BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ TÌNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN
LÊN THỜI GIAN BIẾN THÁI VÀ TỶ LỆ SỐNG
CỦA ẤU TRÙNG TÔM HE CHÂN TRẮNG
(Penaeus vannamei) TỪ GIAI ĐOẠN ZOEA 1
ĐẾN POSTLARVAE 1 TẠI CƠNG TY CỔ PHẦN
CHĂN NI CP. VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
VINH - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN
LÊN THỜI GIAN BIẾN THÁI VÀ TỶ LỆ SỐNG
CỦA ẤU TRÙNG TÔM HE CHÂN TRẮNG
(Penaeus vannamei) TỪ GIAI ĐOẠN ZOEA 1
ĐẾN POSTLARVAE 1 TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
CHĂN NI CP. VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Sinh viên thực hiện
Lớp
MSSV
Người hướng dẫn
:
:
:
:
Trần Thị Tình
49K1 - NTTS
0853030899
ThS. Phạm Mỹ Dung
VINH - 2012
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CT
:
Công thức
CTTA
:
Công thức thức ăn
M
:
Mysis
NTTS
:
Nuôi trồng thủy sản
TGBT
:
Thời gian biến thái
TLS
:
Tỷ lệ sống
TN
:
Thí nghiệm
Z
:
Zoea
i
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa học, đồng thời để hồn thành được bản khóa luận
tốt nghiệp này, ngồi sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ của nhiều đơn vị, cá nhân và tổ chức.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn giảng
viên Ths. Phạm Mỹ Dung, là người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong
suốt q trình thực hiện đề tài này.
Tiếp đến tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo, các cán bộ khoa
Nông - Lâm - Ngư, trường Đại học Vinh đã truyền giảng cho em những kiến
thức và những kinh nghiệm quý báu trong hơn 4 năm qua đã học tập trên ghế
nhà trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo công ty sản xuất giống CP.Việt
Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về cơ sở vật chất cũng như hướng dẫn tôi
trong thời gian thực tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị, các bạn đã luôn cổ vũ,
giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, ngày 18 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Trần Thị Tình
MỞ ĐẦU
1
Việt Nam với diện tích đất liền 329.297 km2, vùng biển rộng hơn 1 triệu
km2 và trải dài hơn 3.260 km, rất thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng
thủy sản. Ngành thủy sản nói chung, nghề ni tơm ở Việt Nam nói riêng
những năm gần đây phát triển mạnh mẽ, đã giải quyết một phần tình trạng
thiếu việc làm, tăng thu nhập cho nhiều hộ nông ngư dân ven biển, tăng
nguồn ngoại tệ lớn thông qua xuất khẩu.
Tôm He chân trắng (P.Vannamei) là đối tượng nuôi mới ở nước ta, bên
cạnh đối tượng truyền thống là tôm Sú. Tuy nhiên hiện nay nghề nuôi tôm sú
đang gặp nhiều khó khăn trong khi đó tơm He chân trắng (THCT) có nhiều ưu
điểm hơn hẳn với tơm sú do năng suất cao, sức đề kháng tốt và thời gian quay
vòng nhanh, giá tơm ngun liệu đang có chiều hướng tăng cao. Do đó diện
tích ni đối tượng này đang ngày càng được mở rộng.
Được du nhập vào Việt Nam từ năm 2001-2002 và mãi đến năm 2008
mới được nuôi phổ biến trên cả nước, nhưng sản phẩm THCT đã đóng góp
ngày càng quan trọng cho XKTS Việt Nam. Hai thập kỷ qua NTTS đã đưa
xuất khẩu thủy sản (XKTS) Việt Nam vào tốp 10 nước có trị giá XKTS hàng
đầu thế giới, và mục tiêu đến năm 2020 kim ngạch XKTS đạt 7 tỷ USD [Dự
thảo của Bộ NN & PTNTT, 2009].
Để một vụ nuôi thành công điều không thể thiếu là đàn tôm giống khỏe
mạnh và sạch bệnh.Trong giai đoạn ương ni ấu trùng của quy trình sản xuất
giống tơm he chân trắng, thường gặp rủi ro và có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
tỷ lệ sống và chất lượng ấu trùng đặc biệt ở giai đoạn Zoea đến Mysis. Các
nhà nghiên cứu thủy sản đã nghiên cứu rất nhiều để tìm ra loại thức ăn phù
hợp nhất cho ấu trùng tôm he chân trắng. Thức ăn được sử dụng để ương nuôi
ấu trùng giai đoạn Zoea lên Mysis chủ yếu là tảo tươi.
Với giá trị dinh dưỡng, vai trị điều hịa, cân bằng các yếu tố mơi trường
thì vi tảo như: Nanochlropsis oculata, Isochrysis galbana, Chaetoceros
2
calcitrans, Chaetoceros sp., Thalassiosira weissflogii, tảo khô Spirulina đang
là nguồn thức ăn tươi sống quan trọng không thể thiếu cho các giai đoạn ấu
trùng của các loài giáp xác, động vật thân mềm, nhuyễn thể nói chung và với
lồi tơm thẻ chân trắng nói riêng. Trong đó, tảo Thalassiosira weissflogii và
tảo Chaetoceros sp. là hai loài tảo đang được sử dụng làm thức ăn phổ biến
trong sản xuất giống tôm he chân trắng.
Ngoài việc sử dụng tảo làm thức ăn cho ấu trùng tơm người ta cịn kết
hợp với các loại thức ăn khác như: artemia, tảo khô, TĂTH. Tuy vậy, có rất
nhiều cơng thức phối hợp giữa các loại thức ăn với nhau và mỗi công thức
thức ăn cho tỷ lệ sống, thời gian biến thái khác nhau.
Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên chúng tôi thực hiện đề tài "
Nghiên cứu Ảnh hưởng của thức ăn đến thời gian biến thái và tỷ lệ sống
của ấu trùng tôm He chân trắng (Penaeus Vannamei) giai đoạn Zoea 1 đến
Postlarvae 1 tại công ty cổ phần CP Việt Nam”.
Mục tiêu của đề tài
Tìm ra cơng thức thức ăn thích hợp trong ương ni ấu trùng tơm he
chân trắng Penaeus Vannamei, nhằm nâng cao tỷ lệ sống, rút ngắn thời gian
biến thái đồng thời hồn thiện quy trình sản xuất giống tôm he chân trắng.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học của tôm he chân trắng
1.1.1. Hệ thống phân loại
Tôm he chân trắng có hệ thống phân loại như sau:
Ngành chân khớp: Arthropoda
Lớp giáp xác:
Crustacea
Bộ mười chân:
Decapoda
Bộ phụ bơi lội: Natantia
Họ tôm He: Penaeidae
Giống:
Penaeus
Lồi :
Penaeus vannamei (Boone, 1931)
hoặc Litopenaeus vannamei
Hình 1.1. Tơm He chân trắng trưởng thành
4
1.1.2. Đặc điểm hình thái
Cơ thể tơm he chân trắng được chia làm 2 phần: phần đầu ngực và
phần bụng.
Phần đầu ngực có 14 đơi phần phụ, bao gồm: Một đơi mắt kép có
cuống mắt; 2 đơi râu: Anten 1 (A1) và Anten 2 (A2), A1 ngắn, đốt 1 lớn và
có hốc mắt, có 2 nhánh ngắn. A2 có nhánh ngoài biến thành vẩy râu (Antennal
scale), nhánh trong kéo dài. Hai đôi râu này đảm nhận chức năng khứu giác
và giữ thăng bằng; 3 đôi hàm: đôi hàm lớn, đôi hàm nhỏ 1 và đôi hàm nhỏ 2;
3 đôi chân hàm có chức năng giữ mồi, ăn mồi và hỗ trợ cho hoạt động; 5 đơi
chân bị hay chân ngực, giữ cho tơm bị trên mặt đáy.
Phần đầu ngực được bảo vệ bởi phần giáp đầu ngực. Trên giáp đầu ngực
có nhiều gai, gờ, sóng, rãnh. Phía trước vỏ giáp đầu ngực là chủy đầu, (rostrum),
vũ khí tự vệ của tơm là chủy đầu hình nhọn mũi kiếm, có gai trên chủy.
Phần bụng có 7 đốt: 5 đốt đầu mỗi đốt mang 1 đơi chân bơi hay cịn gọi
là chân bụng. Mỗi chân bụng có 1 đốt chung bên trong, đốt ngoài chia làm 2
nhánh: nhánh trong và nhánh ngoài. Đốt bụng thứ 7 biến thành telson, hợp với
đôi chân đuôi phân nhánh tạo thành đuôi, giúp cho tôm chuyển động lên
xuống và búng nhảy. Ở tôm đực 2 nhánh trong của đôi chân bụng 1 biến
thành petasma và 2 nhánh trong của đôi chân bụng 2 biến thành đôi phụ bộ
đực, là các bộ phận sinh dục đực bên ngoài.
1.1.3. Đặc điểm phân bố và sinh thái
Hiện nay, loài tôm này được phân bố ở châu Mỹ La Tinh, Đài loan,
Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam và một số nước khác trên thế giới.
Tôm he chân trắng là một lồi ngồi tự nhiên sống ở vùng biển có đáy
cát, ở độ sâu từ 0,5 - 72m. Giai đoạn ấu trùng tơm có thể sống ở độ mặn 25 35‰, nhiệt độ 27 – 310C, nhưng thích nghi tốt nhất ở độ mặn 28 - 33‰,
nhiệt độ 28 – 300C, pH 7,7 – 8,2 (Nguyễn Trọng Nho), nồng độ NH3 <
5
0,1mg/l (viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III), độ kiềm thích hợp cho giai
đoạn này là từ 20 – 150mg/l (Nguyễn Ngọc Dự Nhãn). Tuy nhiên, sự phân bố
của tôm he cũng thay đổi tùy từng giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng và
Potslarvae 5 tôm sống trôi nổi ở tầng mặt và ở tầng giữa, từ cuối giai đoạn
potslarvae tôm bắt đầu chuyển sang sống đá.[6]
1.1.4. Đặc điểm sinh sản
* Bãi đẻ, mùa vụ sinh sản
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những
vùng biển có độ sâu 70m với nhiệt độ 26-28 0C, độ mặn khá cao (35‰).
Trứng nở ra ấu trùng và vẫn loanh quanh ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn
Potlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông
cạn. Sau 1 vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp
diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm chọn chu kỳ.[2]
Tùy vào nhiệt độ nước mà mùa vụ sinh sản của tôm cũng thay đổi theo
tùng khu vực. Ở Bắc Ecuado mùa đẻ rộ vào tháng 4 - 5. Ở Peru mùa tôm đẻ
chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 4.
