Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.58 KB, 35 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC Trang. PHẦN A. MỞ ĐẦU...................................................................................................... 3 I. Đặt vấn đề................................................................................................................ 3 1. Thực trạng của vấn đề.........................................................................................3 1.1 Đối với chương trình sách giáo khoa.............................................................3 1.2 Đối với học sinh.............................................................................................4 1.3 Đối với giáo viên...........................................................................................4 2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới...............................................................4 2.1 Ý nghĩa.......................................................................................................... 4 2.2 Tác dụng của giải pháp mới...........................................................................5 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.............................................................................5 II. Phương pháp tiến hành...........................................................................................5 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn.....................................................................................5 1.1. Cơ sở lí luận..................................................................................................5 1.2 Cơ sở thực tiễn...............................................................................................6 2. Các biện pháp và thời gian tiến hành..................................................................7 2.1 Các biện pháp tiến hành.................................................................................7 2.2 Thời gian nghiên cứu đề tài...........................................................................7 PHẦN B. NỘI DUNG...................................................................................................8 I. Mục tiêu................................................................................................................... 8 II. Mô tả giải pháp của đề tài......................................................................................8 1.Tính mới của đề tài...............................................................................................8 1.1 Nội dung khái quát của đề tài........................................................................8 1.2 Nội dung của đề tài được thể hiện cụ thể như sau.........................................8 1.3 Cách tiến hành một bài dạy Tập làm văn trả bài viết.....................................8 1.4 Phương pháp giúp cho học sinh lớp 5 học tốt môn Tập làm văn thông qua tiết trả bài viết...................................................................................................... 9 1.4.1 Hướng dẫn học sinh về cấu tạo của một bài văn....................................9 1.4.1.1 Cấu tạo của bài văn tả cảnh..............................................................9 1.4.1.2 Cấu tạo của bài văn tả người.............................................................9 1.4.1.3 Cấu tạo của bài văn kể chuyện.......................................................10 1.4.1.4 Cấu tạo của bài văn tả đồ vật.........................................................10 1.4.1.5 Cấu tạo của bài văn tả cây cối........................................................10 1.4.1.6 Cấu tạo của bài văn tả con vật.......................................................11 1.4.2 Những biện pháp giúp giáo viên dạy tốt tiết Tập làm văn trả bài viết...11 1.4.2.1 Chấm bài.........................................................................................11 1.4.2.2 Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh.......................................12 1.4.2.3 Hướng dẫn học sinh chữa bài.........................................................12 1.4.3. Các biện pháp hướng dẫn học sinh chữa lỗi trong bài văn...................13 1.4.3.1. Phát hiện lỗi và sửa lỗi...................................................................13 1.4.3.1.1. Sửa lỗi dùng từ........................................................................13 1.4.3.1.2 Sửa chữa lỗi diễn đạt................................................................17.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> 1.4.3.1.3. Sửa lỗi sử dụng dấu câu..........................................................18 1.4.3.2 Đọc đoạn văn hay cho học sinh tham khảo.....................................20 1.4.3.3 Hướng dẫn học sinh viết lại đoạn văn cho hay hơn........................21 1.4.3.4 Sử dụng phiếu bài tập trong tiết trả bài...........................................22 2. Khả năng áp dụng..............................................................................................23 2.1 Dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng...........................................................23 2.2 Khả năng thay thế giải pháp hiện có............................................................24 2.3 Khả năng áp dụng........................................................................................25 3. Lợi ích kinh tế xã hội........................................................................................25 3.1 Lợi ích của việc áp dụng đề tài đến quá trình giáo dục, công tác................25 3.1.1 Lợi ích của việc áp dụng đề tài đến quá trình giáo dục.........................25 3.1.2 Lợi ích của việc áp dụng đề tài đến quá trình công tác.........................26 3.2 Tính năng kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả sử dụng.......................................26 3.2.1 Tính năng kỹ thuật.................................................................................26 3.2.2 Chất lượng của đề tài............................................................................26 3.2.3 Hiệu quả sử dụng...................................................................................26 3.3 Tác động tích cực của đề tài........................................................................27 3.3.1 Tác động xã hội tích cực của đề tài......................................................27 3.3.2 Tác động tích cực của đề tài đến việc cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện lao động..........................................................................................27 PHẦN C. KẾT LUẬN...............................................................................................28 1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp................................28 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp...........................28 3. Đề xuất................................................................................................................ 29.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Đề tài : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA TIẾT TRẢ BÀI VIẾT Tác giả: Trần Thị Minh Tâm PHẦN A. MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề 1. Thực trạng của vấn đề Tiếng Việt là một trong số các ngôn ngữ hết sức phong phú, đa dạng và có sức biểu cảm. Từ ngữ Tiếng Việt tinh tế và giàu hình ảnh, nếu biết cách sử dụng từ ngữ trong viết văn sẽ giúp chúng ta truyền đạt đến người đọc những nội dung, thông tin một cách có hiệu quả nhất. Chính vì vậy, việc rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt đối với mỗi chúng ta là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao. Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là một môn học có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ, rèn cho các em sử dụng Tiếng Việt trong nghe, nói, đọc, viết. Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng của môn Tiếng Việt, thông qua phân môn Tập làm văn, học sinh được rèn về khả năng dùng từ, đặt câu một cách chính xác, độc đáo để từ đó giúp các em có thể viết được bài văn hay, giàu tính nghệ thuật. Song song với các tiết Tập làm văn luyện nói, luyện viết thì tiết Tập làm văn trả bài viết có một vị trí quan trọng. Giờ trả bài viết có mục đích rèn cho học sinh kĩ năng kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết của mình. Chính vì vậy, giáo viên cần giúp học sinh biết tự sửa lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu … để lần sau các em viết văn mạch lạc, giàu hình ảnh, có cảm xúc chân thật. Tuy quan trọng như vậy nhưng khi dạy tiết Tập làm văn trả bài viết cho học sinh còn có những thực trạng khó khăn như sau : 1.1 Đối với chương trình sách giáo khoa Đối với lớp 5, phân môn tập làm văn chiếm thời lượng 2 tiết/tuần nhưng thời lượng cho các tiết trả bài viết rất ít. Học sinh được học 3 tiết trả bài văn tả cảnh, 3 tiết trả bài văn tả người, 1 tiết trả bài văn kể chuyện, 1 tiết trả bài văn tả đồ vật, 1 tiết trả bài văn tả cây cối, 1 tiết trả bài văn tả con vật. Như vậy trong cả năm học, học sinh được chọn trả bài viết 10 tiết với từng bộ đề cụ thể dưới nhiều hình thức chữa lỗi như: lỗi về chính tả, lỗi dùng từ, lỗi về câu, lỗi dùng dấu câu, lỗi đoạn văn … Điều này làm cho học sinh gặp khó khăn trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn, thậm chí có em làm văn chưa theo bố cục 3 phần mà các em chỉ viết theo cảm tính của mình. Lí thuyết trong sách giáo khoa còn chung chung, chưa cụ thể nên việc rèn cho học sinh các kĩ năng tự sửa lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu … ít hiệu quả..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 1.2 Đối với học sinh - Đa số học sinh nắm được cấu tạo của bài văn nhưng vốn từ ngữ của các em còn rất hạn chế, chưa vận dụng tốt khi viết bài cho nên cách viết của các em còn lủng củng. - Phần lớn học sinh sau khi đọc tham khảo các bài văn mẫu, các bài văn hay các em không chỉ ra được cái hay, cái tinh tế của bài văn để học tập và vận dụng. - Có rất nhiều sách Tập làm văn cho học sinh tham khảo, điều này dẫn đến các em lười suy nghĩ mà chỉ chép nguyên văn mẫu, làm hạn chế khả năng tư duy của các em. - Học sinh dùng từ, viết câu, diễn đạt chưa phù hợp, chưa biết sắp xếp ý một cách logic và cũng không biết lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh hay để sử dụng một cách hợp lí và sinh động. 1.3 Đối với giáo viên Để nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn, người giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp giảng dạy tốt nhất để học sinh dễ tiếp thu. Thực tế tôi nhận thấy thực trạng về giáo viên như sau: - Một số giáo viên ít chịu khó tìm tòi, tham khảo các tài liệu để bồi dưỡng thêm cho kiến thức chuyên môn của mình mà chỉ phụ thuộc vào những kiến thức trong sách giáo khoa. - Giáo viên chấm bài thiếu tỉ mỉ, chưa chu đáo, ít chú ý đến việc hướng dẫn học sinh chữa lỗi, học cách viết văn hay … mà chỉ dạy chung chung, áp đặt học sinh và chưa thực sự quan tâm đặc biệt đến giờ Tập làm văn trả bài viết. - Thực tế qua khảo sát các giờ Tập làm văn trả bài viết, hầu như các giáo viên ít đầu tư thời gian ghi lại những từ hay, ý đẹp hoặc những lỗi sai của học sinh về mọi phương diện vào sổ tay văn học của mình. Chính vì thế giáo viên không sửa được các lỗi của học sinh. - Trong giờ Tập làm văn trả bài viết, hầu hết giáo viên chưa khai thác hết yêu cầu của giờ học. Có giờ nặng về nêu ưu điểm nên học sinh chưa thấy hết cái sai của mình và lần sau lại mắc lỗi. Có giờ nặng về nêu khuyết điểm nhưng lại rất chung chung, gây không khí thiếu tích cực trong giờ học và quả nhiên giáo viên làm việc nhiều còn học sinh thụ động tiếp thu. Điều đó làm cho kết quả đạt được của giờ trả bài viết rất hạn chế. 2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới 2.1 Ý nghĩa Giải pháp mới của đề tài phát huy tối đa tính tích cực của học sinh. Các em sẽ tự phát hiện những khiếm khuyết trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa lỗi về.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> chính tả, dùng từ, đặt câu, viết đoạn … để lần sau các em viết văn mạch lạc, giàu hình ảnh, có cảm xúc chân thật. Đề tài còn bồi dưỡng cho học sinh tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc, phát triển kĩ năng làm văn, góp phần hình thành cho các em ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng đối với sản phẩm tinh thần do chính mình tạo ra. 2.2 Tác dụng của giải pháp mới Đề tài sẽ giúp cho học sinh nắm vững cách viết văn thông qua việc sửa lỗi về chính tả, cách dùng từ, đặt câu, lỗi diễn đạt … Rèn luyện cho các em cách viết văn hay, giàu hình ảnh, mang tính nghệ thuật, tính sáng tạo. Bên cạnh đó đề tài còn giúp các em nhận ra một bài văn có điểm nào hay, điểm nào chưa hay và sửa như thế nào cho phù hợp để mang lại hiệu quả cao. Điều này rất cần thiết cho các em ở mọi bậc học. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài được nghiên cứu ở Trường Tiểu học Mỹ An, chủ yếu trong nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 5 nhằm giúp cho học sinh lớp 5 có kĩ năng làm văn hay, biết cách dùng từ và đặt câu, vận dụng các biện pháp tu từ để diễn đạt ý tưởng một cách chính xác có logic. Đề tài giúp cho học sinh có thể thực hành tự phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài làm của mình ở mức tốt nhất. II. Phương pháp tiến hành 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1.1 Cơ sở lí luận Tiếng Việt là một trong số các ngôn ngữ rất phong phú, đa dạng và có sức biểu cảm. Nếu biết cách sử dụng tốt từ ngữ trong viết văn sẽ giúp ta truyền đạt đến người đọc những nội dung, thông tin một cách có hiệu quả nhất. Tập làm văn là phân môn sử dụng các kiến thức và kĩ năng mà các phân môn của môn Tiếng Việt khác như: Kể chuyện, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu …để hình thành một cách tổng hợp và hoàn thiện. Như vậy, phân môn Tập làm văn đã thực hện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng được tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học tập. Cùng với sự phát triển vượt bậc của xã hội, giáo dục phát triển như một tất yếu. Các em sẽ từng bước được đón nhận kho tàng văn minh của nhân loại. Như vậy quá trình giáo dục được thực hiện mọi lúc, mọi nơi, ở tất cả các môn học. Trong quá trình phát triển của trẻ, giao tiếp là một kĩ năng rất cần thiết đối với trẻ. Chính vì vậy, việc giúp học sinh rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết văn chính xác và độc đáo là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu học sinh được rèn luyện các kĩ năng này thì các em sẽ dễ dàng nhận thấy cái hay, cái đẹp chứa đựng trong các yếu tố.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> ngôn ngữ. Từ đó học sinh sẽ biết cách dùng từ, đặt câu, chọn ý sao cho đúng và hay để miêu tả hình ảnh, sự vật một cách sinh động. Chính vì vậy, việc giúp học sinh rèn kĩ năng làm văn, kĩ năng tự sửa lỗi là một vấn đề hết sức quan trọng, cần thiết. 1.2 Cơ sở thực tiễn Trong giảng dạy, việc nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn trả bài viết cho học sinh lớp 5 không phải là một vấn đề đơn giản. Các em chưa có ý thức học tập tốt phân môn này. Học sinh chỉ làm bài theo yêu cầu của bài tập, viết một cách máy móc mà chưa hiểu rõ bản chất của vấn đề, chưa nắm được cấu tạo của bài văn theo từng thể loại, các em mắc quá nhiều lỗi khi viết văn, thậm chí có em làm chưa đúng với yêu cầu của đề bài. Điều này thể hiện rõ qua các bài kiểm tra viết và kiểm tra định kì của học sinh. Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy rằng một số ít giáo viên chưa chú tâm nhiều đến tiết Tập làm văn trả bài viết, giảng dạy chung chung. Đã thế tiết trả bài viết trong sách giáo khoa không được hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho từng đề. Vì vậy, giáo viên cũng rất khó khăn trong bài dạy của mình. Từ những lí do khách quan và chủ quan trên, thông qua việc học tập và giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5 thông qua tiết trả bài viết” để nghiên cứu sâu hơn nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp nhất, vận dụng tốt nhất cho quá trình giảng dạy. Khi dạy phân môn Tập làm văn, tôi đã ra đề “Hãy tả ngôi trường thân yêu đã gắn bó với em trong nhiều năm qua.” để khảo sát học sinh lớp 5A năm học 2011-2012. Số học sinh được khảo sát (32 em) đã phản ánh thực trạng này như sau: Giỏi SL 3. Khá % 9,37. SL 9. % 28,1. Trung bình SL % 16 50,0. Yếu SL 4. % 12,5. * Về nội dung bài Tập làm văn - Khoảng 20 % học sinh viết văn có bố cục rõ ràng, bài viết cô đọng xúc tích. - Khoảng 70 % học sinh thực hiện được yêu cầu của đề nhưng diễn đạt ý còn chưa rõ ràng, thiếu lôgic. - 10 % học sinh sao chép nguyên bản bài của bạn hoặc văn mẫu. Thậm chí có em bài viết còn khô khan, rời rạc, lủng củng, vay mượn. * Về kĩ năng: - Các em dùng dấu câu chưa chính xác, thậm chí có bài không dùng dấu câu nào. - Bài viết mắc lỗi chính tả, đặc biệt là lỗi chính tả thông thường, bên cạnh những lỗi chính tả vốn có của địa phương ..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Dùng từ, đặt câu, liên kết câu, đoạn chưa đạt. Diễn đạt câu còn lủng củng chưa có lôgic. Bài văn ít sáng tạo. Kết quả khảo sát trên cho thấy chúng ta cần quan tâm nhiều hơn nhằm nâng cao chất lượng Tiết tập làm văn trả bài viết cho học sinh nói riêng và chất lượng phân môn Tập làm văn nói chung. 