nước chuyển đổi thành Thị trấn Phố Châu. Năm 1999 nhà nước lập thêm
thị trấn Tây Sơn được tách từ 2 xã Sơn Tây và Sơn Kim. Năm 2006 xã Sơn
Kim lại tiếp tục chia thành Sơn Kim 1 và Sơn kim 2. Như vậy tính đến nay
Hương Sơn gồm 32 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Phố Châu, Tây Sơn và
30 xã: Sơn Mỹ, Sơn Tây, Sơn Long, Sơn Trà, Sơn Hà, Sơn Bình, Sơn Kim 1,
Sơn Kim 2, Sơn Tây, Sơn Lĩnh, Sơn Diệm, Sơn Quang, Sơn Lâm, Sơn Hàm,
Sơn Trung, Sơn Phú, Sơn Trường, Sơn Mai, Sơn Thủy, Sơn Bằng, Sơn Ninh,
Sơn Thịnh, Sơn Hòa, Sơn An, Sơn Lễ, Sơn Tiến, Sơn Châu.
Theo Địa chí Hương Sơn của Sở văn hóa Hà Tĩnh thì vùng đất Hương
Sơn xưa kia là một vùng tồn tại chủ yếu của người Thái sinh sống nên còn gọi
là châu Ngọc Ma do tù trưởng Cầm Quý cầm đầu.
Điều đó đã chứng minh ngày xưa ở lưu vực sông Ngàn Phố đã tồn tại
một tiểu vùng văn hóa riêng biệt so với các tiểu vùng khác trong tỉnh, đó là
văn hóa nương rẫy, nền văn hóa nương rẫy mà chủ thể của nó ban đầu là
người Thái và sau này thêm người Kinh và dần dần người Kinh đã lấn cõi của
người Thái.
Người kinh ngày càng sinh sôi phát triển mang theo nền văn minh nông
nghiệp lúa nước đến du nhập vào kĩ thuật sản xuất ở Ngọc Ma. Do thế mạnh
6
của văn minh lúa nước nên ngày càng làm thay đổi diện mạo văn hóa ở Ngọc
Ma, cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần. Sự đan xen văn hóa đó đã làm
nảy sinh tác động lớn giữa hai nền văn hóa. Tuy nhiên khơng phải vì thế mà
văn hóa lúa nước ở đây đã làm mất đi văn hóa nương rẫy mà ngược lại tùy
theo đặc điểm địa hình của từng tiểu vùng mà cả 2 yếu tố văn hóa nương tựa,
hỗ trợ, bổ sung cho nhau cùng phát triển trong đó yếu tố vườn, sườn đồi ngày
càng phát triển mạnh hơn.
Từ thời Lý đã có sự chuyển cư của người Kinh từ vùng đồng bằng Bắc
Bộ vào trấn Nghệ An. Miền ven biển và núi Nghệ An ngày các nhiều dân cư
khác đến lập nghiệp. Vùng núi châu Ngọc Ma có thêm nhiều dân cư người
Kinh đến sinh sống. Qua tài liệu địa danh, có thể thấy trên vùng đất này đã
tồn tại những làng cổ như: Kẻ Mui, Kẻ Ác, Kẻ Mơ…“Kẻ” là đơn vị hành
chính xuất hiện rất sớm trong hệ thống hành chính của người Việt cổ.
Theo số liệu thống kê đến quý 4/2011 của Trung tâm dân số huyện
Hương Sơn thì dân số của huyện Hương Sơn là 116029 người với 33870 hộ,
bao gồm 13062 nhân khẩu sống ở khu vực đô thị và 102967 nhân khẩu sống ở
khu vực nông thôn.
Con người Hương Sơn ln hịa mình cùng thiên nhiên và cũng ln
phải đương đầu với sự hà khắc của chính nó và gánh nặng của các cuộc chiến
tranh nên đã hình thành ở đây một vùng đất mới với những con người cần cù
sáng tạo và đầy dũng khí. Hầu như thời nào trên mảnh đất Hương Sơn cũng
xuất hiện các anh hùng, hào kiệt.
