Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra
1.1. Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra khi:
- Con chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại nếu tài sản của cha, mẹ không
đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó
để bồi thường phần còn thiếu. (Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015).
- Con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nếu bồi thường cịn
thiếu thì cha mẹ phải bồi thường phần cịn thiếu bằng tài sản của mình. (Khoản 2 Điều
586 BLDS 2015).
- Cha mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con dưới 15 tuổi gây ra trong
thời gian ở trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lí (nếu trường học, bệnh
viện, tổ chức khác chứng minh được mình khơng có lỗi trong quản lý). (Khoản 3 Điều
599 BLDS 2015).
Cơ sở pháp lý:
- Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015: “Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại
mà cịn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ
không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy
tài sản đó để bồi thường phần cịn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ
luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần cịn thiếu bằng tài sản của mình.”
- Khoản 3 Điều 599 BLDS 2015: “Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải bồi thường nếu chứng minh được
mình khơng có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của
người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.”
1
Đối với tình huống
Tình huống: Vào lúc 16 tuổi, Hùng đã đánh anh Bình bị thương (tổng thiệt hại là 10
triệu đồng), lấy của anh Bình một đồng hồ (bán cho người đi đường được 2 triệu đồng)
và một xe đạp hiện đang gửi nhà một người bạn. Sau khi bị bắt, Hùng khai là có ăn
trộm một số đồ vật của những người trong chợ và bán được 7 triệu đồng. Hiện nay,
Hùng khơng có bất kì tài sản nào.
1.2. Tịa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tịa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm
Cơ sở pháp lý:
- Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015:“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.”
- Khoản 2 Điều 590 BLDS 2015: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy
định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà
người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa
thuận; nếu khơng thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm
phạm khơng q năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
- Giải thích: Hùng (16 tuổi) đánh anh Bình bị thương và tổng thiệt hại là 10 triệu
đồng, căn cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015, khoản 2 Điều 590 BLDS 2015 thì
Hùng có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại đã gây ra cho anh Bình. Tuy nhiên, hiện nay
Hùng khơng có bất kì tài sản nào nên căn cứ theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 thì
cha mẹ của Hùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Hùng gây ra cho anh Bình.
1.3. Tịa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc đồng hồ
và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết
trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
- Cơ sở pháp lý:
+ Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
2
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.”
+ Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015:“Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại
mà cịn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ
không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy
tài sản đó để bồi thường phần cịn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ
luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần cịn thiếu bằng tài sản của mình.”
+ Điều 589 BLDS 2015: “Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.”
- Chiếc đồng hồ có thể được bồi thường, nó rơi vào trường hợp tài sản bị mất
theo khoản 1 Điều 589 BLDS 2015, do vậy hành vi xâm phạm tài sản gây thiệt hại
(làm mất đồng hồ của Bình) phải bồi thường theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015,
nhưng vì Hùng mới 16 tuổi, khơng có bất bất kỳ tài sản nào để bồi thường nên căn cứ
theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 Tịa có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh
Bình.
- Cịn chiếc xe đạp hiện đang gửi ở nhà bạn của Hùng, vẫn có thể trả lại được
nên chưa thuộc trường hợp nào của thiệt hại do tài sản bị xâm phạm theo Điều 589
BLDS 2015, nên Tịa khơng thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường với chiếc xe đạp.
Trong bản án số 19/2012/DSST ngày 12/06/2012 của TAND huyện Cư M'gar
tỉnh Đắk Lắk cũng theo hướng buộc cha mẹ có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho cậu
con trai tên Hậu, chưa đủ 16 tuổi, khơng có bất kỳ tài sản riêng nào. Hậu là người
có lỗi, đã điều khiển xe máy đâm vào xe máy của nguyên đơn là bà Nam, gây thiệt hại
về sức khỏe cho nguyên đơn.