2. Các biện pháp và thời gian tiến hành 2.1 Các biện pháp tiến hành Khi nghiên cứu đề tài tôi đã tiến hành song song nhiều biện pháp từ nghiên cứu thực trạng trên lớp mình dạy học đến việc tìm tòi suy nghĩ để tìm ra cách giảng dạy tốt nhất. Tôi đã sử dụng nhiều phương pháp như sau: - Phương pháp nghiên cứu lí luận (đọc tài liệu). - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp phân tích, thực hành. - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. 2.2 Thời gian nghiên cứu đề tài - Đọc và nghiên cứu tài liệu, điều tra thực tế bắt đầu từ tháng 9 năm 2010. - Dạy thực nghiệm trên lớp từ năm học 2011-2012. - Viết bản nháp cho đề tài từ tháng 6 năm 2012. - Hoàn thành đề tài vào cuối tháng 8 năm 2013.. PHẦN B. NỘI DUNG I. Mục tiêu.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Đề tài hướng dẫn cho học sinh biết được những ưu điểm, hạn chế trong bài làm của mình và tự biết cách sửa lỗi mà mình mắc phải. Thông qua việc sửa lỗi, các em sẽ có kinh nghiệm hơn trong khi viết văn, làm được những bài văn hay có tính sáng tạo và tính nghệ thuật cao. Bên cạnh đó, đề tài còn giúp các em nhận ra được những điểm hay trong bài làm của bạn để học tập và rút kinh nghiệm. Điều này rất quan trọng đối với học sinh. Đề tài bồi dưỡng cho học sinh năng lực viết văn. Đó là năng lực sản sinh ngôn bản dưới hình thức viết. Nhờ năng lực này, các em biết sử dụng tiếng Việt làm công cụ giao tiếp, tư duy và học tập. Điều này sẽ giúp học sinh rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách khoa học và mang tính nghệ thuật cao. Đề tài còn bồi dưỡng cho học sinh khả năng sáng tạo vì mỗi bài văn tuy được viết theo cấu trúc của từng thể loại nhưng nó vẫn mang tính rất riêng của từng học sinh. Đề tài được ứng dụng sẽ giúp cho học sinh dần nắm được cách viết văn theo nhiều phong cách khác nhau sau quá trình luyện tập lâu dài của các em. Đề tài được áp dụng thành công còn góp phần bổ sung kiến thức, phát triển tư duy và hình thành nhân cách tốt đẹp cho học sinh. II. Mô tả giải pháp của đề tài 1.Tính mới của đề tài 1.1 Nội dung khái quát của đề tài Đề tài này gồm các nội dung như sau: - Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn theo bố cục 3 phần của từng kiểu bài theo từng thể loại. - Rèn luyện kỹ năng phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài làm của mình. - Hướng dẫn học sinh phân tích, học tập những đoạn văn hay, bài văn hay. - Hướng dẫn học sinh viết lại một đoạn văn (đoạn mở bài, đoạn kết bài hoặc một đoạn của phần thân bài) chính xác hơn, hay hơn. 1.2 Nội dung của đề tài được thể hiện cụ thể như sau - Hướng dẫn học sinh nắm vững cấu tạo của một bài văn theo từng thể loại. - Hướng dẫn học sinh kĩ năng phát hiện lỗi và chữa lỗi trong bài viết của mình. - Hướng dẫn học sinh phân tích, nhận biết những đoạn văn hay, bài văn hay để học tập. - Hướng dẫn học sinh viết lại một đoạn văn hay hơn. 1.3 Cách tiến hành một bài dạy Tập làm văn trả bài viết Khi dạy tiết Tập làm văn trả bài viết, để giúp các em nắm chắc kiến thức, có kĩ năng sửa lỗi và kinh nghiệm làm văn, tôi đã nghiên cứu và rút ra được các kinh nghiệm như sau:.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1. Giáo viên chấm bài kĩ, bám sát yêu cầu mà chuẩn kiến thức và kĩ năng đề ra, thống kê được các lỗi mà học sinh mắc phải và đưa ra một biểu điểm đảm bảo tính khoa học. 2. Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh. 3. Hướng dẫn học sinh chữa bài. 4. Học sinh vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 5.Giáo viên kiểm tra đánh giá. 6. Giáo viên rút kinh nghiệm qua các tiết dạy để vận dụng cho các tiết học sau. 1.4 Phương pháp giúp cho học sinh lớp 5 học tốt môn Tập làm văn thông qua tiết trả bài viết Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh lớp 5 tiết Tập làm văn trả bài viết bằng nhiều hình thức. Kĩ năng được rèn luyện thông qua lí thuyết và các dạng bài tập thực hành nhằm giúp các em nắm được bố cục của các kiểu bài văn (tả cảnh, tả người, tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật …), biết cách viết được một bài văn thành thạo, bài văn bị mắc lỗi thì có đặc điểm gì và cách sửa lỗi trong bài văn như thế nào cho đúng. Từ đó các em biết cách vận dụng những điều đã học vào bài văn của mình. 1.4.1 Hướng dẫn học sinh về cấu tạo của một bài văn 1.4.1.1 Cấu tạo của bài văn tả cảnh Bài văn tả cảnh thường có 3 phần : Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả. - Cảnh đó ở đâu, đó là cảnh gì? - Cảnh đó được em thấy vào thời điểm nào? Thân bài : Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian. - Tả bao quát toàn cảnh : những nét chung, những nét nổi bật, đặc sắc. - Tả cảnh theo trình tự hợp lí : Từ xa đến gần hoặc ngược lại ; từ trên cao xuống thấp hoặc ngược lại. - Tả người hoặc vật có liên quan đến cảnh. Kết bài : Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết về cảnh được tả. Khi dạy, tôi thường hướng dẫn các em cách viết văn dựa theo cấu tạo như trên. 1.4.1.2 Cấu tạo của bài văn tả người Bài văn tả người thường có 3 phần: Mở bài : Giới thiệu người định tả. - Người đó là ai, quan hệ như thế nào với em ? - Em gặp người ấy ở đâu, vào dịp nào ? Thân bài : - Tả ngoại hình (đặc điểm nổi bật về tầm vóc, cách ăn mặc, khuôn.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> mặt, mái tóc, cặp mắt, hàm răng …). - Tả tính tình, hoạt động (lời nói, cử chỉ, thói quen, cách cư xử với người khác, …). Kết bài : Nêu cảm nghĩ về người được tả. - Nhận xét, suy nghĩ của em về người mình tả. - Tình cảm của em đối với người được tả. 1.4.1.3 Cấu tạo của bài văn kể chuyện Bài văn kể chuyện thường có 3 phần : Mở bài : Giới thiệu câu chuyện được kể. - Thời gian xảy ra câu chuyện. - Địa điểm diễn biến câu chuyện. - Nhân vật chính và các nhân vật phụ. - Tình huống ban đầu của câu chuyện. Thân bài : Kể lại diễn biến câu chuyện. - Diễn biến các sự việc nối tiếp nhau theo trình tự thời gian. - Nêu sự xung đột giữa các nhân vật. - Câu chuyện được giải quyết và kết thúc một cách tự nhiên hợp lí. Kết bài : Nêu kết cục của câu chuyện hoặc nêu ý nghĩa hay đưa ra lời bình luận về câu chuyện. 1.4.1.4 Cấu tạo của bài văn tả đồ vật Bài văn tả đồ vật thường có 3 phần : Mở bài : Giới thiệu đồ vật mà em định tả (em có đồ vật đó khi nào ? ai cho em ?). Thân bài : - Tả bao quát hình dáng đồ vật (hình dáng, kích thước, màu sắc, chất liệu …). - Tả các bộ phận của đồ vật. + Bên ngoài : Các chi tiết phía ngoài + Bên trong : Các bộ phận bên trong. - Nêu công dụng và lợi ích của đồ vật. Kết bài : Nêu cảm nghĩ của em về đồ vật được tả. 1.4.1.5 Cấu tạo của bài văn tả cây cối Bài văn tả cây cối thường có 3 phần : Mở bài : Giới thiệu cây, hoa hoặc quả em định tả (Cây em định tả là cây gì? Trồng ở đâu ? Do ai trồng ? Được trồng vào dịp nào ?). Thân bài : - Tả bao quát toàn bộ cây (hoặc hoa, quả). - Tả từng bộ phận của cây (hoa, quả), hoặc sự thay đổi của cây.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> (hoa, quả) theo thời gian. - Tả cảnh vật thiên nhiên xung quanh, hoạt động của con người, chim chóc, bướm ong … liên quan đến cây (hoa, quả). Kết bài : Nêu suy nghĩ hoặc tình cảm của em với cây (hoa, quả) được miêu tả. 1.4.1.6 Cấu tạo của bài văn tả con vật Bài văn tả con vật thường có 3 phần : Mở bài : Giới thiệu con vật mà em định tả (Con vật đó có từ khi nào ? Nó có nguồn gốc từ đâu ?). Thân bài : - Tả đặc điểm, hình dáng (từ khái quát đến chi tiết) của con vật. + Chiều cao, cân nặng. + Màu sắc của bộ lông. + Dáng vẻ, tiếng kêu. + Các bộ phận : đầu, mình, chân, đuôi … - Tả đặc điểm hoạt động của con vật. + Đi lại, chạy nhảy. + Ăn uống, bắt mồi. + Thái độ đối với con vật khác. Kết bài : Con vật gần gũi với cuộc sống của em, được em yêu quý như thế nào? 1.4.2 Những biện pháp giúp giáo viên dạy tốt tiết Tập làm văn trả bài viết 1.4.2.1 Chấm bài Chấm bài không nằm trong quá trình lên lớp 40 phút trả bài nhưng nó lại là yếu tố quan trọng, làm cơ sở cho giờ trả bài. Giờ trả bài có thành công hay không ? Học sinh có thấy được đúng sai trong bài làm của mình hay không đều do việc chấm bài của giáo viên, đó là khâu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng bài làm của học sinh. Song song với việc chấm bài kĩ, giáo viên phải có sổ chấm bài. Sổ chấm bài có tác dụng thống kê các loại lỗi để tìm ra lỗi phổ biến, ghi chép những sai đúng của từng học sinh để làm tư liệu phục vụ cho việc nhận xét và hướng dẫn chữa lỗi. Nhưng trước hết muốn ghi chép đúng, giáo viên phải chấm bài kĩ, bám sát yêu cầu mà chuẩn kiến thức và kĩ năng đã đề ra, đưa ra một biểu điểm đảm bảo tính khoa học, khách quan, vô tư. Từ đó thấy rõ ưu và nhược điểm của từng bài viết. Đồng thời sổ này giúp giáo viên so sánh đối chiếu những bài sau so với những bài trước, xem sự dứt điểm của từng loại lỗi đã sửa được chưa ? Sửa đến đâu ? Sự tiến bộ của các em đạt đến mức độ nào ? Sổ được trình bày theo bảng sau: Các loại lỗi sai. Tên học sinh. Dẫn chứng. Hướng sửa lỗi.