* Sức sinh sản: số lượng trứng tùy theo kích cỡ của tơm mẹ, tơm mẹ
có khối lượng từ 35g, lượng trứng 100.000–250.000 hạt, trứng có đường
kính 0,22 mm, sự phát triển của trứng sau khi đẻ đến giai đoạn đầu tiên của
Nauplius diễn ra trong khoảng 14 giờ.[7]
* Hoạt động giao vĩ và đẻ trứng: Tôm he chân trắng là lồi có thelycum
hở. Sự giao vĩ chủ yếu xảy ra vào ban đêm. Thời gian giao vĩ xảy ra tương đối
nhanh khoảng 3–7 phút.
Tôm cái được gắn túi tinh trước khi đẻ vài giờ hoặc trước đó vài ngày (lột
xác thành thục giao vỹ đẻ). Túi tinh được dính vào thelycum của con cái,
khơng được bảo vệ chắc chắn nên dễ bị rơi rớt và tơm có thể giao vĩ trở lại [1].
6
Hình 1.2. Hoạt động giao vĩ
* Hoạt động đẻ trứng của tôm thẻ chân trắng
Tôm cái đẻ trứng chủ yếu vào thời gian 9 giờ tối đến 3 giờ sáng. Thời
gian bắt đầu đẻ cho tới khi kết thúc chỉ mất 1-2 phút. Trứng sau khi đẻ có màu
vỏ đậu xanh. Các chùm tinh của tôm đực cũng được tái sinh nhiều lần. Sau
khi đẻ xong trứng trải qua các giai đoạn ấu trùng, tới poslarvae bơi vào gần bờ
sông, sau vài tháng tôm con trưởng thành và bơi ra biển rồi giao vĩ tiếp.
Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng lại phát dục tiếp. Con đẻ nhiều
nhất 10 lần/năm, thường sau khi đẻ 3-4 ngày thì lột vỏ.
1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng và lột xác
Trứng sau khi được thụ tinh sẽ xẩy ra quá trình phân cắt, phát triển phôi
và nở thành ấu trùng Nauplius. Ấu trùng tôm he lớn lên nhờ vào quá trình lột
xác và biến thái qua nhiều giai đoạn khác nhau để trở thành hậu ấu trùng
postlarvae. Trong vòng đời phát triển, mỗi giai đoạn chúng có những đặc
điểm về hình thái, dinh dưỡng và thích nghi điều kiện mơi trường khác nhau.
Căn cứ vào những đặc điểm đó cũng như sự thay đổi hình thái bên ngồi mà
người ta phân chia sự phát triển của ấu trùng tôm he thành các giai đoạn khác
nhau, cụ thể như sau:
7
* Giai đoạn Nauplius (N)
Ấu trùng N có hình dạng giống quả lê, có 3 đơi phụ bộ (râu A 1, hàm lớn,
râu A2) và một điểm mắt. Bơi lội bằng ba đôi phần phụ, vận động theo kiểu
ziczăc không định hướng và không liên tục. Chúng chưa ăn thức ăn bên ngồi
mà tự dưỡng bằng nỗn hồng.
Ấu trùng N trải qua 6 lần lột xác để tăng trưởng chủ yếu về chiều dài,
các phần phụ và nội quan. Mỗi lần lột xác tương ứng với một giai đoạn phụ (6
giai đoạn), sau lần lột xác cuối cùng sẽ kết thúc giai đoạn N và chuyển sang
giai đoạn ấu trùng Zoea. Công thức gai đuôi là đặc điểm quan trọng để phân
biệt các giai đoạn phụ của ấu trùng N.[2]
* Giai đoạn Zoea (Z)
Sau khi kết thúc giai đoạn N ấu trùng chuyển sang giai đoạn Z. Đặc
điểm thay đổi lớn nhất ở giai đoạn này chính là việc ấu trùng bắt đầu sử dụng
thức ăn bên ngoài. Giai đoạn này ấu trùng ăn mồi liên tục, ruột luôn đầy thức
ăn và thải phân liên tục tạo thành đuôi phân kéo dài ra phía sau.[4,2]
Giai đoạn ấu trùng Z được phân chia thành 3 giai đoạn phụ: Zoea1 (Z1),
Zoea2 (Z2), Zoea3 (Z3) [2].
Hình 1.3. Zoea 1
Hình 1.4. Zoea 2
- Z1 thay đổi hẳn về hình thái so với Nauplius. Cơ thể Z1 kéo dài chia làm
2 phần: Phần đầu có vỏ giáp đính lỏng lẻo, phần sau gồm có 5 đốt ngực và bụng
chưa phân đốt có chạc đi. Z1 chưa có chủy đầu, mắt đã có sự phân chia rõ
nhưng dính sát nhau tạo thành một khối, chưa có cuống mắt
8
- Z2 có chủy đầu, hai mắt có cuống mắt tách rời nhau, phần bụng đã chia
thành 4 đốt.
- Z3 đã có phần đầu và phần ngực kết hợp tạo thành phần đầu ngực và
được che phủ bởi bởi giáp đầu ngực. Ở mặt bụng cuối phần đầu ngực xuất hiện
mầm 5 đơi chân ngực. Phần bụng có 7 đốt bao gồm 6 đốt bụng và 1 chạc đuôi,
đốt bụng 6 dài có mầm chân đi.
Hình 1.5. Zoea 3
Mỗi giai đoạn phụ của ấu trùng Zoea thường kéo dài khoảng 30–40 giờ,
trung bình khoảng 36 giờ ở nhiệt độ 28–29oC.