3
1.4. Tịa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng
mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 584 BLDS 2015:“Người nào có hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Theo đó, bồi thường thiệt hại phát sinh giữa một bên gây thiệt hại và một bên bị
thiệt hại tức là những người trong chợ. Việc nộp ngân sách nhà nước khoản tiền Hùng
có được do lấy trộm lại tồn tại một chủ thể khác ngoài quy định của điều luật nêu trên
là nhà nước. Căn cứ theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 thì cha mẹ phải chịu trách
nhiệm bồi thường cho con chưa thành niên gây thiệt hại chứ không có quy định nào
buộc cha mẹ phải có trách nhiệm nộp ngân sách nhà nước nên “việc Tòa án địa phương
buộc cha mẹ có trách nhiệm nộp tiền sung quỹ nhà nước là mở rộng phạm vi trách
nhiệm của cha mẹ và việc mở rộng này là khơng có lý do thuyết phục” 1. Vậy nên Tịa
án khơng thể buộc cha mẹ của Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng
mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ.
Trong thực tiễn xét xử đã tồn tại những vụ việc tương tự, trong Quyết định số
04/HĐTP- HS nêu ở Câu 3, theo Hội đồng Thẩm phán: “Tòa án các cấp buộc bố mẹ bị
cáo phải nộp số tiền 7.570.000 đồng do bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm
cắp được là không đúng quy định của pháp luật dân sự”.
1.5. Tịa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình khơng? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 586 BLDS 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài
sản của mình.”
Vậy, Tịa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình nếu như
tài sản cá nhân của Hùng không đủ để bồi thường cho anh Bình.
1 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận án, Nxb Hồng Đức- Hội luật
gia Việt Nam 2016, tr.110.
4
Đối với Bản án số 19
Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện
Cưm’Gar tỉnh Đắk Lắk
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nam.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ơng Mai Văn Thụ.
Người thực hiện hành vi gây hậu quả: Cháu Mai Công Hậu.
Cháu Mai Công Hậu (con ông Thụ) điều khiển xe đâm vào bà Nguyễn Thị Nam,
gây thương tích cho bà Nam. Vào thời điểm gây tai nạn cháu Hậu chưa đủ 16 tuổi là
người chưa thành niên và khơng có tài sản riêng nên Tịa buộc bố mẹ cháu (Nguyễn Thị
Thêm và Mai Văn Thụ) bồi thường cho bà Nam. Bà Thêm cho rằng bà và ông Thụ đã ly
hôn, cháu Hậu hiện đang được ông Thụ trực tiếp ni dưỡng nên bà khơng có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nam do hành vi của cháu Hậu gây ra.
Quyết định của Tòa án: Bác bỏ lập luận của bà Thêm, cho rằng việc ly hôn giữa
hai vợ chồng không làm chấm dứt nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chúng, buộc bà Thêm
và ông Thụ phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Nam.
1.6. Theo Tịa án, cha mẹ ly hơn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường khơng? Cuối cùng, Tịa án đã buộc ai phải bồi thường thiệt hại.
Theo Tịa án, cha mẹ ly hơn khơng có ảnh hưởng tới việc xác định người phải
chịu trách nhiệm bồi thường. Trong phần XÉT THẤY, Tòa án đã nêu rõ: “Bà Thêm
cho rằng bà và ông Thụ đã ly hơn, Tịa án đã giao cháu Hậu cho ông Thụ trực tiếp
nuôi dưỡng nên bà không có trách nhiệm về hành vi của cháu Hậu, lập luận của bà
Thêm là khơng được chấp nhận vì việc ly hơn giữa hai vợ chồng không làm chấm dứt
nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chung.”.
Cuối cùng Tòa án đã buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị Thêm phải liên
đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam là 42.877.000đ, chia theo phần ông
Thụ và bà Thêm mỗi người phải bồi thường 21.438.500đ.
1.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn bản
cũng như so sánh pháp luật).
Theo nhóm chúng tơi, hướng giải quyết trên của Tịa án đã hoàn toàn hợp lý.
5
Cơ sở pháp lý: khoản 2 điều 586 BLDS 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần cịn thiếu bằng tài sản
của mình.”
Đối chiếu với bản án ta thấy, Tịa án đã nhận định vào thời điểm gây ra tai nạn
cho bà Nam thì Hậu chưa đủ 16 tuổi, là người chưa thành niên và khơng có tài sản riêng
để bồi thường thiệt hại nên việc yêu cầu cha mẹ là ông Thụ và bà Thêm bồi thường
thiệt hại cho bà Nam là phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo nhóm chúng tơi, hướng giải quyết như vậy sẽ đảm bảo quyền lợi cho bên
bị thiệt hại, cụ thể trong tình huống này là bà Nam. Mặc dù Hậu gây ra thiệt hại cho bà
khi chưa đủ mười sáu tuổi và khơng có tài sản để bồi thường, nhưng dựa theo quy định
tại khoản 2 điều 586 BLDS 2015 thì bà Nam có quyền u cầu cha mẹ của Hậu liên
đới bồi thường thiệt hại cho bà.
Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2014 cũng theo hướng cha mẹ phải bồi
thường khi con chưa thành niên, hoặc con mất năng lực hành vi dân sự theo Điều 74:
“Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự”.2
Điều 457 của Quốc Triều Hình Luật quy định Trách nhiệm của cha mẹ bồi
thường tang vật thay cho con khi con vi phạm những điều mà pháp luật cấm. Cụ thể:
“Các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha
bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều bồi thường thay cho con những tang vật
ăn trộm ăn cướp”.3
2 Luật Hơn Nhân và Gia Đình 2014
3 Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, NXB Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam- tr.91
6
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm cơng gây ra
Tóm tắt Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tịa án nhân dân tỉnh Bình
Định
Bị cáo: Ơng Cao Chí Hùng.
Bị hại: Anh Trần Ngọc Hải.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu Thủy.
Bị đơn dân sự: Cơng ty TNHH vận tải Hồng Long.
Vào ngày 30/4/2009, anh Cao Chí Hùng điều khiển xe ơ tơ khách của cơng ty
TNHH vận tải Hồng Long chở khách đi trên đường QL1D với tốc độ khoảng 40km/h,
đây là đoạn đường có vạch sơn liền nét giữa đường, Hùng điều khiển xe ô tô chiếm sang
phần đường bên trái nên đã để góc dưới bên trái đầu xe ơ tô tông vào xe mô tô ngược
chiều do anh Hải điều khiển đi đúng phần đường, hậu quả anh Hải chết tại chỗ.
Cơng ty TNHH vận tải Hồng Long kháng cáo không đồng ý bồi thường cho bị
hại; chị Nguyễn Thị Thu Thủy yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo và không đồng ý
nhận tiền cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mà nhận trong một lần; bị cáo Cao Chí Hùng
u cầu giảm nhẹ hình phạt.
Quyết định của Tịa án: chấp nhận kháng cáo của bị cáo, khơng chấp nhận kháng
cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại và của bị đơn dân sự.
2.1. Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 cịn có thêm quy định của
Điều 600?
Theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật
khác có liên quan quy định khác.” Vậy về nguyên tắc chung là người nào gây ra thiệt hại
cho người khác thì phải bồi thường.
Tuy nhiên, ngồi Điều 584 cịn có quy định riêng về người bồi thường thiệt hại
không phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại mà là do người làm công, người học nghề
gây ra tại Điều 600 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện cơng việc được giao và có
quyền u cầu người làm cơng, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn
7
trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” Nhìn tổng thể, Điều 600 quy định hai
vấn đề: thứ nhất là quan hệ giữa người bị thiệt hại và người sử dụng người làm công, thứ
hai là quan hệ giữa người làm công và người sử dụng người làm công sau khi đã bồi
thường cho người bị thiệt hại.
Việc quy định thêm Điều 600 tạo điều kiện tốt hơn cho người bị hại về việc bồi
thường đồng thời xét đến trách nhiệm của người sử dụng người làm công.
2.2. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường thiệt
hại do người làm cơng gây ra?
Theo Bản án số 285/2009/HSPT có nêu: “Bị cáo là lái xe thuê cho Công ty
TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật dân
sự thì Cơng ty TNHH vận tải Hồng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền
theo quy định của pháp luật.”
2.3. Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra.
Căn cứ Điều 600 BLDS 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do người làm công
gây ra: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện cơng việc được giao và có quyền u cầu người làm
cơng, người học nghề có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật.”
Các điều kiện để áp dụng quy định bồi thường thiệt hại là:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Là hành vi trái pháp luật (cụ thể trong vụ việc là ông Hùng đã lái xe vi phạm luật
giao thơng);
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra (trong vụ
việc là do ông Hùng lái xe vi phạm luật giao thông đã gây ra tai nạn khiến anh Hải chết).
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2015 (nay là Điều
600 BLDS 2015) để buộc Cơng ty Hồng Long bồi thường (đánh giá từng điều kiện
nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).