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 1. Bố cục 2. Không đúng yêu cầu của đề bài 3.Lỗi chính tả, lỗi dùng từ 4. Lỗi diễn đạt 5. Lỗi viết câu Cuối bảng giáo viên ghi rõ cần dứt điểm loại lỗi nào trong bài viết kế tiếp, việc này được nêu ở phần củng cố của giờ trả bài viết giúp cho học sinh phấn đấu để giờ sau đạt kết quả tốt hơn. 1.4.2.2 Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh Khi nhận xét bài làm của học sinh, giáo viên cần chú ý : - Ghi đề bài kiểm tra lên bảng, việc này giúp các em nhớ lại đề bài mà các em đã làm ở tiết trước, nó tác động đến các em về vấn đề cần giải quyết trong tiết học. - Giúp học sinh xác định lại yêu cầu của đề bài để các em tự đối chiếu với kết quả bài viết xem đã thực hiện được đến đâu. Để từ đó giúp các em dễ dàng nắm được ưu và nhược điểm của bản thân. - Nêu rõ ưu, khuyết điểm của học sinh trong việc thực hiện yêu cầu của đề bài (dẫn chứng cụ thể được giáo viên chấm và theo dõi qua sổ thống kê lỗi của giáo viên) ; kết hợp với nhận xét về chữ viết và cách trình bày bài văn ; công bố kết quả điểm số và biểu dương những học sinh có bài làm tốt hoặc bài làm có tiến bộ. Giáo viên nên công bố tên học sinh có ưu điểm, không cần thiết nêu tên học sinh có khuyết điểm. 1.4.2.3 Hướng dẫn học sinh chữa bài Căn cứ vào kết quả bài làm của học sinh, giáo viên có thể tiến hành việc hướng dẫn học sinh chữa bài sao cho linh hoạt và đạt hiệu quả thiết thực theo các cách sau : - Trả bài làm cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài làm, lời nhận xét chung và những chỗ lưu ý cụ thể của giáo viên trong bài viết. - Hướng dẫn học sinh chữa lỗi chung về nội dung (sai, thiếu ý hoặc chi tiết sự việc …) và hình thức (về bố cục, về cách dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả …). - Tổ chức cho học sinh tự chữa bài làm của cá nhân, sau đó đổi bài để kiểm tra, giúp đỡ nhau về việc chữa lỗi. - Đọc cho học sinh nghe những câu văn hay, đoạn văn hay, bài văn hay để giúp các em vận dụng vào bài bài viết của mình. Giúp các em viết văn giàu hình ảnh, cô đọng, xúc tích. Gợi ý học sinh trao đổi để học tập những ưu điểm trong bài văn của bạn (về bố cục, sắp xếp ý, diễn đạt, dùng từ đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật …)..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Hướng dẫn học sinh chọn viết một đoạn văn trong bài làm cho tốt hơn (Đây là bước dành cho học sinh khá, giỏi). Tùy điều kiện thời gian cho phép, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu này tại lớp hoặc luyện tập thêm ở nhà để nâng cao kĩ năng viết văn. Đoạn văn học sinh chọn để viết lại có thể là đoạn văn còn mắc lỗi (lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu …) hoặc đoạn văn viết chưa hay. - Để nâng cao hiệu quả của bài dạy, giáo viên cần sử dụng phiếu bài tập nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, đồng thời tạo hứng thú cho các em trong học tập. 1.4.3 Các biện pháp hướng dẫn học sinh chữa lỗi trong bài văn 1.4.3.1 Phát hiện lỗi và sửa lỗi 1.4.3.1.1 Sửa lỗi dùng từ Trong quá trình dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 5, đặc biệt khi chấm bài cho học sinh ta thường thấy các em sử dụng từ chưa chính xác, dùng từ không đúng, dùng từ chưa hay. Vì thế chất lượng bài viết của các em chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dùng từ tùy tiện, làm hỏng, sai ý của câu văn hoặc làm cho câu văn khô khan, đơn điệu, thiếu hình ảnh. Các em cũng chưa biết cách khai thác và sử dụng từ ngữ một cách độc đáo, sáng tạo để diễn tả những điều đã quan sát được ; chưa biết thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình trước một sự vật, hiện tượng. Do khả năng hiểu từ, lựa chọn từ, sử dụng từ của học sinh còn nhiều hạn chế, các em sử dụng từ một cách tùy tiện, không biết vận dụng các biện pháp ẩn dụ, so sánh, nhân hóa … Vì thế câu văn thường thiếu sinh động và không có hình ảnh, sau đây là những ví dụ cụ thể : - Dạng 1: Dùng từ sai về âm thanh và hình thức cấu tạo của từ (còn gọi là lỗi chính tả) Đó là việc sử dụng từ có âm thanh hoặc hình thức cấu tạo gần giống với âm thanh hoặc hình thức cấu tạo của từ cần miêu tả làm cho người đọc, người nghe khó hiểu đúng nội dung cần diễn đạt. Nguyên nhân là do học sinh chưa phân biệt được ranh giới giữa các từ nên thường dùng những âm na ná như nhau, lẫn lộn với nhau. Đồng thời do sự phát âm không chuẩn của từng địa phương. Ví dụ 1: Đề bài “Tả một cơn mưa”, SGK- TV5- tập 1, có học sinh viết như sau : a. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ bao nhiêu nước tuôn rì rào. b. Sau cơn mưa, những luống rau sanh ngắt trông thật thích mắt. Trong các câu trên, do học sinh không nắm được nghĩa của các từ có âm thanh gần giống nhau nên các em đã sử dụng sai từ rì rào và viết sai chính tả từ sanh ngắt khiến cho người đọc có thể hiểu sai nội dung cần diễn đạt. Khi gặp những lỗi này, tôi.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> hướng dẫn học sinh khắc phục bằng cách cho các em nêu nghĩa của từ rì rào và xanh ngắt. Từ đó giáo viên giải thích cho các em hiểu rì rào là miêu tả tiếng gió thổi còn tiếng mưa tuôn phải dùng từ rào rào. Còn ở câu (b), thay từ sanh ngắt thành từ xanh ngắt. Ví dụ 2 : “Tả một em be đang tuổi tập nói, tập đi”, SGK- TV5- tập 1 , có học sinh viết : a. Bé Na có đôi mắt chòn xe và đen láy như hai hột nhãn. b. Bé Na rất thích đi, bé đi chưa vững nên hay bị ngả. Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai trong các câu trên và yêu cầu các em sửa lại cho đúng chính tả. Hai câu trên được sửa lại như sau: a. Bé Na có đôi mắt tròn xoe và đen láy như hai hột nhãn. b. Bé Na rất thích đi, bé đi chưa vững nên hay bị ngã. - Dạng 2 : Dùng từ không đúng nghĩa Đó là việc sử dụng từ ngữ một cách tùy tiện do học sinh không hiểu rõ nghĩa của các từ cần miêu tả, gây cho người đọc người nghe khó hiểu trước nội dung muốn thể hiện của người viết. Nguyên nhân của việc dùng từ không đúng nghĩa là do các em chưa hiểu được nghĩa của từ mình đang dùng, nhầm lẫn giữa các từ gần nghĩa, không nắm được sắc thái biểu cảm của từ. Ví dụ 1 : Đề bài “Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, em …) của em”, SGK- TV5- tập 1, có học sinh viết : Mỗi khi cười, mẹ để lộ hàm răng trắng xóa rất có duyên. Trong trường hợp này, các em dùng từ trắng xóa là thiếu chính xác. Từ trắng xóa dùng để chỉ độ trắng của tuyết hoặc của bọt nước. Còn chỉ độ trắng của hàm răng thì dùng từ trắng bóng hoặc trắng sáng là thích hợp. Câu trên được sửa lại như sau: Mỗi khi cười, mẹ để lộ hàm răng trắng sáng rất có duyên. Ví dụ 2 : Đề bài “Tả một cảnh đẹp ở địa phương em” – SGK- TV5 - tập 1, có học sinh đã viết như sau : a. Cánh đồng như rộng hơn bởi sự uốn lượn của những đợt sóng lúa. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy làm tăng thêm vẻ yên tĩnh cho quê hương. b. Không khí trong trắng của quê hương đã khiến tâm hồn em trở nên sảng khoái hơn. Ở đây do học sinh không nắm được nghĩa của các từ mà sử dụng tùy tiện khi viết câu gây khó hiểu cho người đọc, người nghe. Ở câu (a) học sinh đã dùng sai từ yên tĩnh, ở câu b các em dùng sai từ trong trắng. Khi gặp những lỗi này, tôi có thể đưa ra những câu dùng đúng từ yên tĩnh ; yêu cầu học sinh xác định từ loại của nó ; từ đó giúp các em hiểu được cách dùng từ như vậy là sai ; đồng thời giải thích cho các em về ý nghĩa của câu văn và hướng dẫn các.