* Giai đoạn Mysis (M)
Ấu trùng giai đoạn này thân cong gập lại do ưu tiên phát triển phần đầu
ngực để hoàn thiện các giai đoạn phụ nên phần đầu ngực nặng hơn phần thân,
chính vì điều đó mà ấu trùng chúc đầu xuống dưới tạo nên hiện tượng treo
mình trong nước. Ấu trùng M bơi lội kiểu búng ngược, vận động chủ yếu bởi
5 đơi chân bị .[2]
Thức ăn ở giai đoạn này thiên về động vật phù du kích cỡ nhỏ, các mảnh
vụn hữu cơ trong nước và bắt mồi chủ động. Tuy nhiên chúng vẫn có thể ăn
tảo silic, đặc biệt là ở giai đoạn phụ M1 và M2.[2]
Gồm 3 giai đoạn phụ Mysis 1 (M1), Mysis 2 (M2), Mysis 3 (M3), mỗi
giai đoạn kéo dài 24 giờ, tổng tất cả là 3 ngày rồi trở thành Post–larvae. Chân
9
đuôi của M phát triển dài bằng mấu đuôi, nhánh ngồi của ăng ten 2 bắt đầu
dẹp để hình thành vẩy râu, cơ thể cong gập, sống trôi nổi. [2]
-M1: Dài 2,4–3,4mm. Đầu M1 chưa co mầm chân bụng, cuối M1 mầm
chân bụng bắt đầu được hình thành.
- M2: Dài 2,9–3,9mm. Phần bụng bớt cong, mầm chân bụng có 1 đốt.
- M3: Dài 3,7–4,5mm. Mầm chân bụng có 2 đốt, chủy có răng cưa .
* Giai đoạn postlarvae (PL):
Hậu ấu trùng PL của tơm đã co hình dạng của lồi nhưng sắc tố chưa
hoàn thiện, nhánh trong ăng ten 2 chưa kéo dài. PL bơi thẳng có định hướng về
phía trước bơi lội bằng 5 đôi chân bụng. Cơ quan tiêu hóa, phát triển hồn
chỉnh thức ăn chủ yếu là ấu trùng của các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ,
Nauplius Copepoda, Nauplius Artemia, . . .. .[2]
1.1.6. Nhu cầu dinh dưỡng của tôm He chân trắng
1.1.6.1. Nhu cầu về Protein
Protein là vật chất hữu cơ chủ yếu xây dựng nên các tổ chức mơ của
động vật và các chất có hoạt tính sinh học cao như là enzyme, hormon và các
sản phẩm khác, là thành phần quan trọng trong thức ăn của tơm. Nó thay đổi
theo giai đoạn phát triển của tơm và thay đổi tuỳ lồi. Nhu cầu về Protein của
THCT thấp hơn nhiều so với các loài ăn thiên về động vật như P.japonicus,
P.monodon…. Hàm lượng Protein trong thức ăn của giai đoạn ấu trùng tôm
tốt nhất ≥ 40 %.
1.1.6.2. Nhu cầu Lipid
Lipid là hợp phần cấu tạo quan trọng của các màng sinh học, là nguồn
cung cấp năng lượng, cung cấp các vitamin (A, D, E, K) hòa tan trong mỡ,
các acid béo cần thiết cho quá trình sinh trưởng và phát triển của động vật
thủy sản. Nhiều nghiên cứu cho thấy lipid có ảnh hưởng đến sinh trưởng của
tôm, đặc biệt là giai đoạn ấu trùng và tôm giống [11].
10
Thành phần lipid có trong thức ăn tơm khoảng 6 - 7,5%, không nên quá
10%. Với hàm lượng lipid trong thức ăn >10% sẽ dẫn đến giảm tốc độ sinh
trưởng, tăng tỷ lệ tử vong, có thể do nguyên nhân mất thăng bằng và thiếu
dinh dưỡng (Akiyama, 1992).
1.1.6.3. Carbohydrate
Hydratcabon cùng với chất béo tạo ra nguồn năng lượng cho tôm. Nó
cịn có vai trị quan trọng trong việc dự trữ năng lượng tổng hợp kitin, steroid
và chất béo.
Chất xơ được chia làm hai nhóm: Các chất xơ dẻo và các chất polysaccarit
tan trong nước như celluloze. Thức ăn có nhiều celluloze trong thức ăn tơm thì
khả năng tiêu hóa chất khô tổng số giảm. Họ cũng xác định rằng hàm lượng
celluloze khơng ảnh hưởng tới khả năng tiêu hóa của protein của P.Vannamei
nhưng ảnh hưởng tới khả năng tiêu hóa Protein của P.aztecus (theo Shiau, 1997).
1.1.6.4. Vitamin
Nhu cầu về vitamin thực tế cho từng lồi tơm, cho từng giai đoạn vẫn
chưa được biết nhiều. Vì thế lượng thức ăn thường vượt quá nhu cầu thực tế
của tôm nhằm bù đắp lượng mất đi do hòa tan vào nước, do phân hủy trong
quá trình sản xuất thức ăn và bảo quản. Hơn nữa lượng vitamin trong các
thành phần nguyên liệu rất biến đổi, nếu phân tích từng thành phần hoặc từng
nhóm thành phần sẽ rất tốn kém. Vì vậy cách đơn giản hơn là bổ sung quá
mức lượng vitamin.
1.1.6.5. Chất khoáng
Chất khống là yếu tố tạo hình (đặc biệt là vỏ) giúp tôm tăng sức đề
kháng đối với sự biến động của môi trường và sự nhiễm trùng [13]. Giống
như các động vật thủy sản khác, tơm có thể hấp thu và bài tiết chất khống
trực tiếp từ mơi trường vào nước thơng qua mang và bề mặt cơ thể. Vì vậy
11
nhu cầu khống ở tơm phụ thuộc nhiều vào hàm lượng chất khống có trong
mơi trường tơm đang sống [16].