Hương Sơn là một trong những địa bàn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Trên mảnh đất Hương Sơn đã diễn
ra nhiều trận đánh quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn trong bước đường
khôi phục lại chủ quyền quốc gia dân tộc. Đáng kể nhất là trận đánh tại Cửa
Khẩu (Hói Nầm), làm tan rã hai vạn quân Minh do tổng binh Trần Trí chỉ huy
khi chúng tiến vào Đỗ Gia (xã Sơn Tây ngày nay).
7
Truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, chống áp bức, cường quyền
của người dân Hương Sơn còn được thể hiện qua nhiều thời kỳ lịch sử khác
nhau. Trong phong trào khởi nghĩa năm Giáp Tuất (1874), đội quân cờ vàng
của Trần Quang Cán (tức Đội Lưu) đã phối hợp với nghĩa quân của Trần Tấn,
Đặng Như Mai ở Nghệ An gây cho giặc nhiều khó khăn. Trong phong trào
Cần vương, Cụ Phan Đình Phùng cũng đã xây dựng căn cứ và đóng đại bản
doanh ở núi Đại Hàm, xã Sơn Hàm. Hào khí ấy là sức mạnh của mọi từng lớp
nhân dân trong việc giành chính quyền lập nên Xơ Viết từ những năm 1930 1931. Đình làng Tứ Mỹ, một đình làng được xây dựng năm 1921 ở xã Sơn
Châu, đây chính là nơi mà chi bộ đảng đầu tiên của Hương Sơn đã tổ chức các
cuộc biểu tình đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Về truyền thống khoa bảng, Hương Sơn xưa kia thuộc phủ Đức Quang
được xem là vùng đất học của xứ Nghệ. Trong thời kì phong kiến, Hương Sơn
có hơn 20 vị đỗ đại khoa với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Đinh
Nho, Tống Trần, Hà Huy, Nguyễn Khắc, Lê Xuân…và các làng giàu truyền
thống văn hóa như: Hữu Bằng, Gơi Vị, Thịnh xá… Hương Sơn là quê hương
của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, tiến sĩ Đinh Nho Cơng, Hồng giáp
Đinh Nho Hồn, Hồng giáp Nguyễn Khắc Niêm, nhà văn hóa Nguyễn Khắc
Viện, quan tuần phủ Hà Tĩnh Đinh Nho Quang. Hiện nay có rất nhiều người
con của Hương Sơn có học hành đỗ đạt như nhà cách mạng Hà Huy Giáp,
nguyên thứ trưởng Bộ ngoại giao Đinh Nho Liêm, Thượng tướng Lê Minh
Hương nguyên Bộ trưởng Bộ công an, giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm, viện sĩ
toán học Hà Huy Khoái viện trưởng Viện toán học Việt Nam, tiến sĩ Lê Đức
Thúy nguyên thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam…
Văn hóa “xóm làng” là một nét đặc thù lớn của người dân Hương Sơn,
do đặc điểm con người luôn phải chống đỡ với thú dữ, với bão lũ nên nơi đây
đã hình thành một mối quan hệ sinh hoạt cộng đồng gắn bó keo sơn với nhau
trong tình làng nghĩa xóm. Sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau là một nét cử chỉ
8
như là bổn phận của mỗi người trong cộng đồng, khi năm mới đến hay khi
trong làng có người hoạn nạn, ốm đau, hiếu hỉ là cả làng cùng đến thăm hỏi
động viên, chia sẻ buồn vui, theo tinh thần: “bán chị em xa, mua láng giềng
gần”, chỉ một ấm nước chè xanh là có thể mời cả xóm, làng tới, cùng uống và
nói chuyện, mọi người sống với nhau bằng tình làng nghĩa xóm.
Với những đặc điểm địa lý tự nhiên cùng với truyền thống văn hóa, lịch
sử đã tạo nên cái nền mà Hương Sơn ngày nay cò thể giữ gìn, phát triển các
giá trị văn hóa tốt đẹp đó.
1.3. Các di tích lịch sử ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Hương Sơn, một vùng quê có truyền thống lịch sử văn hóa lâu dài và
trong tiến trình lịch sử của dân tộc, con người Hương Sơn đã không ngừng
sáng tạo, chinh phục thiên nhiên, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, gắn kết
với q trình đó đã để lại nhiều di sản văn hóa quý giá.