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> em có thể thay từ yên tĩnh bằng từ thanh bình. Đối với câu b, tôi cho học sinh nêu nghĩa của từ trong trắng và yêu cầu các em đặt câu với từ đó. Sau đó yêu cầu học sinh tự sửa lại câu trên bằng cách thay từ trong trắng bằng từ trong lành. Ví dụ 3 : Khi tả cái đòng hồ báo thức, có học sinh đã viết : “Bác đồng hồ đeo trên mình bộ quần áo màu xanh nước biển.” Trong trường hợp này, tôi đặt câu hỏi gợi mở để giúp học sinh phát hiện lỗi sai và sửa lỗi như sau : + Câu văn của bạn đã bị mắc lỗi gì ? (Dùng sai từ đeo) + Các em nên thay từ đeo bằng từ nào phù hợp hơn ? (thay từ đeo bằng từ mang, khoác …) + Câu văn sửa lại : Bác đồng hồ khoác trên mình bộ quần áo màu xanh nước biển. Ví dụ 4 : Khi tả cảnh buổi sáng trên cánh đồng, có học sinh đã viết : “Nhìn vẻ mặt trang nghiêm của các cô bác nông dân, em tin rằng vụ lúa này sẽ bội thu”. Tương tự như trên, giáo viên hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi (dùng sai từ trang nghiêm) và sửa lỗi (thay từ trang nghiêm bằng từ rạng ngời). Câu văn được sửa lại như sau : Nhìn vẻ mặt rạng ngời của các cô bác nông dân, em tin rằng vụ lúa này sẽ bội thu. - Dạng 3 : Dùng từ sai do kết hợp Khi viết, các em sử dụng sai từ ngữ khi kết hợp làm cho câu văn sai về nghĩa hoặc vô nghĩa. Nguyên nhân của việc dùng sai từ là do học sinh không nắm được nguyên tắc phối hợp từ, mối quan hệ giữa hai vế câu ghép, mối quan hệ giữa các từ trong câu. Ví dụ : Khi làm bài văn tả cảnh một số học sinh đã viết như sau: a. Con đường làng từ nhà đến trường rất đỗi thân thuộc với em nhưng em chẳng muốn rời xa. b.Cánh đồng bước vào mùa thu hoạch, bà con nông dân đã nô nức gặt lúa. Trong ví dụ (a), do học sinh không nắm được ý nghĩa của câu ghép có cặp quan hệ từ chỉ nguyên nhân – kết quả nên các em đã kết hợp sai từ nhưng với từ vì (đã bị lược đi). Khi gặp lỗi trên, tôi yêu cầu học sinh nhắc lại ý nghĩa của các cặp quan hệ từ, từ đó giải thích cho học sinh biết không có cặp quan hệ từ vì – nhưng và sửa lại bằng cách thay từ nhưng thành từ nên. Đối với câu (b), tôi tiếp tục cho học sinh nêu nghĩa của câu trên và yêu cầu học sinh nêu cách dùng từ đã để học sinh nắm được đã dùng để nói về những sự việc đã qua nên không thể viết đã gặt lúa trong khi đang vào mùa gặt. Tiếp theo tôi cho học sinh tự sửa lại bằng cách bỏ từ đã hoặc thay từ đã bằng từ đang..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Hai câu văn trên được sửa lại như sau : a. Con đường làng từ nhà đến trường rất đỗi thân thuộc với em nên em chẳng muốn rời xa. b.Cánh đồng bước vào mùa thu hoạch, bà con nông dân nô nức gặt lúa. - Dạng 4 : Dùng từ sai do lặp từ Do vốn từ của học sinh còn nghèo nàn nên các em chưa biết sử dụng các từ đồng nghĩa để thay thế cho nhau. Vì vậy trong bài viết của mình các em thường lặp lại từ ngữ làm cho câu văn lủng củng, không mạch lạc. Có hai dạng lặp từ đó là: lặp từ hoàn toàn và lặp từ đồng nghĩa. Ví dụ 1 : Đề bài “Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, em …) của em”, SGK- TV5- tập 1, có học sinh viết : “Khuôn mặt trái xoan của mẹ rất đẹp, làn da của mẹ trắng hồng, mái tóc của mẹ đen bóng và suông thẳng.” Trong ví dụ này, học sinh đã dùng lặp lại 3 lần cụm từ “của mẹ” gây nhàm chán cho người đọc, người nghe. Trong trường hợp này, tôi hướng dẫn học sinh nhắc lại cách liên kết câu bằng phương pháp thế ; sau đó cho các em dùng các từ khác có thể thay thế cho cụm từ “của mẹ” mà nội dung của câu đó không thay đổi. Các em sẽ dễ dàng tìm được các cụm từ thay thế đó là: “mẹ có làn da trắng hồng”, “mái tóc đen bóng và suông thẳng ấy”. Câu văn trên được sửa lại như sau: Khuôn mặt trái xoan của mẹ rất đẹp, làn da trắng hồng, mái tóc đen bóng và suông thẳng tôn lên vẻ phúc hậu, rạng ngời cho mẹ. Ngoài ra, tôi cũng có thể hướng dẫn các em sử dụng câu đơn có nồng cốt câu là một chủ ngữ - nhiều vị ngữ hoặc nhiều chủ ngữ - một vị ngữ, các em sẽ nhận biết và viết được câu không bị lặp lại từ. Câu văn trên có thể sửa lại bằng nhiều cách như sau : + Mẹ em có khuôn mặt trái xoan, làn da trắng hồng, mái tóc đen bóng và suông thẳng. + Khuôn mặt trái xoan, làn da trắng hồng, mái tóc đen và suông thẳng làm tôn lên vẻ đẹp rạng ngời của mẹ. Ví dụ 2 : Đề bài “Tả cảnh đẹp ở địa phương em”, GSK- TV5- tập 1, có học sinh viết : “Cánh đồng lúa quê em rộng bao la, bát ngát.” Ở trường hợp này, các em đã dùng lặp lại từ đồng nghĩa bao la, bát ngát. Giáo viên cho học sinh tìm các từ khác thay thế từ đồng nghĩa hoặc có thể bỏ bớt đi một từ và giải thích để các em hiểu rằng không nên viết các từ đồng nghĩa trong cùng một câu vì như thế sẽ làm giảm đi hình ảnh đẹp của câu văn. Trong câu này, các em có thể tìm từ thay thế như thẳng cánh cò bay hoặc có thể bỏ bớt đi một trong hai từ mà ý của câu văn không hề thay đổi, câu văn trở nên ngắn gọn và xúc tích hơn. Câu văn có thể sửa lại như sau :.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> + Cánh đồng lúa quê em rộng bát ngát. + Cánh đồng lúa quê em rộng thẳng cánh cò bay. Việc phát triển kỹ năng sử dụng từ ngữ trong viết văn cho học sinh lớp 5 là hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Điều đó giúp các em không chỉ viết đúng mà còn hướng tới việc viết văn hay, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 5. 1.4.3.1.2 Sửa chữa lỗi diễn đạt Thông thường việc sửa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài viết của lớp để tìm ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, về chính tả để cho học sinh nhận xét, sửa chữa. Định hướng như vậy sẽ giúp cho việc chữa lỗi phù hợp với trình độ của lớp. Tuy nhiên, để có được bài văn tốt, giáo viên cũng tính đến việc sửa chữa lỗi diễn đạt cho học sinh. Sửa lỗi diễn đạt có thể tiến hành sửa lỗi chung trước lớp và nội dung bài làm của cá nhân, học sinh tự sửa lỗi trên bài viết đã được thầy cô giáo nhận xét. Để thực hiện việc này, giáo viên cần thống nhất với học sinh lớp mình dạy một số kí hiệu trong quá trình chấm bài của thầy cô. Để thực hiện vấn đề này có hiệu quả, trong thời gian qua bản thân tôi đã làm như sau : Những lỗi thông thường hay gặp trong bài viết của học sinh tôi đã gạch dưới và ghi ra bên lề kí hiệu xác nhận hình thức lỗi cần sửa. Học sinh nhận lại bài khi cô giáo đã chấm và có trách nhiệm tìm đọc các lỗi đã được giáo viên phát hiện để chữa lại cho đúng. Các lỗi chính tả (kí hiệu CT), lỗi dùng từ (TN) thì có thể sửa và viết lại ngay ở bên lề. Những lỗi về câu như thiếu hay thừa chủ ngữ (CN), vị ngữ (VN), bổ ngữ (BN), định ngữ (ĐN) thì cần viết lại cả câu ở dưới bài viết. Những lỗi về đoạn, lỗi về tính chính xác của dẫn chứng hay chi tiết cần được sửa lại ở bên dưới bài. Khi giao việc cho học sinh làm, giáo viên cần phải kiểm tra việc thực hiện. Chính vì vậy sau tiết trả bài tôi thường yêu cầu học sinh nộp bài cũ mà các em đã sửa chữa trước khi học bài mới, kết hợp với tuyên dương những em biết sửa chữa. Công việc này giúp các em thực hiện việc sửa lỗi bài viết một cách nghiêm túc và tăng hiệu quả luyện viết văn của bản thân. Việc chữa lỗi chung trên lớp cũng cần được thực hiện cho đủ các nội dung sau : - Phát hiện lỗi sai trong câu. - Tìm hiểu nguyên nhân của lỗi sai. - Xác định hướng sửa chữa. - Tiến hành sửa lỗi cụ thể. Cần lưu ý là việc sửa chữa lỗi sai có thể thực hiện theo hai ba cách khác nhau. Một ý có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng vẫn nêu đúng ý cần miêu tả. Ví dụ 1: Đề bài “Tả một người thân trong gia đình em", có học sinh viết :“Em rất.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> thương bà vì có món gì ngon bà cũng dành cho em." Câu văn muốn nói tình cảm yêu mến của đứa cháu đối với người bà. Hai vế trong câu ghép nối với nhau bằng quan hệ từ vì giúp chúng ta nhận ra quan hệ nguyên nhân kết quả trong câu ghép. Cháu yêu bà vì sao ? Vì bà thường cho cháu những món ngon. Viết như vậy sẽ làm giảm tình cảm yêu mến của cháu đối với bà. Câu văn có thể sửa lại là : - Em rất yêu thương bà vì bà luôn chăm sóc, dạy bảo con cháu ân cần. - Bà rất tận tụy chăm sóc, dạy bảo con cháu nên em rất yêu thương và kính trọng bà. Ví dụ 2 : Đề bài "Tả một con vật mà em yêu thích”, SGK – TV5 - tập 2, có học sinh viết: “Chú gà trống nhà em có tiếng gáy to nhất làng. Mỗi khi chú ta cất tiếng gáy, những chú gà trong xóm vô cùng ngưỡng mộ, chú Chíp của bác hai cũng gáy theo mấy tiếng te te. Chíp đã 3 tháng tuổi nhưng chú đã ra dáng một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Chíp còn thích bới mồi cho các cô gà mái nữa chứ !” Học sinh chọn tả con gà trống nhà em. Trọng tâm của đề bài là tả hình dáng và hoạt động của con gà trống nhưng có em còn viết lan man, đang tả chú gà trống của mình lại tả sang con gà trống của người khác, viết như vậy là không được. Vậy khi tả con gà trống của nhà em phải có một trình tự logic của bài làm, đó là : Hình dáng bên ngoài của con gà (lông, mào, cổ cánh của nó ra sao), tính nết của nó như thế nào ? tiếng gáy, cách cư xử của chú gà trống này với con gà khác… Khi sửa lỗi về câu, về từ, về cách diễn đạt sẽ giúp học sinh thấy được câu văn sinh động hơn. Đoạn văn trên được sửa lại như sau : Chú gà trống nhà em có tiếng gáy to nhất làng. Mỗi khi chú ta cất tiếng gáy, những chú gà trong xóm vô cùng ngưỡng mộ. Tiếng gáy của chú ngân dài, vang xa khiến cho mọi người và vật đều bừng tỉnh giấc. Chú hãnh diện nhảy xuống đóng rơm trước những đôi mắt ngưỡng mộ của các cô gà mái. Chú nghiêng ngó cái đầu làm điệu, đôi chân với những cái móng sắc nhọn bới đất tìm giun để chiêu đãi những cô bạn gà mái thân thiết. 