1.2. Tình hình ni và nghiên cứu sản xuất tơm he chân trắng Penaeus
vannamei trên thế giới và Việt Nam
- Trên thế giới:
Năm 1933, tại hội nghị khoa học ở Mexico về sinh học và ni tơm
Fujinaga
đã cơng bố cơng trình nghiên cứu về sản xuất nhân tạo P.
Japonicus. Do thiếu hiểu biết ban đầu về đặc điểm dinh dưỡng của ấu trùng
tôm nên chỉ tồn tại được ở giai đoạn Z, chỉ có khoảng 10% chuyển sang giai
đoạn M.
Năm 1942, ông đã khám phá ra tảo silic Skeletonema costatum,
chaetoceros làm thức ăn rất tốt cho ấu trùng ở giai đoạn Z đã nâng cao tỷ lệ
sống của ấu trùng ở giai đoạn này lên đến 30%. Đến năm 1946, ông đã
nghiên cứu và tìm ra ấu trùng N của Artemia làm thức ăn rất tốt cho giai đoạn
M và hoàn thiện quy trình sản xuất giống và ương ni ấu trùng tôm he Nhật
Bản. Đây là cơ sở, nền tảng cho các cơng trình nghiên cứu và ứng dụng ni
tơm ngày nay.[22]
Năm 1963, nhà nghiên cứu Hary Cook (người Mỹ) cùng với sự cộng tác
của Fujinaga đã cho đẻ và ương nuôi thành công các đối tượng P.Setiferat và
P.Ortecus đồng thời xây dựng thành cơng quy trình bể nhỏ ở Mỹ. Kể từ đó
được cải tiến và nhân rộng ở các nước khác như Philippin, Đài Loan, Thái
Lan... Cũng từ đây trên thế giới đã nghiên cứu và sản xuất thành cơng nhiều
đối tượng khác nhau (gần 20 lồi thuộc giống Penaeus và 7 loài thuộc giống
Metapenaeus như P.Monodon, P.Semiculcatus, P.Merguiensis, P.orientalis,
M.ensis).
Những năm 1990, dịch bệnh hội chứng đốm trắng lan rộng trên toàn cầu
khiến người ta phải xem xét lại các biện pháp vệ sinh và an toàn sinh học.
12
Đúng lúc đó, Tổ chức Ni tơm biển Mỹ đã phát triển dịng tơm chân trắng
(Litopenaeus vannamei) sạch bệnh và giới thiệu đến châu Á. Tôm chân trắng
sạch bệnh nuôi trong ao đã được khử trùng liên tục cho năng suất cao. Nơng
dân nhanh chóng chuyển từ tơm sú tự nhiên mang nhiều bệnh sang nuôi tôm
chân trắng sạch bệnh.[22]
Với những ưu điểm vượt trội thì sản lượng tơm he chân trắng ngày càng
chiếm vị trí hàng đầu trong ni và xuất khẩu tôm trên thế giới. THCT
(P.vannamei) được nuôi nhiều nhất ở châu Mỹ La Tinh. Số lượng trại sản
xuất tôm giống đứng đầu trên thế giới, với hơn 3500 trại. Từ những năm 70
- 80 của thế kỷ trước THCT được ni ở Hawaii, phía Nam Carolia Taxas và
phía Nam Brazil.
Trong suốt 20-25 năm qua THCT trở thành đối tượng ni chính ở Châu
Mỹ La Tinh, Bắc và Trung Mỹ từ Mỹ đến Brazil.
Trên thế giới, sản lượng THCT đứng thứ 2 sau tôm Sú nhưng ở Châu Mỹ
sản lượng THCT đứng đầu. Ecuado coi THCT là ngành sản xuất lớn, sản
lượng tôm nuôi chiếm 95% tổng sản lượng của khu vực Châu Mỹ. Một số
nước như: Mexico, Panama, Peru…cũng có tình hình ni tương tự Ecuado.
Sau khi nhiều nước Châu Mỹ ni thành cơng và có hiệu quả cao, THCT
được di giống sang Hawaii. Từ đây THCT lan sang các nước Châu Á, Đông
Nam Á..[18]
Nhiều nước Đông Nam Á đã nhập THCT về nuôi như Philipin,
Malaixia, Thái Lan, Việt Nam…với hi vọng đa dạng hóa các sản phẩm tơm
XK để nhằm tránh tình trạng chỉ trơng cậy phần lớn vào tôm Sú hiện nay.
Năm 1994 ở các nước ASEAN có khoảng 3.700 trại tơm giống, mỗi năm cần
có ít nhất 96.000 tơm đẻ trứng để cung cấp cho các trại giống này sản xuất ra
trên 54 tỷ ấu trùng tôm cung cấp cho thị trường nuôi tôm thịt.[18]
13
Năm 2003, sản lượng nuôi tôm của châu Á đạt 1,35 triệu tấn, tăng 11%
so với sản lượng năm 2002 và tăng 15% so với sản lượng năm 2001. Riêng
Trung Quốc đạt 390.000 tấn, tăng 15% sản lượng năm 2000. Tiếp đến là Thái
Lan đạt 280.000 tấn, giảm 9% sản lượng năm 2000. Sản lượng tôm của
Indonesia tăng và đạt 160.000 tấn. Sản lượng tôm của Ấn Độ năm 2003 có thể
đạt 150.000 tấn. Thực tế, năm 2003 các nước châu Á dẫn đầu về sản lượng
nuôi tôm trên thế giới, chiếm khoảng 86% sản lượng tôm trên thế giới. Riêng
tôm he chân trắng chiếm 42% sản lượng tương đương với tôm Sú.[18]
Theo FAO năm 2006, tổng sản lượng tôm he chân trắng năm 2006 đạt
2,13 triệu tấn tăng 15 lần so với năm 2000. Tôm he chân trắng chiếm 31%
tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng trên thế giới.
