BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Lý
luận của CN Mác Lênin về thất nghiệp và
liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Hà Nội, 01 tháng 06 năm 2021
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu.
I/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề thất nghiệp.
II/ Liên hệ thực tiễn vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
2. Nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp.
3. Tác động của thất nghiệp.
4. Các chính sách, giải pháp cải thiện vấn đề thất nghiệp ở nước ta hiện
nay.
Tài liệu tham khảo.
2
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ 21- cùng với thị trường lao động dồi dào, trẻ, năng động, đầy tiềm năng,
Việt Nam được dự đốn sẽ trở thành một nước có nền kinh tế phát triển vượt bậc với
tốc độ kinh tế hiện nay đã thuộc hàng top của thế giới. Là một nước đang trên đà phát
triển, có sự đổi mới về kinh tế từ chỗ chuyển từ kinh tế tập trung sang cơ chế thị
trường nhiều thành phần đến các chính sách cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
mở cửa,...đất nước ta đã không ngừng đạt được những thành tựu to lớn với tốc độ
phát triển kinh tế nhanh chóng đặc biệt trong tình hình dịch bệnh khó khăn như hiện
nay, nước ta đã có những thành cơng nhất định.
Bên cạnh những thành tự đã đạt được chúng ta cũng vấp phải một số vấn đề khó
khăn trong nền kinh tế. Do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, thị trường lao
động Viet Nam đã dần bộc lộ ra nhiều yếu điểm, và rõ ràng hơn cả là tình trạng thất
nghiệp đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là tỷ lệ sinh viên ra trường thất nghiệp cịn
lớn- một thực trạng mà gần như khơng có trong nền kinh tế bao cấp, khiến các nhà
kinh tế và các nhà hoạch định chính sách phải đau đầu để đưa ra các giải pháp giảm
thiểu tỷ lệ thất nghiệp, cân đối sự mất cân bằng giữa cung và cầu lao động khi mà
cung thừa quá nhiều so so với cầu,... Là một sinh viên, đặc biệt là một sinh viên kinh
tế đang học tập tại trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, em không thể không quan tâm
tới vấn đề thất nghiệp. Đó là vấn đề vơ cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới các
bạn sinh viên, là mối lo nghĩ hàng đầu của sinh viên hiện nay.
Đây không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà cịn là vấn đề chung của tồn
thế giới. Nó khơng tự nhiên xuất hiện mà tất cả đều có căn nguyên của nó và tác động
mạnh mẽ đến nền kinh tế. Để đưa ra những giải pháp khắc phục hiệu quả thì chúng ta
cần hiểu về tình trạng thất nghiệp, nguyên nhân, thực trạng của thất nghiệp... Qua
việc phân tích quan điểm Mác-Lênin, ta sẽ vận dụng để phân tích, giải quyết vấn đề
trên. Vì vậy, trong bài này, em xin trình bày hai vấn đề chính bao gồm quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề thất nghiệp và thực tiến thất nghiệp ở Việt Nam.
3
I.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề thất nghiệp.
Theo wikipedia, Thất nghiệp trong kinh tế học hiện đại được định nghĩa là tình
trạng người lao động muốn có việc làm mà khơng tìm được việc làm hoặc khơng
được tổ chức, công ty và cộng đồng nhận vào làm. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số
người lao động khơng có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội.
Trong lịch sử loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện trong xã hội tư bản. Ở xã
hội cộng đồng xã hội nguyên thủy, việc phải duy trì trật tự trong bầy đàn buộc mọi
thành viên phải đóng góp lao động và được làm việc. Trong xã hội phong kiến châu
Âu, truyền đời đất đai đảm bảo rằng con người ln có việc làm. Ngay cả trong xã
hội nơ lệ, chủ nô cũng không bao giờ để tài sản của họ (nô lệ) rỗi rãi trong thời
gian dài. Các nền kinh tế theo học thuyết Mác-Lênin cố gắng tạo việc làm cho mọi cá
nhân, thậm chí là phình to bộ máy nếu cần thiết (thực tế này có thể gọi là thất nghiệp
một phần hay thất nghiệp ẩn nhưng đảm bảo cá nhân vẫn có thu nhập từ lao động).