1.4.3.1.3. Sửa lỗi sử dụng dấu câu Dấu câu có vai trò quan trọng trong việc sản sinh văn bản viết. Nó có tác dụng phân cách các bộ phận trong câu, phân cách các câu với nhau, làm sáng tỏ ý cần trình bày của người viết. Chính nhờ dấu câu cùng với các phương tiện đặc trưng của văn bản viết để làm sáng tỏ ý cần trình bày. Xác định được vai trò của dấu câu trong văn bản nên chương trình Tiểu học đã đưa các dấu câu vào giảng dạy ở các lớp. Các loại dấu câu được dạy gắn kết với các kiểu câu tương ứng. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh thường.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> mắc hai lỗi cơ bản khi sử dụng dấu câu đó là lỗi không dùng dấu câu và lỗi dùng sai dấu câu. Từ thực trạng trên, với trách nhiệm của người giáo viên, tôi đã tìm ra những lỗi mà học sinh mắc phải và cách khắc phục những lỗi đó. - Lỗi không dùng dấu câu : Lỗi này do học sinh không dùng dấu câu ở những chỗ cần thiết. Việc học sinh không sử dụng dấu câu gây khó khăn trong giao tiếp bởi người đọc không thể nhanh chống nắm bắt được nội dung các em cần truyền đạt, thậm chí có trường hợp không xác định hoặc hiểu sai ý các em muốn diễn đạt. Ví dụ : Đề bài “Tả thầy giáo (cô giáo) đã từng dạy em và để lại cho em nhiều ấn tượng tốt đẹp nhất”, SGK- TV5- tập 2, học sinh viết :“Cô Thiện đã ân cần dạy dỗ em nên người em rất yêu quý và kính trọng cô.” Để chữa lỗi này, tôi thường hướng dẫn học sinh phân tích để tách đoạn ra thành các câu và điền dấu chấm vào cuối câu kể, viết hoa chữ cái đầu của câu sau. Các câu trên được sửa lại như sau : Cô Thiện đã ân cần dạy dỗ em nên người. Em rất yêu quý và kính trọng cô. Học sinh thường không dùng các dấu phẩy (dấu chấm phẩy) ngăn cách trạng ngữ với chủ ngữ - vị ngữ, ngăn cách các bộ phận cùng chức vụ trong câu hoặc ngăn cách các vế câu trong câu ghép. Ví dụ 1: Đề bài “Tả một đêm trăng đẹp”, SGK - TV5 - tập 2, học sinh đã viết : “Đêm nay bầu trời đầy sao trăng sáng vằng vặc.” Khi chữa lỗi này, tôi thường hướng dẫn cho học sinh biết cách thêm các dấu phẩy (dấu chấm phẩy) vào chỗ cần thiết. Câu trên được sửa lại như sau : Đêm nay, bầu trời đầy sao, trăng sáng vằng vặc. Ví dụ 2 : Đề bài “Tả một đêm trăng đẹp”, SGK - TV5 - tập 2, học sinh viết : Tôi yêu buổi tối ở quê yêu cả ánh trăng kì diệu trong đêm rằm ấy yêu tất cả những cảnh vật xung quanh. Trong câu văn này, học sinh chưa dùng dấu phẩy để ngăn cách các bộ phận cùng giữ chức vụ vị ngữ trong câu. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo của câu trên và xác định vị trí các dấu phẩy cần thêm vào. Câu văn trên được sửa lại như sau : Tôi yêu buổi tối ở quê, yêu cả ánh trăng kì diệu trong đêm rằm ấy, yêu tất cả những cảnh vật xung quanh. - Lỗi sử dụng dấu câu sai: Lỗi sử dụng dấu câu sai là lỗi mà học sinh dùng dấu câu không hợp lí, không đúng quy tắc. Lỗi sử dụng dấu câu sai của học sinh tiểu học bao gồm dùng dấu chấm ngắt câu khi chưa đủ ý ; dùng dấu phẩy ngăn cách thành phần chủ ngữ - vị ngữ (tất nhiên ở đây đã loại trừ trường hợp sử dụng dấu câu với dụng ý tu từ), ngăn cách động từ với bổ ngữ ; dùng dấu hai chấm ngăn cách các vế của câu ghép khi vế nọ không có ý giải thích cho vế kia. Phổ biến trong lỗi này là các câu được dùng dấu chấm tùy tiện khi chưa hết ý, cắt đôi câu ra một cách vô lí..
<span class='text_page_counter'>(20)</span> Ví dụ : - Lúc này, những đám mây đen. Ùn ùn kéo đến. - Con đường quen thuộc từ nhà em đến trường. Gắn với em nhiều kỉ niệm thân thương. Để chữa lỗi các câu trên, tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ lại từng câu xem đã đủ ý chưa, xác định câu sao cho đủ ý để người đọc có thể hiểu được nội dung của câu đó. Sau đó học sinh sẽ tự sửa lỗi bằng cách bỏ dấu chấm đứng phía trước trong các ví dụ trên. Các câu trong ví dụ trên được sửa như sau : - Lúc này, những đám mây đen ùn ùn kéo đến. - Con đường quen thuộc từ nhà em đến trường gắn với em nhiều kỉ niệm thân thương. Trong quá trình chấm, chữa bài cho học sinh, chúng ta còn gặp trường hợp học sinh muốn truyền đạt lời nói của người khác theo hình thức gián tiếp nhưng các em đã sử dụng sai dấu câu. Ví dụ : - Cô giáo động viên cả lớp cố lên ! - Mẹ hỏi tôi đã hiểu bài tập này chưa ? Học sinh mắc lỗi này do các em không nắm vững được quy tắc chuyển đổi từ lời nói trực tiếp sang lời nói gián tiếp. Để chữa lỗi này, tôi đã hướng dẫn học sinh như sau: Muốn truyền đạt lời nói của người khác bằng lời nói của mình, khi gặp những câu câu hỏi, câu khiến, câu cảm thì cần phải chuyển những câu đó thành câu kể và dùng dấu chấm để kết thúc. Ví dụ trên được sửa lại như sau : - Cô giáo động viên cả lớp cố lên . - Mẹ hỏi tôi đã hiểu bài tập này chưa . 1.4.3.2 Đọc đoạn văn hay cho học sinh tham khảo Bài văn, đoạn văn được đọc cho cả lớp nghe cần đảm bảo có chất lượng cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Bài được đọc trước lớp phải giúp học sinh học tập được về cách chọn ý, sắp xếp ý cũng như thể hiện ý. Để làm tốt phần này, trong quá trình giảng dạy tôi đã chọn bài đọc từ hai nguồn : Bài viết của lớp và bài viết bên ngoài (bài của học sinh những năm học trước). Đối với nguồn thứ nhất, giáo viên sử dụng bài viết của học sinh trong lớp sẽ tạo được niềm hưng phấn cho các em. Học sinh có bài được tuyên dương đọc trước lớp sẽ rất phấn khởi và các em trong lớp cũng cảm thấy tự hào vì có được người bạn có bài viết hay, kích thích sự phấn đấu trong học tập của cả lớp. Tuy nhiên khi sử dụng bài viết của học sinh trong lớp, giáo viên chỉ nên cho đọc từng đoạn nhỏ, ngắn. Có như vậy mới làm nổi bật được ưu điểm trong đoạn văn viết của các em. Vấn đề tiếp theo là chọn người đọc. Thường lệ, tôi để chính em học sinh viết đoạn văn đọc trước lớp vì.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> việc làm này sẽ là một động viên rất lớn cho em học sinh đó. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý học sinh đó phải có giọng đọc rõ ràng, to, lưu loát và diễn cảm. Nếu học sinh có bài viết tốt nhưng đọc chưa hay thì cũng không nhất thiết phải để em đó đọc, dễ gây phản tác dụng. Trong trường hợp này, giáo viên nên chọn học sinh khác đọc hoặc chính giáo viên đọc đoạn văn cho học sinh nghe. Khi chọn bài đọc từ nguồn thứ hai, chúng ta phải lựa chọn bài văn tiêu biểu, đáp ứng yêu cầu sư phạm của nhà trường. Giáo viên nên chọn những đoạn văn ngắn cho phù hợp với yêu cầu của bài viết, giúp học sinh học tập được những điểm hay của bài văn. Có thể trong một tiết trả bài, giáo viên cho đọc một đoạn trong bài viết của học sinh ở lớp để động viên rồi đọc một đoạn ngắn của bài viết bên ngoài để làm mẫu. Điều quan trọng hơn mà chúng ta cần bàn là cách tiến hành đoạn văn trước lớp. Với mục đích đọc đoạn văn hay để giúp các em học hỏi những điều bổ ích về cách viết văn, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc đọc đoạn văn mà cần phải hướng dẫn học sinh nhận ra những điểm hay về cách dùng từ, đặt câu, cách hành văn độc đáo. Khi hướng dẫn, giáo viên có thể sử dụng phương pháp đối thoại giữa thầy và trò hoặc gợi mở để cho cả lớp làm việc theo nhóm. Tuy nhiên giáo viên cần tính đến thời gian trong tiết học để chọn ra giải pháp tối ưu vừa đảm bảo thời gian vừa đảm bảo chất lượng nội dung bài học và rèn luyện được kĩ năng viết văn cho học sinh. 1.4.3.3 Hướng dẫn học sinh viết lại đoạn văn cho hay hơn Để giúp học sinh biết viết lại một đoạn văn trong bài viết của mình cho hay hơn, giáo viên cần hướng dẫn các em theo các bước sau: Học sinh đọc lời nhận xét của giáo viên và chọn ra một đoạn chưa hay trong bài viết của mình (có thể là đoạn mở bài, đoạn kết bài hoặc một đoạn trong phần thân bài) để viết lại cho hay hơn. Khi viết lại đoạn mở bài, kết bài, học sinh có thể viết theo kiểu mở bài gián tiếp và kết bài theo kiểu mở rộng. Nếu viết lại đoạn văn ở phần thân bài thì đoạn văn phải có câu mở đầu nêu ý bao trùm của đoạn. Các câu trong đoạn cùng làm nổi bật ý đó. Đoạn văn phải có hình ảnh, có những chi tiết nổi bật, những liên tưởng thú vị, các biện pháp so sánh, nhân hóa ... Đoạn văn cần thể hiện được cảm xúc của người viết. Sau khi học sinh viết xong, giáo viên gọi một số em lên trình bày trước lớp đoạn văn vừa viết lại. Giáo viên cần hướng dẫn các em nhận xét để tìm ra cái mới, cái hay trong đoạn văn vừa viết lại để cả lớp học tập và rút kinh nghiệm cho những bài viết sau. 1.4.3.4 Sử dụng phiếu bài tập trong tiết trả bài.