Việc tịa án vận dụng Điều 600 BLDS 2015 để buộc cơng ty Hồng Long bồi
thường là hợp lý, đúng với quy định của pháp luật và phù hợp với vụ việc. Cụ thể:
8
- Thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra: ông Hùng là tài xế lái thuê
cho công ty TNHH vận tải Hoàng Long.
- Thiệt hại gây ra trong khi thực hiện công việc được giao: ông Hùng gây ra thiệt
hại về tính mạng cho anh Trần Ngọc Hải khi đang thực hiện công việc do công ty Hồng
Long giao là điều khiển xe ơ tơ khách BKS: 16L-3411 của cơng ty TNHH vận tải Hồng
Long chở khách đi từ Hải Phòng đến TP.HCM .
- Đối tượng bồi thường thiệt hại là cá nhân, pháp nhân: công ty Hồng Long phải
bồi thường thiệt hại do ơng Hùng gây ra.
2.5. Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hồng Long và xe là của ơng Hùng
thì ơng Hùng có phải bồi thường khơng? Vì sao?
Nếu ơng Hùng khơng làm việc cho Cơng ty Hồng Long và xe là của ơng Hùng thì
ơng Hùng phải bồi thường.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Theo quy định trên thì ơng Hùng đã gây thiệt hại là làm chết một người, do đó
hành vi của ơng Hùng với lỗi vơ ý đã xâm phạm đến tính mạng của người khác. Vì vậy,
ơng Hùng phải bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở khoản 1 Điều 604 và Điều 610 BLDS
2005 chứ không bồi thường dựa trên cơ sở Điều 622 BLDS 2005.
2.6. Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tịa án, ơng Hùng khơng phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?
Đoạn của bản án cho thấy, theo Tồ án, ơng Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ
bồi thường cho người bị thiệt hại: “… theo quyết định của án sơ thẩm mặc dù bị cáo
không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị hại nhưng đã tự nguyện nộp 5.000.000đ
để cùng với Cơng ty TNHH vận Hồng Long khắc phục hậu quả xảy ra, hồn cảnh gia
đình bị cáo hiện nay gặp nhiều khó khăn, bản thân bị cáo quá trình tạm giam giữ bị đau
ốm”.
9
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến trách
nhiệm của ơng Hùng đối với người bị thiệt hại.
Trong bản án trên, ông Hùng chỉ là người làm cơng cho Cơng ty Hồng Long (có
mối quan hệ mệnh lệnh và chỉ dẫn).
Theo Điều 622 BLDS 2005 quy định:
“Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm
công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện cơng việc được giao”.
Trong trường hợp này, Cơng ty Hồng Long là người sử dụng người làm công (ông
Hùng) nên phải chịu trách nhiệm bồi thường dù công ty không có lỗi, khơng có hành vi
trái pháp luật. Về ngun tắc, khi anh Hùng điều khiển xe để chở khách là đang thực hiện
cơng việc vì lợi ích của cơng ty, đang nhân danh công ty nên công ty phải chịu trách
nhiệm về hành vi của người này. Đây cũng là xu hướng của pháp luật một số nước. Chẳng
hạn như ở Thổ Nhĩ Kì thực tiến xét xử và hướng sửa đổi văn bản pháp luật cũng theo
hướng này. Như vậy việc Tịa án giải quyết theo hướng ơng Hùng khơng phải chịu trách
nhiệm bồi thường cho gia đình nạn nhân, thay vào đó là Cơng ty Hồng Long có trách
nhiệm bồi thường là hợp lý.
Mặt khác việc Tịa án u cầu ơng Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại
thì phải hồn trả lại một khoản tiền cho Cơng ty Hồng Long theo quy định của pháp luật
là đúng. Theo Điều 622 BLDS 2005, người bồi thường “có quyền u cầu người làm
cơng, người học nghề có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật”. Cũng theo BLDS người sử dụng người làm công được u cầu
hồn trả một khoản tiền khi người làm cơng có lỗi trong việc gây thiệt hại. Quay lại
trường hợp trên, thiệt hại xảy ra là do lỗi của ông Hùng (do ông Hùng điều khiển xe ô tô
lấn sang phần đường bên trái, va chạm với xe mô tô đi ngược chiều gây ra tai nạn). Như
vậy sau khi bồi thường cho người bị thiệt hại, Cơng ty Hồng Long có quyền u cầu ơng
Hùng hồn trả một khoản tiền nhất định.