Thất nghiệp - một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng
của ý thức hệ và nhận thức xã hội nên vấn đề thất nghiệp, đặc biệt là nguyên nhân dẫn
đến thất nghiệp được các nhà kinh tế học lý giải rất kác nhau. Người đầu tiên nghiên
cứu về thất nghiệp là Uyliam Petty1. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương nên
Uyliam Petty cho rằng, để giảm bớt tình trạng thất nghiệp thì phải đẩy mạnh xuất
khẩu ra bên ngoài để thu hút lực lượng lao động thừa trong xã hội (đây cũng là một
nguyên nhân để các nước tư bản mở rộng thuộc địa). Tuy nhiên, Adam Smith mới là
người nghiên cứu một cách có hệ thống về việc làm và thất nghiệp, ông đã phân tích
các nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Cùng với Ricardo, Adam Smith khẳng định
rằng, nạn nhân khẩu thừa (tức thất nghiệp) là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế
thị trường. Adam Smith cho rằng, việc sử dụng máy móc đã gạt bớt cơng nhân ra khỏi
q trình sản xuất. Đồng thời, sự biến động của sản xuất làm cho công việc của người
4
lao động trở nên bấp bênh, dễ bị thất nghiệp. Ngồi ra, do sự tích tụ tư bản trong q
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản nên những ngời sản xuất nhỏ dễ bị phá sản làm
tăng đội quân thất nghiệp. Adam Smith còn cho rằng, sự can thiệp quá mức của Nhà
nước làm cản trở việc di chuyển của người lao động giữa các ngành trong thị trường
lao động, làm ảnh hưởng đến việc giải quyết việc làm, tăng thêm tình trạng thất
nghiệp. Sau Adam Smith và Ricardo, nhà kinh tế học Keynes trong "Lý thuyết về việc
làm, lãi suất và tiền tệ" đã nghiên cứu rất sâu về thất nghiệp trên cơ sở phân tích cung
- cầu về lao động trong thị trường và các mối quan hệ kinh tế xã hội khác. Keynes
thừa nhận vấn đề thất nghiệp không phải là những hiện tượng độc lập của đời sống
kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc đạt được cân bằng
của hệ thống kinh tế. Theo ông, nạn thất nghiệp sẽ tồn tại dưới dạng "bắt buộc", là
một trạng thái mà trong đó "tổng cung về lao động của những người lao động muốn
làm việc thì tại mức tiền lương danh nghĩa đó nếu lớn hơn khối lượng làm việc hiện
có". Ơng cho rằng, để giảm thất nghiệp thì cần phải tạo nhiều chỗ làm việc trên cơ sở
tăng đầu tư cho sản xuất. Lý thuyết của Keynes mặc dù còn những phiến diện và hạn
chế của lịch sử nhưng những luận điểm mà ơng nêu ra vẫn cịn có ý nghĩa đến ngày
nay.
Dựa trên cơ sở các học thuyết trên, CN Mác giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nạn
nhân khẩu thừa ( thất nghiệp). Giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy
trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Thật vậy, trong xã hội tư bản, giới
chủ chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận, mặt khác họ không phải chịu trách
nhiệm cho việc sa thải người lao động, do đó họ vui lịng chấp nhận tình trạng thất
nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người lao động khơng có các
nguồn lực sản xuất trong tay để tự lao động phải chấp nhận đi làm thuê hoặc thất
nghiệp.
Trong một bài phân tích của Redflag có đề cập đến cách Mác giải thích tình
trạng thất nghiệp. Ngày nay, tỷ lệ thất nghiệp 5-6% được coi là “bình thường”. Ở hầu
hết phần cịn lại của thế giới, ít nhất là ở các nước phát triển cũng có sự gia tăng
tương tự trong tỷ lệ thất nghiệp. Tại sao lại có điều này? Lý do cơ bản là chủ nghĩa tư
bản tạo ra và cần đến sự thất nghiệp.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, thất nghiệp thực chất là hậu quả của q trình
tích lũy tư bản. Vậy, tích lũy tư bản xuất phát từ đâu? Câu trả lời là nguồn gốc của
tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Tích lũy tư bản là tăng cường bóc lột giá trị thặng
5
dư cả về chiều rộng và chiều sâu. Nó bị ảnh hưởng bởi trình đọ bóc lột gí trị thặng dư,
năng suất lao động, chênh lệch giữa tư bản sử dụng, tư bản tiêu dùng và đại lượng tư
bản ứng trước.