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> Để phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh, trong tiết Tập làm văn trả bài viết, giáo viên cần sử dụng phiếu bài tập nhằm giúp các em chủ động phát hiện lỗi và sửa lỗi. Các phiếu bài tập dùng cho mỗi tiết dạy được giáo viên xây dựng dựa trên việc chấm bài, ghi chép những lỗi của học sinh và lựa chọn những lỗi điển hình sau đó soạn dạng bài tập cho phù hợp. Ví dụ : Đề 1: Tả một cơn mưa (Tiết trả bài văn tả cảnh ) a) Gạch chân dưới từ viết sai chính tả và chọn từ thích hợp điền vào chỗ chấm : - Những đám mây đen ùng ùng kéo đến … - Mưa to như chút nước… - Bầy gà ướt lướt thướt gập gưỡng tìm chỗ chú … b) Gạch dưới những từ ngữ dùng sai trong các câu văn sau và chép lại cho đúng. - Trên bầu trời, những đám mây đen trùi trũi xuất hiện. - Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước tung trắng bóng. - Tiếng sấm vang lên lách tách. c) Sửa lại các hình ảnh so sánh đã dùng trong các câu văn sau : - Những giọt nước lăn xuống mái nhà như bầy ong vỡ tổ. - Mấy chú chim từ những bụi cây bay ra hót râm ran như gió thổi. - Mặt trời ló ra, chói lọi như tia chớp. Đề 2: Tả một người đang làm việc (Tiết trả bài văn tả người ) a) Khoanh vào chữ cái trước từ thích hợp có thể điền vào chỗ chấm trong các câu sau : - Bác Tư một tay cầm cày, một tay cầm roi … con trâu. A. đi trước B. đi sau C. chạy theo - Ngày nào mẹ cũng dậy sớm để … những món ngon cho cả gia đình. A. nấu B. lấy C. tìm b) Từ nào dùng sai trong các câu sau ? Hãy tìm từ thay thế cho phù hợp. - Bác Tâm cùng các cô bác lao công vẫn tới tấp làm cho đường phố sạch đẹp. - Nhìn mặt đường đã vá xong, gương mặt của bác tư trang trọng hẳn lên. c) Hãy tìm chỗ sai trong đoạn văn sau và sửa lại cho đúng. Mẹ đang lom khom cắt lúa. Đôi tay mẹ, thoăn thoắt cắt từng nắm lúa. Trong thời gian ngắn, mẹ đã cắt xong đám lúa. Nhìn gương mặt tốt bụng của mẹ ướt đẫm mồ hôi,.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> em thương mẹ rất nhiều. Trên đây là các ví dụ về một số dạng bài tập dùng trong khâu sửa lỗi cho học sinh. Các bài tập có thể cho học sinh làm việc cá nhân, làm việc theo cặp hoặc theo nhóm sao cho phù hợp và tất cả các em đều được tham gia sửa lỗi nhằm mục đích nâng cao hiệu quả tiết Tập làm văn trả bài viết. Tất cả những vấn đề trên sẽ giúp cho các em khắc phục được những lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu, lỗi diễn đạt … trong bài văn của mình và các em sẽ thực hành viết văn một cách dễ dàng, thành thạo. 2. Khả năng áp dụng Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi và điều tra thực nghiệm cho đề tài của mình, trải qua thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu này trong giảng dạy, tôi đã khảo sát lớp 5A (32 học sinh) để xem sự chuyển biến của học sinh so với khi chưa áp dụng đề tài. Đề bài khảo sát như sau : Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em. Qua quá trình khảo sát, kết quả thu được như sau : Giỏi Sl 10. Khá % 31,2. SL 15. % 46,9. Trung bình SL % 7 21,9. Yếu SL /. % /. Với kết quả khảo sát này cho thấy rõ các em đã có tiến bộ vượt bậc so với lúc chưa áp dụng đề tài. Số lượng học sinh đạt khá và giỏi tăng cao. 2.1 Dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng Không chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu là lớp 5A tôi đã giảng dạy năm học 2011-2012, tôi sử dụng ngay bài khảo sát trên để khảo sát học sinh lớp 5E - năm học 2012-2013, khi chưa áp dụng đề tài. Kết quả như sau : (Lớp có 29 em) Giỏi SL 3. Khá % 10,4. SL 11. % 37,9. Trung bình SL % 13 44,8. Yếu SL 2. % 6,9. Qua kết quả khảo sát cho thấy : Cùng là một vấn đề về viết văn tả cảnh nhưng kết quả hoàn toàn khác hẳn nhau khi áp dụng đề tài và khi chưa áp dụng đề tài. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng đề tài trong giảng dạy phân môn Tập làm văn cho học sinh đã có những tiến bộ đáng kể và kết quả rất khả quan. Cùng với việc nghiên cứu, tôi đã hướng dẫn các em học theo phương pháp mới.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> mà mình đang nghiên cứu nhưng được sử dụng một cách linh hoạt hơn so với những năm học trước. Sau một thời gian áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi đã tiến hành khảo sát lại học sinh lớp 5E năm học 2012 -2013 với đề bài : “Em hãy miêu tả cô giáo (hoặc thầy giáo) của em trong một giờ học mà em nhớ nhất ”. Kết quả thu được rất khả quan : Giỏi SL 8. Khá % 27,6. SL 15. % 51,7. Trung bình SL % 6 20,7. Yếu SL /. % /. Với kết quả khảo sát này, số học sinh giỏi đã tăng lên rõ rệt so với lúc chưa áp dụng đề tài. Số học sinh khá cũng tăng lên nhiều. Việc áp dụng đề tài thành công đã giúp cho học sinh có kĩ năng viết văn đạt hiệu quả cao. Điều này tạo cho các em tâm lí phấn khởi, hứng thú trong học tập. Với kết quả thu được qua việc dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng, tôi càng tin rằng việc vận dụng các phương pháp sửa lỗi khi làm văn cho học sinh sẽ giúp cho kết quả học tập của các em ngày càng được nâng cao. 2.2 Khả năng thay thế giải pháp hiện có Nhờ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong giảng dạy nên tôi có thể phân tích các lỗi trong bài viết của các em và hướng dẫn các em sửa lỗi một cách linh hoạt, hiệu quả. Đề tài có thể giúp học sinh có kĩ năng tự phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết của mình và của bạn. Từ đó các em có thể viết văn một cách thành thạo, nhuần nhuyễn (đúng về nội dung, phong phú về từ ngữ và giàu tính nghệ thuật). Điều này rất cần thiết cho học sinh khi các em đang học và cả khi các em đã trưởng thành. Khi áp dụng đề tài này trong giảng dạy, học sinh sẽ tránh được một số lỗi sai về cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt ... Các em sẽ biết được bài văn mình đang viết có bị sai hay không. Nếu sai thì sai ở điểm nào, từ chỗ sai đó các em sẽ có cách sửa phù hợp. Các yếu tố trên sẽ giúp học sinh viết văn ngày càng tiến bộ hơn. Việc áp dụng đề tài trong giảng dạy sẽ tạo cho học sinh có năng lực học tập tốt, rèn luyện kĩ năng, trau dồi nghệ thuật viết văn một cách thành thạo, nhuần nhuyễn. Chính vì những yếu tố trên nên sáng kiến kinh nghiệm này có thể vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong quá trình dạy học. Tuy những giải pháp của đề tài không hoàn toàn thay thế những giải pháp cũ hiện có nhưng nó sẽ là một nhân tố quan trọng để học sinh có thể nắm vững và thực hành viết văn một cách dễ dàng, đúng về nội dung, có bố cục chặt chẽ và mang phong cách riêng của người viết. Tuy nhiên, tùy theo tình hình thực tế của địa phương, của trường, của lớp, của.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể sử dụng linh hoạt các giải pháp trên để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giảng dạy. 2.3 Khả năng áp dụng Sau khi nghiên cứu và thử nghiệm có kết quả, tôi đã cùng đồng nghiệp của mình tiến hành áp dụng đề tài này trong giảng dạy các lớp 5 của trường tiết Tập làm văn trả bài viết. Nó giúp cho học sinh khắc phục được các lỗi mà các em thường mắc phải và chất lượng các bài tập làm văn được nâng lên rõ rệt. Đề tài này không những áp dụng trong trường mà tôi còn trao đổi kinh nghiệm này với một số đồng nghiệp đang dạy ở các trường khác. Họ cũng tiến hành thử nghiệm và kết quả thu được từ bài làm của học sinh ở phân môn Tập làm văn cũng rất khả quan. Đề tài được áp dụng đã giúp cho giáo viên không còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh sửa lỗi. Vì trước đây giáo viên chỉ dựa vào lí thuyết chung chung của nội dung trong bài nên việc gợi ý cho các em cách làm là rất khó. Sau khi áp dụng đề tài, các em sẽ nắm rõ bố cục của một bài văn, nhận biết các lỗi thường mắc phải và cách sửa các lỗi đó. Từ đó việc dạy phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung cho học sinh ngày càng tốt và có hiệu quả hơn. Học sinh được hưởng thụ từ việc áp dụng đề tài đã giúp cho các em bớt căng thẳng hơn, bớt lo lắng khi làm bài tập làm văn. Tiết học của các em trở nên sôi nổi, hứng thú tạo cho các em tâm thế tốt nhất để học bài mới, mang lại hiệu quả học tập cao. Qua đó chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt không ngừng được nâng cao. 3. Lợi ích kinh tế xã hội 3.1 Lợi ích của việc áp dụng đề tài đến quá trình giáo dục, công tác 3.1.1 Lợi ích của việc áp dụng đề tài đến quá trình giáo dục Trong quá trình giáo dục, đề tài được áp dụng thành công sẽ mang lại lợi ích rất thiết thực và hiệu quả.. Đề tài được áp dụng sẽ góp phần to lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Bồi dưỡng cho các em có tâm hồn trong sáng, thân thiện với môi trường xung quanh. Điều đó rất cần thiết cho các em trong quá trình quan sát để viết văn. Đề tài còn giúp cho các em biết viết những bài văn đảm bảo về nội dung, lôgic về.