2.8. Cho biết suy nghĩ của anh chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực
tiếp ông Hùng bồi thường.
Đối với trường hợp ông Hùng, do điều khiển xe ô tô khách lấn qua phần đường
bên trái va chạm với xe mô tô đi ngược chiều nên đã gây ra tai nạn. Như vậy, ông Hùng tự
10
gây ra thiệt hại, có lỗi “trực tiếp”. Do đó, phía bên người bị thiệt hại có quyền trực tiếp
u cầu ông Hùng bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, nếu người bị thiệt hại mà trực tiếp yêu cầu ông Hùng bồi thường thì khả
năng bồi thường có thể hạn chế hơn so với pháp nhân là Cơng ty Hồng Long vì tại thời
điểm này gia đình bị cáo hùng gặp nhiều khó khăn, bản thân bị cáo trong thời gian bị tạm
giam lại bị đau ốm nên việc yêu cầu trực tiếp ơng hùng bồi thường là ít khả thi hơn.
Tại Điều 622 BLDS 2005 có quy định:
“Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường cho người làm công, người học nghề gây ra
trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền u cầu người làm cơng, người học
nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hồn trả một khoản tiền theo quy định của pháp
luật”.
Như vậy nếu người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu ông hùng bồi thường là vẫn đúng
với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khả năng yêu cầu bị cáo bồi thường là ít khả thi
bởi điều kiện gia đình bị cáo có nhiều hạn chế nên việc thực hiện nghĩa vụ sẽ gặp nhiều
khó khăn. Do vậy, theo nhóm người bị thiệt hại nên u cầu Cơng ty Hồng Long bồi
thường để đảm bảo quyền lợi của mình và đúng với quy định của pháp luật.
2.9. Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
cần được hiểu như thế nào? Vì sao?
Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) được hiểu theo 3 hướng:
- Thứ nhất, lỗi của người làm công đối với người bị thiệt hại.
- Thứ hai, lỗi của người làm công đối với người sử dụng người làm cơng (có thể là
khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của người sử dụng người làm công
và gây ra thiệt hại).
- Thứ ba, có thể là lỗi tổng hợp. Là lỗi của người làm cơng có cả lỗi của người bị
thiệt hại và người sử dụng người làm cơng.
2.10. Theo Tịa án, ơng Hùng có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) khơng? Vì sao?
Theo Tịa án, ơng Hùng có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015).
11
Vì ơng Hùng là lái xe th cho cơng ty Hồng Long đang vận chuyển khách của
cơng ty. Trong khi đang làm cơng việc được giao thì ơng Hùng đã có hành vi lấn chiếm
lịng đường của xe khác, làm cho một người bị chết tại chỗ.
Trong bản án có đoạn: “Bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải
Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật dân sự thì Cơng ty
TNHH vận tải Hồng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng
gây ra trong khi thực hiện cơng việc được giao và có quyền u cầu Cao Chí Hùng là
người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp
luật”.
2.11. Theo Tịa án, Cơng ty Hồng Long có được u cầu ơng Hùng hồn trả một
khoản tiền đã bồi thường cho người bị hại không? Đoạn nào của bản án cho câu trả
lời.
Theo Tòa án, Cơng ty Hồng Long được u cầu ơng Hùng hồn trả một khoản
tiền đã bồi thường cho người bị hại.
Đoạn thứ ba của bản án trong phần xét thấy đã cho câu trả lời: "Bị cáo là người lái
xe thuê cho Cơng ty TNHH vận tải Hồng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều
623 của Bộ luật dân sự thì Cơng ty TNHH vận tải Hồng Long phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có
quyền u cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hồn trả lại
một khoản tiền theo quy định của pháp luật."
2.12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến trách
nhiệm hồn trả của ơng Hùng.
Hướng giải quyết trên của Tịa là hợp lý.