Bằng sự lao động cần cù, tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên, con
người nơi đây đã sáng tạo ra nhiều câu tục ngữ, ca dao, dân ca thấm đẫm tình
người, tình đời mà chắc hẳn đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người. Đồng
thời họ còn sáng tạo nên nhiều giá trị văn hoá vật thể, vừa phong phú, vừa đa
dạng. Đó là những kiến trúc tơn giáo (đền, đình, chùa, am, quán, nhà thờ họ…);
những khu tưởng niệm các anh hùng lịch sử, các danh nhân văn hoá; các di tích
lịch sử, cách mạng… được xây dựng trong nhiều thời kỳ khác nhau.
Hiện nay, trên địa bàn xã Sơn Trà có di tích Đền Cả - tối linh từ, tương
truyền được xây dựng vào thời nhà Lý, thờ Lý Nhật Quang, còn được vinh
danh bằng các mỹ tự: Kệ Quan Sơn đại Vương, Hồng Tự Thượng Thượng
Thượng Đẳng thần.
Sang thế kỷ XV, những di tích liên quan đến cuộc kháng chiến chống
quân Minh xâm lược còn in đậm trong lịch sử dân tộc như: Động Tiên Hoa
(xã Sơn Phúc), Thành Lục Niên (dãy Thiên Nhẫn). Chính trên mảnh đất này
9
Lê Lợi và bộ chỉ huy quân Lam Sơn có nhiều trận đánh táo bạo góp phần phá
tan cuộc xâm lược của giặc Minh. Vì vậy hiện nay cịn lưu lại nhiều di tích
lịch sử ghi nhận những cơng lao của tướng quân như: Nguyễn Tuấn Thiện,
Nguyễn Lỗi, đây là những vị khai quốc công thần được vua ban quốc tính vì
đã có cơng trong việc xây dựng triều chính, ngồi ra cịn có nhiều di tích khác
liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn như: Đền Trúc, nhà thờ Trần Giác
Linh (Sơn Mai), chùa Côn Sơn (Sơn Tiến) và nhiều câu chuyện kể trong dân
gian như: Chuyện về cây thị xã Sơn Phúc, núi Nhà Chàng, đồi Đảng Phủ tại
xã Sơn Bình, Rú Sơn Cờ...
Nét nổi bật trên địa bàn huyện Hương Sơn có di tích đại danh y Hải
Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Đây là cụm di tích lưu giữ tài năng, đức độ
của một bậc tiền nhân có cơng to lớn trong nền y học nước nhà.
Bên cạnh các loại hình di tích kể trên ở Hương Sơn cịn có nhiều di tích
lịch sử tiêu biểu khác như: Đền Bạch Vân, chùa Thịnh Xá, Đền Gôi Vị, nhà
thờ Nguyễn Lỗi, Tống Tất Thắng, nhà thờ cụ Thượng Đào...
Di tích thời Cần Vương chống Pháp cịn có di tích Cao Thắng, Nguyễn
Lân, Nguyễn Ngọc Khiêm...
Di tích lịch sử cách mạng nổi bật có đình Tứ Mỹ, là nơi tập hợp nhân
dân nổi dậy khởi nghĩa chống triều đình tay sai và là nơi chi bộ Đảng đầu tiên
của huyện Hương Sơn được thành lập.
10
Chương 2
MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HỐ TIÊU BIỂU
2.1. Đền Bạch Vân và chùa Thịnh Xá
2.1.1. Đền Bạch Vân
a. Nguồn gốc lịch sử và đối tượng được thờ tự
Đền Bạch Vân đền nằm trên Cồn Mai thuộc làng Thịnh Xá (tổng Yên
Ấp xưa, nay thuộc xóm Thịnh Nam, xã Sơn Thịnh) nên còn được gọi là đền
Thịnh Xá. Trong q trình trùng tu tơn tạo, trong khn viên của đền Bạch
Vân được xây thêm chùa, gác chuông, thờ Phật, vì vậy dân gian cũng gọi là
chùa Thịnh Xá.
Tên gọi của đền Bạch Vân gắn liền với sự tích rằng: Đinh Nho Công
sau khi thi đỗ tiến sĩ (1670) nhớ lời báo mộng của một người bạn học cũ:
“Khi nào thành đạt, về quê nếu thấy chỗ nào có mây trắng quần tụ thì hãy xây
đền thờ ta…”. Và ông thấy đám mây trắng ở Cồn Mai làng Thịnh Xá thì cho
xây đền và đặt tên là Bạch Vân (mây trắng).