Q trình tích lũy tư bản là q trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Tư bản
tồn tại dưới dạng vật chất và giá trị. Cấu tạo của tư bản bao gồm cấu tạo kỹ thuật và
cấu tạo giá trị. Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi
cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật c.a tư bản. Trong đó,
cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu cần sản xuất với số lượng
tư liệu lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Cấu tạo giá trị của tư bản
là tỷ lệ theo đó tư bản phân thành tư bản bất biến và tư bản khá biến cần thiết để tiến
hàng sản xuất.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng hay cấu tạo kỹ thuật tăng, nghĩa là
tăng tỷ lệ số lượng tư liệu sản xuất đối với lượng sức lao động. Cụ thể như Các Mác
đã giải thích trong các bài viết về kinh tế cách mạng của ông, sự đầu tư của các nhà tư
bản có thể được chia thành 2 phần: phần thuê nhân công và phần mua hoặc thuê
phương tiện sản xuất – máy móc, nguyên liệu, nhà máy.
Khi chủ nghĩa tư bản dần phát triển có hai quy trình làm giảm phần vốn
dùng để th nhân cơng. Thứ nhất là q trình sát nhập do cạnh tranh: cá lớn nuốt cá
bé hay hai công ty con sát nhập để tạo ra công ty lớn hơn đủ sức cạnh tranh trên thị
trường. Và theo một lẽ thơng thường, cứ khi nào có sự sát nhập của các cơng ty, ln
có một kết quả chắc chắn là sẽ xuất hiện sự sa thải. Khi đó, cơng ty sát nhập được
hưởng lợi nhiều hơn về “quy mô kinh tế”, nghĩa là một người lao động có thể vận
hành một lượng vốn lớn hơn của công ty. Một quá trình khác là sự thúc đẩy nhằm
tăng năng suất của các nhà tư bản do cạnh ranh gây ra. Năng suất cao hơn, theo định
nghĩa, có nghĩa là sản xuất một số lượng lớn hơn các sản phẩm từ một khoản đầu tư
nhỏ hơn. Một cách để làm việc này là giảm lương và tăng giờ làm việc. Nhưng ln
có những giới hạn sinh lý cho việc này chẳng hạn như cách chính sách áp giá sàn về
lương của nhà nước,.... Một cách khác, lâu dài hơn và về cơ bản là khơng có giới hạn,
chính là cung cấp cho người lao động các máy móc và cơng cụ hiệu quả hơn và tất
nhiên khi đó, ít nhân cơng hơn được yêu cầu sản xuất một số lượng sản phẩm nhất
định và địi hỏi trình độ của cơng nhân phải cao hơn dẫn đến sự sa thải một lượng
người lao động. Điều này khơng có nghĩa là số lượng việc làm giảm liên tục. Các
ngành cụ thể có thể tìm được thị trường mới và mở rộng, các ngành công nghiệp mới
6
có thể được tạo ra nhu cầu cầu cơng nhân, nhu cầu về lao động tăng và giảm với
những thay đổi trong chu kỳ kinh tế. Nhưng điều đó có nghĩa là CNTB có khuynh
hướng dẫn dắt lao động ra khỏi sản xuất. Cầu tương đối về sức lao động có xu hướng
ngày càng giảm. Đó là nguyên nhân chủ yếu gây ra nạn nhân khẩu thừa tương đối.
Đó chính là mục đích của các nhà tư bản. Họ cần một nhóm cơng nhân mà
theo Mác gọi là “ đội qn dự trức cơng nghiệp” – những người có thể được cần đến
và bị ném ra theo yêu cầu thay đổi của các nhà tư bản. Khi nền kinh tế được cải thiện,
họ cần cơng nhân ngay thì họ sẽ thuê người thất nghiệp với một mức giá quá hời. Khi
kinh doanh bị giảm xuống, cần tiết kiệm chi phí sản xuất thì bỏ những người đó đi.
Các nhà kình tế học tư bản chủ nghĩa nói về cung và cầu lao động: bất kể tinh hình
của nền kinh tế như thế nào, nhóm người thất nghiệp sẽ giúp giữ vững ổn định mức
lương công nhân và câc yêu cầu khác giảm xuống. Mác chỉ ra rằng: “ Đội quân dự
trữ cơng nghiệp trong thời kỳ đình trệ và sự bình ổn làm giảm hoạt động của đội quân
lao động; trong giai đoạn sản xuất thừa và bùng nổ, nó kìm hãm sự kì vọng. Đội qn
dự trữ cơng nghiệp là trung tâm mà theo đó luật về cung cầu và cung ứng lao động có
hiệu quả. Nó giới hạn luật này trong những giới hạn hoàn toàn thuận tiện cho sự khai
thác và thống trị của giới tư bản.”