Hiện nay, lồi tơm này đã được du nhập qua nhiều quốc gia trên thế giới
và đã tiến hành sản xuất giống, nuôi thương phẩm, kết quả thu được rất khả
quan.
- Tại Việt Nam:
Trước sự phát triển mạnh mẽ của THCT ở các nước khác trên thế giới
thì ở Việt Nam những năm gần đây, diện tích ni tơm thẻ chân trắng cũng
phát triển khá mạnh, đặc biệt ở miền Trung. Tuy nhiên, nguồn tôm bố mẹ sử
dụng cho sản xuất giống THCT ở VN chủ yếu nhập từ Thái Lan, Trung Quốc
và Malaysia (khoảng 80%), cịn lượng tơm giống nhập từ Hawaii (Mỹ) chỉ
chiếm khoảng 20%. Do không chủ động nguồn giống, khơng kiểm sốt được
đầu vào nên chất lượng con giống đang là thách thức chính cho cơng nghệ
ni THCT ở VN.
Từ năm 1996 - 1997 đã có dự án xin nhập giống THCT về nuôi tại Bạc
Liêu, nhưng mãi đến năm 2001 - 2002 Bộ Thủy sản (cũ) mới cho 3 doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là Công ty Duyên Hải (Bạc Liêu), Công ty Việt
14
Mỹ (Quảng Ninh) và Công ty Asia Hawaii (Phú Yên) được nhập con giống để
nuôi thử.[15]
THCT được di nhập vào VN năm 2001 từ nhiều quốc gia, vùng lãnh
thổ khác nhau như: Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan... Từ đó đến nay,
nghề ni THCT tại VN phát triển mạnh mẽ và chiếm lĩnh một phần không
nhỏ thị trường xuất khẩu. Theo Vụ Nuôi trồng thủy sản, trước năm 2005, diện
tích ni THCT của VN khơng đáng kể; đến năm 2010, diện tích ni THCT
đã lên đến 21.000 ha, tăng 30% so với năm trước. THCT đã trở thành đối
tượng ni phổ biến tại các tỉnh miền Trung, trong đó có Khánh Hịa.[15]
Quy trình ni vỗ tơm bố mẹ và cho sinh sản nhân tạo, nghiên cứu sản xuất
THCT bố mẹ chất lượng và sạch bệnh có nguồn gốc từ Hawaii phục vụ sản
xuất giống nhân tạo, ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất giống THCT sạch
bệnh. Tuy nhiên, trong lĩnh vực di truyền chọn tạo đàn THCT bố mẹ chất
lượng cao, khả năng kháng bệnh tốt trong điều kiện ni ở VN thì chưa có
một cơng trình nghiên cứu nào thực hiện thành cơng.[15]
Năm 2008, Tập đồn chăn nuôi C.P. Thái Lan – CPF - đã cho ra thế hệ
tôm chân trắng CPF - Turbo. CPF - Turbo là dịng bố mẹ mới, có sức đề
kháng tốt với virus Taura, đặc biệt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn giống tôm
thẻ chân trắng thời kỳ trước đến 45%, tỷ lệ sống trong trại giống cũng lớn hơn
60% và khi thả xuống ao đất tỷ lệ sống đạt hơn 80%. Giống tơm này được
ni thương phẩm ở Khánh Hịa năm 2008, năng suất trên 19 tấn/ha.[14]
Đến 12/2011, cả nước có 1.848 trại sản xuất giống tôm sú và 2.566 trại
sản xuất giống THCT. So với năm 2010, số cơ sở sản xuất giống tôm nước lợ
giảm đáng kể (bằng 76%), nhưng sản lượng đạt hơn 50,5 tỷ con (bằng 113%
năm 2010 và vượt 5% kế hoạch năm).[19]
Với diện tích ni thả như hiện nay, mỗi năm VN cần khoảng 20 - 25 tỷ
con giống, năm 2012 nhu cầu con giống lên tới khoảng 50 tỷ con. Như vậy,
15
nguồn tôm giống sản xuất tại VN mới chỉ đáp ứng được rất ít so với nhu cầu
thực tế. Mặt khác, hiện nay, tôm giống chất lượng cao, sạch bệnh được sản
xuất theo đúng quy trình và quy định cịn quá ít, chỉ chiếm khoảng 10 - 15%
so với lượng tơm giống sản xuất trên thị trường.[15]
Diện tích thả THCT tăng nhanh dẫn đến giá giống THCT cũng leo
thang theo, thậm chí cao hơn giá giống tơm sú. Năm 2011, giống THCT chỉ
có giá 40-45đồng/con trong khi giống tơm sú có giá 60-65đồng/con. Bước
vào vụ tơm chính vụ năm 2012 này, giá giống THCT tăng vọt lên gấp 2-3 lần
và hiện đang ở mức 75-90đồng/con( riêng giống THCT của công ty CP có giá
120đồng/con) cao hơn so với giá tơm sú giống [20]
Ở Việt Nam hiện nay, các cở sở sản xuất tôm giống trải dài từ Bắc vào
Nam nhưng trong đó có một số tỉnh thành đóng góp phần lớn lượng tơm
giống cho cả nước như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Cà Mau, Bạc
Liêu. Tuy nhiên, hiện còn khá nhiều bất cập trong việc sản xuất tôm giống
chất lượng cao và sạch bệnh.