Đền Bạch Vân được tạo dựng vào năm Canh Tuất (1670), niên hiệu
Cảnh Trị thứ 8, đời vua Lê Huyền Tông. Ban đầu, đền được xây dựng bằng
vật liệu tre, nứa, mái tranh. Đến năm Tân Mùi (1691), niên hiệu Chính Hịa
thứ 12, đời vua Lê Huy Tơng, đền được trùng tu tôn tạo lại bằng vật liệu kiên
cố với quy mô lớn.
Đền Bạch Vân thờ một nhân vật có tên là Trần Toản, quê ở tỉnh Thanh
Hóa, tương truyền là bạn đồng học với Đinh Nho Công thuở thiếu thời.
Sự tích đền Bạch Vân kể rằng: Năm Đinh Nho Công khoảng 30 tuổi,
một hôm vừa chợp mắt ông thấy mình đi cày ở vùng Cồn Lây ở làng Thịnh
Xá, bỗng thấy một bà lão dáng người thanh nhã, đức độ đi đến, khi gặp ông
bà lão rất đỗi vui mừng và cúi đầu thưa: "Xin chào ngài Đô ngự sử", rồi bà
lão nói: “Theo tơi ngài nên về nhà lo việc bút nghiên thì tốt hơn, về sau sự
11
nghiệp sẽ hiển hách hơn là đi cày, Ngài đi cày sẽ phí mất một nhân tài của đất
nước”, nói xong bà lão biến mất. Ngài đem chuyện này kể với mẹ của mình,
bà rất mừng và bảo con trai mình con phải nghe lời của bà lão. Sau đó Đinh
Nho Cơng ni chí đèn sách và ra Thanh Hóa tìm thầy giỏi học tập. Ở Thanh
Hố, Đinh Nho Cơng kết bạn được với một nho sinh thông minh lỗi lạc đó là
Trần Toản. Sau ba năm đèn sách miệt mài, hai ông đều đậu cử nhân. Trước
lúc vinh quy hai người hứa hẹn nhau rằng về chăm lo học hành, ba năm sau ra
Thăng Long thi hội. Sắp đến ngày hẹn, Đinh Nho Cơng nằm mơ thấy mình
đang trên đường đi thi, vừa đến Bích Kiều gần chợ Thượng (Đức Thọ) thì gặp
ngài Trần Toản cưỡi con ngựa trắng đi lên huyện Hương Sơn quê mình. Gặp
nhau hai người rất vui mừng, Trần Toản nói: "Khoa thi này chỉ có mình chú
đi thi cịn ta đã về trời hơn một tháng rồi, bài vở ta đã soạn cả rồi, đang để ở
nhà, chú ra gặp nhà ta mà lấy, phen này ta mừng cho chú đậu tiến sĩ, nhưng
đậu thì đừng quên ơn ta, chú làm cho ta một cái đền ở làng Thịnh Xá để sớm
hôm qua lại cho vui", tỉnh dậy Đinh Nho Cơng mới biết đó chỉ là một giấc mơ
nhưng sau đó ơng ra Thanh Hóa thì sự tình đúng như vậy.
Khoa thi năm Canh Tuất (1670), Đinh Nho Công đậu tiến sĩ, trong đêm
của ngày vinh quy, Đinh Nho Công lại nằm mộng thấy Trần Toản đến làm lễ
mừng đại khoa và dặn rằng: "Ngày mai xuống làng Thịnh Xá thấy đám mây
trắng tụ ở đâu thì dựng đền cho ta ở đó để nhớ ơn tình bạn tri kỉ khơng bao
giờ phai", sau đó tiến sĩ Đinh Nho Cơng thấy một đám mây trắng dồn tụ dày
đặc ở vùng Cồn Mai, làng Thịnh Xá, do vậy ông đã cho xây dựng đền tại đây
và đặt tên đền Bạch Vân (đám mây trắng).
Vào thời kỳ cuối thời Lê đầu Nguyễn, quy mô của đền gồm 3 toà: Hạ
điện, trung điện, thượng điện và nhà cất đồ lễ. Về sau, dân làng còn dựng thêm
nhà chùa và nhà thượng chng ở phía sau, nhà nghĩa thương ở phía trước.