Vì Tịa án đã xác định ơng Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại nên Cơng
ty TNHH Hồng Long có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ơng Hùng gây ra theo Điều
600 BLDS 2015. Ngoài ra, theo Điều 600 BLDS 2015 thì cá nhân, pháp nhân có quyền
u cầu người làm cơng, người học nghề có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả
khoản tiền theo quy định của pháp luật. Trong đó, ơng Hùng là người có lỗi và lỗi của ơng
Hùng đã gây chết người nên Tịa án buộc ơng phải có trách nhiệm bồi thường hoàn trả là
phù hợp.
12
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
Tóm tắt Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/05/2017 của TAND huyện Đầm Dơi
tỉnh Cà Mau.
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nga.
Bị đơn: Ơng Lê Phong Nhã.
Bà Nga khởi kiện ơng Nhã vì heo của bà bị chó nhà ơng Nhã cắn chết và yêu
cầu ông Nhã bồi thường cho bà giá trị 1.200.000 đồng. Trong quá trình giải quyết bà
Nga xác định 1 phần lỗi là do bà nên thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là yêu cầu
ông Nhã bồi thường 1/2 giá trị con heo. Yêu cầu của bà Nga được chấp nhận bởi lẽ
xảy ra sự việc trên có một phần lỗi của bà trong việc quản lý vật ni của mình.
Quyết định của Tịa án: Chấp nhận yêu cầu của bà Nga, buộc ông Nhã có
nghĩa vụ bồi thường cho bà Nga giá trị ½ con heo với số tiền là 500.000 đồng
3.1. Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?
BLDS có sử dụng thuật ngữ "súc vật" tại Điều 603 BLDS 2015 Bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra:
“Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác.
Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử
dụng súc vật, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Trường hợp người thứ ba hồn tồn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người
khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có
lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người
chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật
đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”
3.2. BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì khơng?
BLDS 2015 KHƠNG định nghĩa "súc vật" là gì.
13
Theo một số tài liệu thì được định nghĩa như sau: “Súc vật hay cịn gọi là vật ni
theo cách hiểu chung nhất là những lồi động vật được ni trong nhà, chúng có thể
được thuần hóa (hồn tồn) hoặc bán thuần hóa (thuần hóa một phần) hoặc được thuần
dưỡng, huấn luyện. Súc vật có thể bao gồm gia súc, gia cầm, thú cưng hoặc vật nuôi
khác. Súc vật được nuôi và sử dụng trong nông nghiệp, công nghiệp, thể thao, giải trí,
bầu bạn và các cơng việc khác.4”
3.3. Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?
Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu khá rộng.
Trong Bản án số 222/2007/DSPT ngày 02/08/2007 của TAND tỉnh Kiên Giang
liên quan đến việc con chó của bà Thánh qua nhà chị Tha kiếm ăn, trong lúc giành miếng
thịt với cháu Thoa là con của chị Tha thì con chó đã táp trúng miệng cháu Thoa. Ở đây tịa
án đã xem chó là súc vật và áp dụng Điều 609 BLDS 2005 và Điều 625 BLDS 2005 quy
định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra để xét xử.
Trong Bản án số 100/DSPT ngày 07/06/2005 của TAND tỉnh Trà Vinh đề cập đến
việc anh Khánh yêu cầu anh Thái và anh Tùng bồi thường thiệt hại vì xe ơm anh Khánh
th do anh Thái điều khiển đã cán phải con ngỗng làm anh và đứa con mới 22 tháng tuổi
bị té, lúc đó có 1 chiếc xe ba gác do anh Tùng điều khiển ở phía sau chạy tới đụng vào
anh làm anh bị thương nặng và con anh bị tử vong. Ở đây, tòa án cũng xem ngỗng là súc
vật, nên thiệt hại mà con ngỗng gây ra trong bản án này cũng được đưa vào là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại để xác định bồi thường.
3.4. Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?
Cuối đoạn 3 của phần XÉT THẤY đã cho thấy thiệt hại là do chó gây ra, cụ thể:
“Đối với bà Nga cũng là người sở hữu vật nuôi trong nhà là heo con nhưng cũng không
quản lý đúng qui định, để heo con chạy qua đất của ông Nhã, hậu quả làm chó của ơng
Nhã cắn chết heo của bà Nga, làm cho bà Nga bị thiệt hại 1 con heo trị giá 1.000.000đ”.
3.5. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra?