Hiện nay, Người nuôi tôm đang phải đối mặt với nhiều thách thức như
dịch bệnh, nguồn giống hạn chế và chi phí tăng. Vấn đề nổi bật đólà dịch
bệnh đang bùng phát đã gây thiệt hại rất lớn cho người ni. Ngồi yếu tố
khách quan như: khí hậu, thời tiết mơi trường khơng thuận lợi thì việc thả
nuôi sớm không đúng thời vụ, mật độ thả dày, chất lượng tơm giống khơng
đảm bảo…làm cho tình hình dịch bệnh khó kiểm sốt hơn.
Với tốc độ phát triển hiện nay, nếu các hạn chế được quan tâm khắc
phục nhanh, đặc biệt là vấn đề tạo nguồn giống THCT tại chỗ, thích hợp với
điều kiện mơi trường, sinh thái của Việt Nam, THCT hồn tồn có cơ hội
đuổi kịp và sánh vai cùng tôm sú, tạo nên cỗ xe “song tôm” làm đầu tàu
cho XK thủy sản của Việt Nam trong 3-4 năm tới.
16
1.3. Tình hình nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến thời gian
biến thái và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm he chân trắng
Nuôi vi tảo làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản đã được phát triển từ
lâu đời. Người đầu tiên tiến hành nuôi tảo là phamintsin 1871.Ơng đã tiến
hành ni tảo lục protococales. Năm 1942, tiến sỹ Fujinaga người Nhật Bản
với việc khám phá ra tảo silic Skeletonema costatum, Chaetoceros sp. làm
thức ăn rất tốt cho ấu trùng ở giai đoạn Z đã nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng
ở giai đoạn này lên đến 30%. Từ đó nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên
các đối tượng khác nhau: Penaeus monodon, Penaeus merguiensis, Penaeus
indicus, Penaeus vannamei, . . . .các quy trình nước xanh lớn, quy trình
Gevaston dần được hồn thiện và được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất.
Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu ni vi tảo biển làm thức ăn cho
các động vật thủy sản mới chỉ được tiến hành gần đây cùng với sự phát triển
của nghề ni biển, mục đích cung cấp nguồn thức ăn cho nhu cầu sản xuất
con giống của một số đối tượng như: Tôm Sú, Tôm Bạc, Điệp Quạt, Bào
Ngư, Trai Ngọc, Cá Ngựa, Ốc Hương…
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian biến thái và tỷ lệ sống
của ấu trùng tôm giai đoạn Zoea lên mysis, đặc biệt là ở giai đoạn Zoea. Vì ở
giai đoạn này ấu trùng mới tập làm quen với thức ăn bên ngoài nên chúng rất
nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường. Hiện nay, các lồi tảo sử dụng chủ
yếu để ni ấu trùng là
Skeletonema costatum, Chaetoceros sp.,
Thalassiosira sp. hoặc các loài tảo lục.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong vi tảo rất cao
17
Bảng 1.2. Giá trị dinh dưỡng của tảo .[23]
Thành phần amino acid tương tự protein
Protein
30 ÷ 55%
Hydratecacbon
10 ÷ 30%
Lipid
10 ÷ 25%
Khống
10 ÷ 40%
Phospho, canxi, natri, silic (tảo kh)
Acid nucleic
4 ÷ 6%
RNA:DNA = 3:1
của trứng gà (albumin)
Chủ yếu là các polysaccharide,
Các acid béo 20 ÷ 40% lipid tổng số,
phospholipid: 10% lipid tổng số
Từ năm 2001 đến nay, Các công ty sản xuất tôm giống ở Việt Nam sử
dụng chủ yếu hai loại tảo làm thức ăn ương ni ấu trùng đó là Thalassiosira
sp. và chaetoceros sp. cho tỷ lệ sống cao.
Tảo Thalassiosira weissflogii là một loài vi tảo thuộc tảo Nâu, tảo có
hình hộp, có kích thước tế bào từ 6 - 20μm x 8 - 15μm, mặt vỏ hình chữ nhật
và có đường kính đài hơn trục vỏ tế bào, đai vỏ khơng đều, mép đai có 2 – 28
mấu nhỏ, một mẫu có dạng hình mơi để liên kết với tế bào bên cạnh. Tế bào
có một nhân, hình cầu.Thể sắc tố của tảo hình hạt, nhiều và nhỏ thường được
nuôi và làm thức ăn cho ấu trùng tôm.[23]
Tảo Chaetoceros sp. là một loài vi tảo thuộc tảo Silic được nhập từ Úc,
đang được sử dụng cho nhiều đối tượng thủy sản nuôi nước mặn như tôm,
cua, động vật thân mềm.
Đây là loài tảo làm thức ăn tiên quyết cho ấu trùng tôm giai đoạn Zoea
đến giai đoạn Postlarvae ( Fujinaga). Kích thước tảo từ 3 - 15μm phù hợp với
kích cỡ miệng của ấu trùng tơm. Thành phần của vi tảo bao gồm: Protein,
carbonhydrate, lipid và các chất khoáng. Những thành phần này tạo nên 90 95% trọng lượng khơ của vi tảo. Phần cịn lại là các acid nucleic chiếm 5 10%. Trong đó, hàm lượng proptein chiếm khoảng 33% (Brown và CTV,
18
1989) quyết định giá trị dinh dưỡng của vi tảo, hàm lượng acid béo không no
mạch đơn chiếm 2 - 40% và acid béo không no mạch dài (PUFA) chiếm 20 59% (L.V.Thịnh, 1999). Acid béo có vai trị rất quan trọng đối với ấu trùng
giáp xác, động vật thân mềm, cá biển,… Ngồi ra, tảo Chaetoceros sp. cịn
chứa thành phần Omega 3 (EPA và DHA) không thể thiếu cho ấu trùng
Nauplius.