Thất nghiệp có ích cho các nhà tư bản tuy nhiên nó có những tác động xấu cho
tình hình an sinh xã hội. Thường niên, sẽ có những báo cáo chi tiết về tỷ lệ thất
nghiệp theo từng khu vực, từng tiêu thức để từ đó có những giải pháp điều chỉnh hợp
lý hướng tới phát triển kinh tế đi đôi với nâng cao đời sống người dân.
Công thức thường dùng để tính tỷ lệ thất nghiệp là:
Phân loại thất nghiệp:
Theo nguồn gốc: gồm 4 loại:
Thất nghiệp tạm thời
Thất nghiệp cơ cấu
7
Thất nghiệp chu kỳ
Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường
Theo sự tự nguyện: gồm 2 loại:
Thất nghiệp do mức lương khơng mong
muốn
Thất nghiệp do khơng có việc làm
Thực tiễn vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
II.
1.
Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam, khái niệm thất nghiệp được hiểu là những
người khơng có việc làm, có các hoạt động tìm kiếm việc làm và sẵn
sàng làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong giai đoạn tham
chiếu. Đổi mới kinh tế và chính trị trong 30 năm qua đã thúc đẩy
phát triển kinh tế và nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những
quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình thấp từ năm 2008. Mặc dù vậy, hệ thống bảo hiểm thất
nghiệp nói riêng và hệ thống an sinh xã hội nói chung tại Việt Nam
vẫn chưa hoàn thiện để phục vụ tốt người lao động, do đó đa số
người dân phải làm mọi cơng việc để tạo ra thu nhập nuôi sống bản
thân và gia đình. Đây cũng chính là ngun nhân khiến cho tỷ lệ
thất nghiệp ở Việt Nam thường thấp hơn so với các nước đang phát
triển.
Trước COVID-19, theo kết quả TĐTDS&NO 2019 của Tổng
cục Thống kê:
Tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam là 2,05%; trong đó
theo giới tính thì tỷ lệ thất nghiệp của nam giới từ 15 tuổi trở lên là 2,00%, còn ở nữ
giới là 2,11%.
Tỷ lệ thất nghiệp của người dân ở khu vực thành thị và nông thôn cũng có sự
khác biệt khá lớn. Việt Nam có tới 65,57% dân số cư trú ở khu vực nông thôn nhưng
tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn lại thấp hơn gần hai lần so với khu vực thành
8
thị. Tỷ lệ thất nghiệp chung của người dân từ 15 tuổi trở lên ở nơng thơn chỉ có
1,64% (trong đó ở nam giới là 1,59%, ở nữ giới là 1,69%); trong khi đó ở thành thị, tỷ
lệ này lên tới 2,93% (trong đó ở nam giới là 2,86%, cịn ở nữ giới là 3,01%). Sự khác
biệt về cơ hội tiếp cận thơng tin về việc làm, trình độ chun môn kỹ thuật và khả
năng lựa chọn công việc linh hoạt của người lao động có thể là nguyên nhân dẫn đến
sự chênh lệch này.
Tính theo vùng kinh tế, Đơng Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở
lên thất nghiệp cao nhất cả nước với 2,65% dân số; tại đây tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị là 2,96%, ở nơng thơn là 2,14%; cịn theo giới tính thì nữ giới lại có tỷ lệ thất
nghiệp cao hơn nam giới trong Vùng với mức tương ứng là 2,71% và 2,60%. Đứng
thứ 2 là Đồng bằng sông Cửu Long với tỷ lệ thất nghiệp chiếm 2,42% số dân trong
vùng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với tỷ lệ 2,14%. 2 Vùng kinh tế có tỷ
lệ thất nghiệp thấp nhất cả nước lần lượt là Trung du và miền núi phía Bắc 1,20% và
Tây Nguyên 1,50%.
Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất thuộc về nhóm lao động có trình độ cao đẳng
(3,19%), tiếp đến là nhóm có trình độ đại học (2,61%). Nhóm có tỷ lệ thất nghiệp
thấp hơn lại là những lao động trình độ thấp hơn như trung cấp (1,83%), sơ cấp
(1,3%) và khơng có trình độ chun mơn kỹ thuật (1,99%). Riêng đối với nhóm có
trình độ trên đại học, do nhu cầu cao về trình độ chun mơn trong thời kỳ đổi mới
nên có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất (chỉ 1,06%). Các số liệu cũng cho thấy, hầu như ở
các trình độ chuyên môn kỹ thuật tỷ lệ thất nghiệp ở nữ giới luôn cao hơn so với nam
giới, đặc biệt đối với nhóm lao động có trình độ sơ cấp (có tỷ lệ 4,57%). Điều đáng
nói là Kết quả Tổng điều tra cũng chỉ ra rằng, đối với tỷ lệ lao động thất nghiệp theo
trình độ tốt nhất đạt được, người thất nghiệp có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ
trọng cao trong tổng số lao động thất nghiệp (18,9%) trong khi người thất nghiệp
chưa được đào tạo hoặc chỉ được đào tạo ngắn hạn (bao gồm: Sơ cấp, trung cấp)
chiếm tỷ trọng thấp hơn rất nhiều (6,6%).
Tính theo cơ cấu dân số, những người thất nghiệp thường có
độ tuổi khá trẻ; Hầu hết nguồn thất nghiệp có độ tuổi từ 15-54 tuổi (
chiếm tới 91,7% tổng số người thất nghiệp của cả nước ); trong đó,
tỷ lệ thất nghiệp của nam giới từ 15-54 tuổi cao hơn nữ giới trong
cùng độ tuổi, tương ứng là 92,6% tổng số nam giới thất nghiệp và
90,9% tổng số nữ giới thất nghiệp. Người trong độ tuổi từ 25-54 tuổi
có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất, chiếm gần một nửa tổng số lao động
9
thất nghiệp của cả nước (47,3%); và thực trạng này ở khu vực thành
thị lên tới 52,7% và ở khu vực nơng thơn là 42,9%.
Trong tình hình dịch COVID-19,
Theo những số liệu mà Tổng cục Thống kê công bố ngày 16/4.
Theo đó, trong quý 1/2021, ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc
làm của lực lượng lao động trong độ tuổi lần lượt là 2,42% và 2,20%,
tăng so với cùng kỳ năm ngoái (tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao
động trong độ tuổi quý 1/2020 là 2,34%; thiếu việc làm là 1,98%).
Thơng tin về tình hình lao động, việc làm trong quý 1/2021,
Tổng cục Thống kê cho biết, số lao động từ 15 tuổi trở lên của cả
nước ước tính là 51 triệu người, giảm 1,1 triệu người so với quý
trước và giảm 180,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2020. Cũng
trong quý này, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ước tính đạt 68,7%,
giảm 1,6 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,1 điểm phần
trăm so với cùng kỳ năm trước. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong quý 1/2021 ước tính là 49,9 triệu người. Trong đó, 14,1
triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản,
chiếm 28,2% tổng số, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực
công nghiệp và xây dựng 16,1 triệu người, chiếm 32,3%, giảm
2,6%; khu vực dịch vụ 19,7 triệu người, chiếm 39,5%, tăng 1%.
Trong quý 1/2021, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước ước tính là
2,19%, trong đó khu vực thành thị là 2,96%; khu vực nông thôn là
1,76%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi của quý này là
2,42%, trong đó khu vực thành thị là 3,19%; khu vực nông thôn là
1,98%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) ước tính là
7,44%, trong đó khu vực thành thị là 10,34%; khu vực nông thôn là
5,99%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý này ước
tính là 2,20%, trong đó khu vực thành thị là 1,52%, trong khi tỷ lệ
này ở khu vực nông thôn là 2,60%. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động có
việc làm phi chính thức ngồi hộ nơng, lâm nghiệp, thủy sản q
1/2021 ước tính là 57,1%, trong đó khu vực thành thị là 48,4%; khu
vực nông thôn là 64,3%.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo thành thị, nông thôn, các
quý giai đoạn 2019-2021
10
Đơn vị: %
Như vậy, số người thất nghiệp giảm so với quý trước nhưng tăng so
với cùng kỳ năm trước. Dịch COVID-19 đã có những tác động khơng
nhỏ tới tình trạng thất nghiệp ở nước ta.
Nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp.