Đền Bạch Vân nổi tiếng linh thiêng, ai đến cầu khấn khoa danh cũng
đều được như nguyện ước. Sự tích kể lại rằng vào đời vua Lê Huy Tông
12
(1700), trước khi đậu hoàng giáp, Đinh Nho Hoàn, con trai Đinh Nho Cơng,
có đến đền Bạch Vân làm lễ, đêm hôm ấy, ông nằm mộng thấy một nho sinh
mặc áo trắng đến mà bảo rằng: “Con ta khoa thi này sẽ đậu Hồng giáp”. Quả
nhiên khoa thi Canh Thìn năm (1700) Đinh Nho Hoàn đậu Hoàng giáp, được
bổ làm quan ngự sử và được cử đi sứ sang Trung Quốc nhiều lần. Đinh Nho
Hoàn bị bệnh mất ở Trung Quốc năm 1715, được vua Càn Long cho quan
quân hộ tống đưa thi hài về đến ải Nam Quan. Hoàng giáp Đinh Nho Hồn
cịn lưu lại câu đối để nhắc lại sự tích ấy:
“Thần bút hà niên hồng bảng trợ
Linh từ chung cổ Bạch Vân lưu”
(Nghĩa là: Bút thần năm trước nên bảng vàng, đền cổ ngàn năm dấu
Bạch Vân)
Về tiến sĩ Đinh Nho Công, sách: “Các nhà khoa bảng Việt Nam” chép:
“Đinh Nho Công người xã Yên Ấp, huyện Hương Sơn, nay thuộc xã Sơn
Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, cha của Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn,
thi hương đỗ giải nguyên năm 34 tuổi, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 8, đời vua Lê Huyền Tông.
Khoảng năm Nhâm Tuất (1692), niên hiệu Chính Hịa, ơng giữ chức tham
chính xứ Sơn Nam, sau được thăng Thiên Đơ Ngự Sử. Vì phạm lỗi bị truất
xuống Tự Khanh.
Sau khi mất, tiến sĩ Đinh Nho Công được nhân dân làng Thịnh Xá thờ
trong đền Bạch Vân với nghi thức như thành hoàng của làng. Bài vị thờ trong
đền ghi rõ: “Đương cảnh thành hoàng thiên linh hiển ứng, Cồn Mai phúc thần
Đại Vương, lịch triều gia phong thượng đẳng tôn thần”.
Về sau nhân dân thịnh xá tiếp tục xây dựng gác chng và chùa làng
vào phía sau đền Bạch Vân gọi là chùa Thịnh Xá để nhân dân tu hành.
b. Đặc điểm kiến trúc, điêu khắc
Cũng như nhiều cơng trình kiến trúc tôn giáo khác, đền Bạch Vân, trải
qua một quá trình lịch sử gần 350 năm, khơng tránh khỏi sự tàn phá của thời
13
gian, của chiến tranh và của chính con người. Mặc dù vậy, cho đến nay, đền
Bạch Vân vẫn còn lưu giữ được đặc điểm cơ bản của một quần thể kiến trúc
thời cuối Lê đầu Nguyễn.
Đền được xây dựng trên bờ đất cao, gọi là Cồn Mai, nằm gần trung tâm
xã Sơn Thịnh, trên trục đường liên xã Sơn Hòa - Sơn Thịnh hiện nay. Trong
khn viên của đền cịn có một ngơi chùa, một gác chng tám mái. Chùa và
gác chng quay về hướng Tây Nam, nằm phía sau đền Bạch Vân.
Bố cục kiến trúc đền theo kiểu chữ tam, gồm: Hạ điện, trung điện,
thượng điện, quay mặt về hướng đơng nam nhìn xuống núi Thiên Nhẫn,
nhưng cổng chính của đền lại được bố trí ở phía Tây Nam nhìn ra sơng Ngàn
Phố. Tương truyền rằng khi xưa, cổng đền Bạch Vân cũng mở về hướng đơng
nam nhưng vì dân làng cho là “động”, cuộc sống không yên ổn, nên làng xin
mở cổng theo hướng Tây Nam, ngoảnh ra sơng Ngàn Phố.