Cuối đoạn 3 của phần XÉT THẤY đã cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định
về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, cụ thể: “Theo điều 625 Bộ luật dân sự 2005 quy
định: “1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác;
14
nếu người bị thiệt hại hồn tồn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt hại cho mình
thì chủ sở hữu không phải bồi thường”, “4. Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập
quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.”
3.6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra.
Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra trong vụ
việc này là hợp lý.
Đầu tiên, ông Nhã và bà Nga đều xác nhận thú nuôi ở đây đều được thả rông. Việc
cả hai đều thừa nhận việc heo con của bà Nga bị chết nhưng không thỏa thuận được mức
bồi thường thiệt hại đó.
Thứ hai, việc áp dụng Tập quán pháp ở khoản 4 Điều 625 BLDS 2005:“Trong
trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải
bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.” để xử lý
nhưng có thể thấy việc lỗi do của cả hai bên đã không quản lý vật ni của mình nên gây
thiệt hại cho bà Nga. Việc chia 50% mức độ lỗi là hợp lý, không trái với luật.
3.7. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt hại.
Điều 617 BLDS 2005 có quy định về Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người
bị thiệt hại có lỗi: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người
gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu
thiệt hại xảy ra hồn tồn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải
bồi thường”.
Một trong những quan điểm chỉ đạo xun suốt trong q trình xây dựng, hồn
thiện BLDS 2015, là ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong
giao lưu dân sự; bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực
tiễn của pháp luật dân sự. Nội dung quy định tại Điều 617 BLDS năm 2005, được nhà
làm luật sắp xếp lại theo hướng phù hợp hơn với cơ cấu từng điều trong bộ luật mới.
Do vậy, có thể thấy nội dung quy định tại khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 về Căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau: “Người gây thiệt hại không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện
bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác”. Quy định tại khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 về
15
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt
hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra” chính là nội dung
quy định của Điều 617 BLDS năm 2005.”
3.8. Suy nghĩ của anh chị về việc Tịa án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà bà
Nga bị xâm hại?
Toà án nhận định bà Nga có lỗi là hợp lí. Như nhận định đã rõ, áp dụng Điều 625
BLDS 2005 là phù hợp với việc thực tế là bà Nga thả nuôi heo theo tập qn mà khơng
quản lí để là ngun nhân dẫn đến việc heo vào phần đất của ông Nhã bị chó của ơng cắn
chết 01 con. Trong trường hợp này, người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại
thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Trong BLDS năm 2015, khơng có quy định cụ thể về mức độ lỗi, vì vậy, việc xác
định trách nhiệm dân sự “hỗn hợp lỗi” trong trường hợp cả người gây thiệt hại và người
bị thiệt hại đều có lỗi gây ra thiệt hại thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng
với mức độ lỗi của mình. Mức độ lỗi trong trường hợp này được xác định dựa trên những
cơ sở lý luận pháp luật hình sự trong việc phân biệt mức độ lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý của một
người mà gây ra thiệt hại thì tương ứng với nó mức bồi thường thiệt hại có khác nhau.
Như cách đặt vấn đề ở phần trên, lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, có tác
động trực tiếp đến hành vi của người đó và thiệt hại xảy ra do hành vi vơ ý vì cẩu thả, vơ
ý vì q tự tin hoặc cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu tố tâm lý
chủ quan của người đó. Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ vào mức độ lỗi của
mỗi bên đã có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó.
3.9. Việc Tịa án khơng buộc ơng Nhã bồi thường tồn bộ thiệt hại cho bà Nga có
thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Tịa án khơng buộc ơng Nhã bồi thường tồn bộ thiệt hại cho bà Nga là thuyết
phục. Vì bà Nga có một phần lỗi, và ơng Nhã cũng có một phần lỗi. Và 2 lỗi này đều
ngang nhau về việc khơng quản lí vật ni. Và bà cũng đã u cầu ông Nhã trả 1/2 trị giá
con heo như đã nói trong bản án, như vậy thì Tịa khơng buộc ông Nhã bồi thường toàn
bộ là điều thuyết phục, hợp lý, hợp tình.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật:
1. Bộ luật Dân sự 2005;
2. Bộ luật Dân sự 2015.
II. Tài liệu tham khảo:
1. Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
2. Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
3. Lê Hà Huy Phát, Sách tình huống Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 34;
4. Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2018.
17