Do đó tùy đối tượng ni và giai đoạn ni cụ thể để lựa chọn lồi tảo
ni phù hợp. Tốc độ tăng trưởng của các động vật cho ăn bằng hỗn hợp các
loài tảo khác nhau thường cao hơn các động vật chỉ cho ăn một loài tảo. Một
loài tảo cá biệt có thể thiếu một chất dinh dưỡng, trong khi lồi tảo khác có
thể chứa chất dinh dưỡng đó và thiếu chất dinh dưỡng khác.
Trong q trình phát triển của lĩnh vực sản xuất tôm giống người ta đã
chế biến ra nhiều loại thức ăn nhân tạo để thay thế một phần tảo. Ngoài các
loài tảo trong sản xuất tơm giống cịn sử dụng Artemia như là một nguồn thức
ăn tự nhiên đặc biệt quan trọng. Vì Artemia là lồi có kích thước phù hợp,
hàm lượng HUFA cao rất quan trọng trong việc phát triển ban đầu hệ thần
kinh của tơm, nó là tiền thân của nhiều hợp chất sinh học, hàm lượng acid béo
mạch cao nối đôi có trong Artemia sinh khối đóng vai trị quan trọng trong
q trình ương ni ấu trùng tơm[8].
Theo Nguyễn Hải Âu (2004), cho thấy ở giai đoạn Zoea dùng thức ăn là
tảo tươi, tảo khô kết hợp với thức ăn tổng hợp cho tỷ lệ sống cao 80 - 93 %.
Theo kết quả nghiên cứu của Hồ Hữu Danh (2006), khi ương ấu trùng Zoea
với sự kết hợp các loại thức ăn như trên cho tỷ lệ sống đạt từ 65 -90 %.
19
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, vật liệu, thời gian và địa điểm nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Ấu trùng tôm He chân trắng (Penaeus
vannamei, Boone 1931) giai đoạn Zoea, Mysis
* Vật liệu nghiên cứu
- Các loại thức ăn:
+ Thức ăn tươi sống: Tảo Chaetoceros sp., Thalassiosira welssflogii,
Artemia.
+ Tảo khô: Spirulina
+ Thức ăn tổng hợp (TĂTH): TNT2.
- Các chế phẩm sinh học, hóa chất sử dụng trong ương nuôi ấu trùng
tôm: C-Mix, Soludine 50%, formol…
- Hệ thống bể lọc nước, bể ương nuôi ấu trùng (4m3 ) và các thiết bị phụ
trợ khác phục vụ cho q trình ương ni ấu trùng.
- Các trang thiết bị, dụng cụ xác định các yếu tố môi trường như: khúc
xạ kế, test đo môi trường: độ kiềm, pH, máy đo độ mặn, nhiệt kế đo nhiệt
độ….
* Thời gian nghiên cứu: 02/2012 – 04/2012
* Địa điểm nghiên cứu: công ty cổ phần chăn nuôi CP. Việt Nam - xã
An Hải- Ninh Phước- Ninh Thuận
2.2. Nội dung của đề tài
- Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn tảo Thalassiosira welssflogii lên
thời gian biến thái và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn tảo Chaetoceros sp. lên thời gian
biến thái và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm.
20
- Nghiên cứu ảnh hưởng của sự kết hợp 2 loài tảo lên thời gian biến
thái và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Kiểu bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp
ngẫu nhiên hồn tồn một nhân tố trong 9 bể gồm 3 công thức, mỗi công thức
lặp lại 3 lần
+ Công thức 1 (CT1): Tảo Chaetoceros sp. + tảo khô + artemia +
TĂTH
+ Công thức 2 (CT2): Tảo Thalassiosira weifloggii + tảo khô +
artemia + TĂTH
+ Công thức 3 (CT3): Tảo Chaetoceros sp. + tảo Thalassiosira
weifloggii + tảo khô + artemia + TĂTH
(cho ăn tảo Chaetoceros sp. từ giai đoạn Zoea 1 đến Zoea 3, sau đó cho
ăn tảo Thalassiosira weifloggii)
- Điều kiện phi thí nghiệm: Nhiệt độ: 28 - 32oC, độ mặn: 29 - 31‰,
pH: 7,5 - 8,5 đồng nhất giữa các lơ thí nghiệm.
21
Sơ đồ khối nghiên cứu
Tên đề tài
Mục tiêu của
đề tài
So sánh ảnh hưởng của các công thức thức
ăn đến thời gian biến thái và tỷ lệ sống của
ấu trùng tôm he chân trắng (Penaeus
vannamei) từ Zoea 1 đến Postlsrvae 1
CT1
Bể 1
Bể 2
CT3
CT2
Bể3
Bể 4
Bể 5
Bể 6
- Theo dõi diễn biến của một số
yếu tố môi trường.
- Xác định thời gian biến thái .
- Xác định tỷ lệ sống của tôm he
chân trắng
Kết quả nghiên cứu
Kết luận
và kiến nghị
22
Bể 7
Bể 8
Bể 9