Ngồi một số cơng trình đã có từ trước, hiện đền cịn có một số cơng
trình mới được xây dựng sau này đó là: Nhà cất lễ và nhà nghĩa thương, cất
giữ lương thực với 5 gian nhà ngói, do Nguyễn Khắc Niêm, người xã An Ấp,
huyện Hương Sơn, đỗ đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi (1907),
niên hiệu Thành Thái thứ 19, đứng ra vận động xây dựng đầu thế kỉ XX. Nói
chung hai ngơi nhà này về kiến trúc khơng có gì đặc biệt và được bố trí ở phía
đơng bắc của đền Bạch Vân.
- Nhà hạ điện
Nhà hạ điện là một công trình kiến trúc tiêu biểu nhất bởi nó được đầu
tư công phu về mặt kĩ thuật và mỹ thuật, quy mơ cũng lớn hơn cả. Trước hạ
điện có hai con ngựa đá nằm phủ phục trên bệ đá mang nét phong trần và dạn
dày thời gian. Ngựa có kích thước dài 0,9m, cao 0,5m với đầy đủ yên cương.
Nhà hạ điện dài 8,6m, rộng 5,7m, gian giữa rộng 2,6m, hai gian hai bên rộng
2,2m. Hệ thống cột gồm: 6 cột gỗ mít đường kính 0,3m, 8 cột quân cũng bằng
gỗ mít, đường kính: 0,25m. Bốn góc nhà là 4 cột trụ hiên mái được xây bằng
14
gạch, trụ vng kích thước 0,25 x 0,25m. Nền lát gạch đất nung với kích
thước 0,2 x 0,2m. Mọi trang trí ở nhà hạ điện chủ yếu tập trung ở gian chính
giữa. Trên cùng là một bức chạm gỗ, trang trí hình mặt nguyệt với chín con
phượng đang bay chầu vào nhau, nét chạm khắc tinh tế làm cho chúng ta có
cảm giác như 9 đám mây bay lên bầu trời. Đặc biệt, trong 9 con phượng thì có
8 con ngoảnh vào chầu mặt nguyệt, riêng có một con bên phải ngoảnh lại đầu
ra. Đó là quan niệm đời xưa của cha ơng về con số chín, là con số cực dương.
Tám con phượng cộng với mặt nguyệt là số chín, quần tụ trong sự trường tồn
mãi mãi. Phía trước có bức hồnh phi bằng gỗ sơn son đề 3 chữ: "Chi linh
thần" (thần rất linh thiêng). Đây là bức hoành phi do tiến sỹ Nguyễn Xuân
Đản (người làng Thịnh Xá) tặng khi ơng đậu tiến sĩ khoa thi Bính Thìn, Khải
Định năm thứ nhất (1916) lúc ơng 24 tuổi. Phía dưới có một bức hồnh phi
sơn son thiếp vàng đề 4 chữ Hán: " Kỳ thịnh hị hồ" (nghĩa là thịnh vượng vậy
thay), phía bên phải bức hồnh phi đề hàng chữ Hán, cỡ chữ nhỏ hơn: “Long
phi thân tí đơng” (tức Rồng bay năm Thân ngày Tý mùa đơng). Bức hồnh
phi này do Đại học sĩ Ngơ Thì Nhậm tặng làng Thịnh Xá và đền Bạch Vân
nhân sự kiện ông cùng vua Quang Trung ra Bắc Hà lần thứ 2, gặp La Sơn Phu
Tử Nguyễn Thiếp vào cuối năm 1788 để hỏi ý kiến về sách lược giữ nước và
ghé qua làng Thịnh Xá một ngày đêm.
Trên các thượng lương của vì kèo chính giữa bên phải đều được chạm
trổ tinh tế, đăng đối hài hòa. Các đề tài trang trí gồm: Đào, phượng và lưỡng
long chầu nguyệt, đỉnh cột có khắc dịng chữ: "Lưu tiến cơng phi". Nhìn
chung ở gian giữa nhà hạ điện kỹ thuật chạm khắc rất uyển chuyển, lúc đậm,
lúc thoáng tạo nên một tác phẩm điêu khắc trên gỗ hoàn hảo.