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> ý nghĩa và sáng tạo trong phong cách viết. 3.1.2 Lợi ích của việc áp dụng đề tài đến quá trình công tác Đề tài được áp dụng thành công sẽ mang lại hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy. Dạy học theo đề tài này là một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động, sáng tạo góp phần nâng cao chất lượng học tập. 3.2 Tính năng kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả sử dụng 3.2.1 Tính năng kỹ thuật * Đối với giáo viên : Đề tài mang tính phổ thông, gần gũi. Mọi giáo viên đều có thể sử dụng để dạy cho học sinh một cách dễ dàng, có hiệu quả. * Đối với học sinh : Giải pháp mới rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học, không gây áp lực nặng nề cho học sinh khi viết văn bản. Đề tài được áp dụng thành công sẽ tạo cho học sinh một tâm lí phấn khởi khi lĩnh hội được vốn kiến thức giáo viên truyền thụ và thể hiện lại kiến thức đó thông qua bài làm của mình một cách rõ ràng, khoa học nhưng vẫn mang tính sáng tạo riêng của từng em. 3.2.2 Chất lượng của đề tài Đề tài đã được vận dụng, dạy thử nghiệm qua hai năm ở Trường Tiểu học Mỹ An và được đồng nghiệp đánh giá cao. Đề tài không chỉ dạy cho học sinh lớp 5 mà có thể áp dụng ngay cả đối với học sinh lớp 4. Đề tài không những giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn mà còn giúp các em học tốt các môn học khác..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> 3.2.3 Hiệu quả sử dụng Sau thời gian dạy thử nghiệm, học sinh rất hứng thú học tập và kết quả học phân môn Tập làm văn được nâng lên rõ rệt. Kết quả khảo sát cụ thể như sau :. Năm học. Tổng số HS. SL. 20112012. 32. 3. 9,37 9. 20122013. 29. 3. 10,4 11. Chưa áp dụng đề tài G K TB %. SL. %. SL. %. Y. Đã áp dụng đề tài K TB. G. SL. %. 28,1 16 50,0. 4. 12,5. 37,9 13 44,8. 2. 6,9. SL. %. SL. %. Y. SL. %. SL. %. 10 31,2 15 46,9. 7. 21,9. /. /. 8. 6. 20,7. /. /. 27,6 15 51,7. 3.3 Tác động tích cực của đề tài 3.3.1 Tác động xã hội tích cực của đề tài Đề tài được vận dụng thành công góp phần rèn luyện cho học sinh thành những con người có tính tự tin, kiên trì, có năng lực học tập tốt. Đề tài góp phần to lớn trong việc giáo dục nhân cách của của học sinh. Nó bồi dưỡng cho các em thêm yêu tiếng Việt và có ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt. Đề tài áp dụng thành công sẽ góp phần rất lớn vào sự nghiệp “trồng người” của đất nước, mang lại sự phồn vinh cho Tổ quốc, cho xã hội. 3.3.2 Tác động tích cực của đề tài đến việc cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện lao động Sử dụng những giải pháp mới sẽ có tác động rất tốt trong việc cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện lao động ngày càng tốt hơn. Khi làm bài, các em sẽ viết được một bài văn hay ngay từ đầu chứ không phải viết đi viết lại nhiều lần. Từ đó giúp các em tiết kiệm được thời gian, công sức và của cải. Qua đó, giúp giáo viên và học sinh cải thiện điều kiện lao động ngày càng tốt hơn. Học sinh được học theo phương pháp mới sẽ giúp các em hiểu được nội dung bài học, chủ động tìm tòi, thực hành để nắm được kiến thức mới một cách dễ dàng, rút ngắn được thời gian học tập nhưng vẫn không hạn chế sự sáng tạo của học sinh..
<span class='text_page_counter'>(28)</span> Khi dạy tiết Tập làm văn trả bài viết, tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sôi nổi và đầy hứng thú, giảm bớt áp lực cho cả học sinh và giáo viên, giúp các em thích thú học tập. Sử dụng giải pháp của đề tài trong dạy học sẽ tạo cho không khí của lớp học trở nên thân thiện hơn, giữa giáo viên và học sinh có sự gắn kết, tôn trọng lẫn nhau. Đó chính là nền tảng giúp cho việc nâng cao hiệu quả của giờ học.. PHẦN C. KẾT LUẬN 1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp Trên đây là những kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 tự phát hiện lỗi và chữa lỗi trong bài văn của mình, của bạn. Hình thành và phát triển kĩ năng, kĩ xảo viết văn cho học sinh. Tạo động lực cho các em học tốt phân môn Tập làm văn và các môn học khác. Để đạt được điều này, giáo viên cần chú ý : -Tạo cho học sinh một tâm thế học tập tích cực, tự giác. Muốn vậy, trong mỗi giờ học, giáo viên cần nghiên cứu kĩ tiến trình lên lớp, vận dụng phương pháp linh hoạt, sử dụng hình thức luyện tập phong phú, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các em. - Giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. - Giáo viên là người định hướng cho học sinh tự phát hiện kiến thức mới. Rèn cho các em có phương pháp học tập tích cực, sáng tạo. Thông qua việc sửa lỗi, học sinh sẽ học tốt các dạng bài văn trong chương trình tiến đến học tốt các nội dung nâng cao. Giáo viên cũng cần lưu ý học sinh trình bày bài sạch sẽ, khoa học, chữ viết đúng và đẹp. - Giáo viên phải nắm bắt được tâm sinh lí của học sinh khi học phân môn Tập làm văn đặc biệt là tiết trả bài viết để có kế hoạch trình bày sao cho dễ hiểu, dễ vận dụng. - Giáo viên phải tôn trọng học sinh, động viên, khuyến khích, khen thưởng các em kịp thời, tạo cho các em thêm yêu thích môn học. 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp - Giúp giáo viên có một phương pháp tối ưu để dạy phân môn Tập làm văn cho học sinh. - Tạo môi trường học tập thân thiện, giúp học sinh tích cực học tập, vận dụng làm.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> bài tập một cách chủ động. - Giúp học sinh biết hoạt động độc lập, biết tự tìm tòi kiến thức, vận dụng làm bài tập một cách chủ động. - Với phương pháp tổ chức này, học sinh nắm được kiến thức, biết dùng từ, đặt câu hợp lí, biết sử dụng câu đúng ngữ pháp, đúng văn cảnh, giàu tính sáng tạo và nghệ thuật. Giúp các em có ý thức trình bày bài sạch sẽ, khoa học, có thói quen kiểm tra, soát lại bài. - Góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh đối với phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn học khác nói chung. Những giải pháp mới của đề tài tạo ra một triển vọng lớn, có khả năng phát huy mạnh mẽ, tích cực và sâu rộng hơn. Nó là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy giáo viên và học sinh mở rộng hiểu biết về cách viết văn và có thể viết được một bài văn hay mang đậm tính sáng tạo và nghệ thuật. 3. Đề xuất, kiến nghị Dạy học sinh biết tự phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài làm của mình để tiến tới viết được một bài văn hoàn chỉnh là một vấn đề rất quan trọng, phức tạp nhưng mang lại hiệu quả cao. Chính vì vậy : - Đối với học sinh Các em cần thấy được tầm quan trọng của tiết tập làm văn trả bài viết nói riêng và phân môn Tập làm văn nói chung trong học tập và giao tiếp để có sự đầu tư hơn nữa và ý chí quyết tâm đạt được thành tích cao trong học tập. - Đối với giáo viên + Phải luôn học tập từ sách vở, từ đồng nghiệp để nâng cao tay nghề. Luôn cập nhật những phương pháp giảng dạy mới, vận dụng linh hoạt những ưu điểm của phương pháp cũ nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. + Nắm chắc chương trình sách giáo khoa và chuẩn kiến thức kĩ năng để việc dạy học đạt hiệu quả cao. + Phải tận tâm, tận tụy với nghề. Có trách nhiệm cao đối với học sinh, tìm ra những khiếm khuyết trong bài làm của học sinh để kịp thời uốn nắn. Cần động viên, quan tâm, kích thích hứng thú học tập của các em góp phần nâng cao chất lượng dạy học, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. - Đối với nhà trường và các cấp quản lí + Nhà trường cần tạo điều kiện để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức. Thường xuyên bổ sung thêm sách văn học thiếu nhi, sách tham khảo và các loại sách khác cho thư viện trường để tạo nguồn sách cho giáo viên và học sinh học tập..
<span class='text_page_counter'>(30)</span> + Phòng Giáo dục cần mở thêm chuyên đề về việc giảng dạy phân môn Tập làm văn (đặc biệt là tiết trả bài viết) để bồi dưỡng cho giáo viên phương pháp và cách thức tổ chức dạy nhằm nâng cao chất lượng môn học và gây hứng thú học tập cho học sinh. + Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập. + Quan tâm xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề cao. Kết quả nghiên cứu trên phần lớn là từ những kinh nghiệm của bản thân đúc kết được qua thực tế giảng dạy kết hợp với việc tìm tòi sách vở, học hỏi kinh nghiệm ở một số đồng nghiệp và tôi đã áp dụng trên lớp của mình thường xuyên, đạt được những kết quả đáng khích lệ. Bản thân mong muốn được đón nhận những ý kiến đóng góp của các nhà quản lý chuyên môn, các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn và có thể áp dụng rộng rãi hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn !. ……, ngày … tháng …. năm 201… Người viết đề tài.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> Ý KIẾN THẨM ĐỊNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP TRƯỜNG ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. ….., ngày tháng năm 201…. Ý KIẾN THẨM ĐỊNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM …………………………………………… …………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………...
<span class='text_page_counter'>(32)</span> Phù Mỹ, ngày. tháng. năm 2014.
<span class='text_page_counter'>(33)</span>
<span class='text_page_counter'>(34)</span>
<span class='text_page_counter'>(35)</span>
<span class='text_page_counter'>(36)</span>