Ở gian bên phải của nhà hạ điện có bức chạm mang một vẻ quý phái và
sang trọng gồm các cảnh: Cây tùng, lân hóa rồng, voi và cây đàn thập lục,
phía trên nữa là ngai vàng và trên đỉnh nóc được thể hiện hình ảnh nhà vua
trên lưng phượng. Tất cả đều mơ tả cuộc sống lộng lẫy nơi cung đình sang
15
trọng và quyền uy. Gian bên trái hạ điện cũng được chạm trổ các hình ảnh
chim sẻ đang bay, cành trúc, phía trên là cảnh voi đi thi.
- Nhà Trung điện
Nhà trung điện được xây sát hạ điện, kết cấu 3 gian 4 vì kèo, mái lợp
ngói âm dương, việc chạm trổ ở đây đơn giản không cầu kỳ hoa mỹ, hai đầu
hồi xây bịt đốc, phía đầu hai đầu đốc trang trí hình hổ phù ngậm án thư. Phía
dưới hai đầu hồi có trang trí hình trịn bao xung quanh hình vng, đây là
quan niệm về vũ trụ của người xưa về trời trịn đất vng. Trên các bờ chảy
có trang trí các con lân trong tư thế bị xuống.
Nhà trung điện dài 7,0m, rộng 6,1m, gian giữa rộng 2,6m, hai gian hai
bên có kích thước 2,2m. Bốn góc nhà có 4 trụ gạch hình vương kích thước
0,45 x 0,45m. Hệ thống cột bao gồm 8 cột cái và 8 cột qn đều bằng gỗ mít,
có dường kính như nhau 0,25m. Tại nhà trung điện cịn có bộ cổ kiệu đòn
rồng sơn son thiếp vàng, một lồng đỉnh sơn son thiếp vàng đặt ở gian giữa.
Phía sau có bàn thờ với hai bức tượng ơng phổng bằng gỗ mít trong tư thế
dưng hương. Phía trên xà dọc có treo bức đại tự với 4 chữ Hán: "Thượng đẳng
linh thần" (thần linh tối cao).
- Nhà thượng điện
Nhà thượng điện là một cơng trình kiến trúc cũng được đầu tư nhiều
cơng sức trong việc trang trí, chạm trổ nhưng quy mơ nhỏ hơn nhà trung điện
và hạ điện, kiến trúc nhà thượng điện bao gồm 2 gian, 3 vì kèo được chạm trổ
hết sức công phu, tỉ mỉ và sơn phết rất kỹ lưỡng, bốn phía được thưng bằng
ván gỗ chắc chắn. Nhà thượng điện có kích thước dài 6,9m, rộng 5,5m, với hệ
thống cột gồm 12 cột bằng gỗ mít có đường kính bằng nhau 0,25m. Bên ngồi
nhà thượng điện ở phía sau có hàng cột hiên gồm 4 cột và 2 cột trụ vng
bằng gạch, kích thước 0,25m x 0,25m. Trên nóc nhà thượng điện, có trang trí
4 đầu đao hình con nghê và đi rồng, trên bờ chảy có trang trí con lân trong
tư thế bị xuống. Bên ngồi phía trước nhà thượng điện có đắp nổi hai ông
16
quan tả, hữu trong tư thế chống tay ngang hông, mặt hướng vào nhau, ông bên
trái đầu đội mũ trùm kín tai, ơng bên phải đầu đội mũ cánh chuồn, ở phần
bụng trang trí hình đầu dơi, chân đi hài. Phía trước nhà thượng điện có mở hai
cửa nách để ra vào. Cửa được làm theo kiểu thượng song hạ bản, sơn son, các
con tiện được tạo tác công phu, phía dưới có chạm nổi hình con ngựa đầu
rồng đang phi.
Khung cửa cũng được trang trí bằng các họa tiết chạm nổi hình dây leo
thực vật. Ở giữa cũng có cửa được trang trí bằng các họa tiết cơng phu, sơn
phết kỹ càng, màu sắc sặc sỡ nhưng không dùng cho việc ra vào. Ở các góc vì
kèo nhà thượng điện được chạm trổ công phu, nhất là các đầu dư. Phía trước
trên hai cột hiên được tạo tác bằng vật liệu vơi vữa có câu đối:
“Sơn chi thời khí địa linh an sắc linh thần tại
Phụng tử huynh lưu khí tỏa thanh đồng phủ siêu hạng”
(Nghĩa là:
Mảnh đất này linh thiêng, khí hậu trong lành an cư lạc nghiệp
Tình huynh đệ ghi ơn và được lưu truyền mãi mãi ngàn sau)
Tâm điểm của kỹ thuật chạm khắc phải kể đến là vì kèo ở chính giữa
gian thượng điện. Trên các thượng lương đều có chạm trổ tinh tế với đề tài
rồng chầu nhau miệng ngậm hạt ngọc. Nội thất được bố trí bộ bàn thờ hồn
chỉnh với hai bộ long ngai, bài vị, bộ kiếm thờ bằng gỗ sơn son, hai bộ nghi
trượng, lư hương bằng đá ngọc… Tất cả các đỉnh cột, xà ngang, đầu dư của
nhà thượng điện đều được sơn son thiếp vàng tạo ra một cảm giác linh thiêng,
thuần khiết, tăng thêm ý nghĩa huyền bí, uy nghi của ngơi đền Bạch Vân. Phía
sau của nhà thượng điện là cồn đất cao phủ cả phần nền của nhà Thượng điện,
gọi là Cồn Mai, xa hơn nữa khoảng 20m là nhà gác chuông 8 mái theo kiểu
chồng diêm và nhà chùa thờ Phật, cũng có chạm trổ với các đề tài dân gian
như rồng phượng, dây leo thực vật…
- Nhà cất đồ lễ
Nhà này không rõ thời gian xây dựng, hiện nay đang xuống cấp trầm
trọng, nhà có cấu trúc 3 gian hai hồi xây tường bịt đốc, hệ thống cột vuông
17
làm bằng gỗ lim với 3 cột cái, 3 cột quân, xung quanh xây tường bao. Mái lợp
ngói âm dương, trên nóc khơng có trang trí gì. Phía trước có mở cửa ở gian
giữa, hai gian có hai cửa sổ, nội thất trước đây được thưng bằng ván, nhưng
nay chỉ cịn có dấu vết. Hiện nay ngơi nhà này được nhân dân xóm Thịnh
Nam dùng cất xe tang của xóm.
- Nhà nghĩa thương
Ngơi nhà này được Hồng giáp Nguyễn Khắc Niêm đứng ra vận động
nhân dân làng Thịnh Xá xây dựng vào khoảng đầu thế kỉ XX, gồm 5 gian, 2
hồi, kích thước dài 12,5m, rộng 6,1m, hệ thống cột cái và cột qn bằng gỗ
lim có đường kính 0,25m. Kích thước các gian khơng đều nhau, hai hồi có
kích thước 1,2m, hai gian có kích thước bằng nhau: 2m, một gian rộng hơn cả
có kích thước 2,6m, một gian 1,7m, một gian 1,8m. Mái lợp ngói âm dương,
nền lát gạch đất nung 0,2 x 0,2m xung quanh có thưng ván gỗ. Phía trước có
cửa ra vào ở hai gian. Bên trong nhà có 3 gian có cấu trúc các rầm chạn lót
ván, xung quanh có một cửa dùng để cất giữ tài sản cho làng.
Ngôi nhà này trước đây dùng để cất giữ lương thảo phịng khi cứu đói
cho dân làng. Trong thời gian từ 1977 đến 1994, ngôi nhà này được sử dụng
làm trụ sở của Ủy ban nhân dân xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn. Hiện nay
chính quyền địa phương giao cho xóm Thịnh Nam dùng vào sinh hoạt, hội
họp của xóm.
Nhìn chung đền Bạch Vân được xây dựng từ thời nhà Lê cuối thế kỷ
XVII được tu bổ, tôn tạo quy mô vào thời kỳ đầu nhà Nguyễn và có sự tu sửa
sau này, nhưng vẫn giữ được một quần thể kiến trúc, sự kết hợp tài tình và
khéo léo tạo ra một cơng trình hồn hảo về kỹ thuật và mỹ thuật. Đền Bạch
Vân là cơng trình lao động sáng tạo nghệ thuật của con người qua các thế hệ,
là sự kết tinh giữa ý tưởng và sự thể hiện cụ thể một cách nhuần nhuyễn của
các bậc túc nho làng Thịnh Xá trước đây với các nghệ nhân thợ mộc. Rất tiếc
cho đến nay chúng ta đã chưa biết cụ thể chính xác những nghệ nhân tham gia
18