Với tình hình tỷ lệ thất nghiệp tăng như vậy thì ngun nhân
là do đâu? Có một số ngun nhân chủ yếu như:
2.
Đầu tiên, lý do lớn nhất mang tính thời sự đó là do dịch
COVID-19. Dịch COVID-19 nó đã làm biến động nền kinh tế tồn cầu
một cách nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, trong thời kỳ
giãn cách xã hội, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề đặc biết
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có nhiều doanh nghiệp phải sa thải bớt
nhân viên hoặc thậm chí là đóng cửa, phá sản. Điều này hiển nhiên
dẫn tới việc một lượng lớn công nhân thất nghiệp.
Lý do thứ hai, đó chính là do tình trạng “thừa thầy thiếu
thợ”. Theo thống kê, cả nước có hơn 2.200.000 sinh viên đang theo học ở các ngành
học tại các trường ĐH, CĐ, TCCN. Tuy nhiên, với phương pháp giảng dạy thiếu thực
tiễn, chú trọng vào lý thuyết hơn thực hành đã dẫn đến số lượng sinh viên tốt nghiệp
rất nhiều nhưng ít người có thể đáp ứng nhu cầu cơng việc thực tế ở các doanh
nghiệp. Sự chênh lệch trong cung cầu lao động và tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” là
những nguyên nhân chính làm cho hàng chục ngàn sinh viên phải rơi vào cảnh thất
nghiệp hay làm trái ngành nghề. Mỗi sinh viên phải cạnh tranh quyết liệt để được sự
11
công nhận của nhà tuyển dụng nhưng thực tế chỉ có số ít người so với số lượng cử
nhân tốt nghiệp được nhận vào làm.
Lý do thứ ba, do trình độ lao động còn thất, kiến thức còn lạc hậu. Đặc biệt,
việc mở nhiều trường đại học cao đẳng như hiện nay, khiến cho chất lượng đầu vào
sinh viên bị giảm xuống. Hơn nữa trình độ tiếng anh của sinh viên còn yếu, sinh viên
thiếu kỹ năng mềm trầm trọng và thiếu định hướng nghề nghiệp. Thiếu định hướng
nghề nghiệp cũng chính là 1 trong những vấn đề lớn nhất mà sinh viên gặp phải. Ở
Việt Nam, một số bạn chưa có định hướng rõ ràng về tương lai của mình, có một số
bạn sẽ chọn ngành theo sự sắp đặt của cha mẹ. Bên cạnh đó, một số bạn khác lại chọn
ngành Hot theo xu hướng đám đông mà chưa thật sự u thích và khơng phù hợp với
khả năng của mình. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng bộ phận sinh viên lười học
hay học cho có nên ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực, làm cho đầu ra cịn hạn chế.
Từ đó, dẫn đến một khối lượng lớn học sinh, sinh viên chưa cụ thể được yêu cầu nghề
nghiệp cần có của bản thân mà thiếu đi sự tự giác chuẩn bị trước các kỹ năng mà bản
thân có thể trao dồi theo thời gian trong q trình học tập.
Thứ tư, các chính sách áp giá sàn đối với mức lương lao động. Một mặt, nó
bảo vệ người sao động khỏi sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản, mặt khác vì tiền lương
cao hơn tiền lương cân bằng thị trượng dẫn đến các hãng tuyển ít nhân công đồng
thời yêu cầu đối với nhân công cao hơn, khắt khe hơn. Từ đó gây ra hệ quả thất
nghiệp khi cung lao động lớn hơn cầu lao động.
Như vậy, trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu gây ra thất nghiệp nhiều
như hiện nay.
3. Tác động của thất nghiệp.
a) Tác động tích cực
Thất nghiệp ngắn hạn giúp người lao động tìm cồng việc ưng ý phù hợp với
nguyện vọng và năng lực làm tăng hiệu quả xã hội.
Lợi ích xã hội: Làm việc phân bổ các nguồn lực hiệu quả hơn từ đó góp phần làm
tăng tổng sản lượng của nền kình tế trong dài hạn.
Thất nghiệp mang lại thời gian nghỉ ngơi và sức khỏe.
Thất nghiệp mang lại thời gian cho học hành và trau dồi thêm kỹ năng.
Thất nghiệp tạo sự cạnh tăng và tăng hiệu quả
Đối với doanh nghiệp: Thất nghiệp làm cho giá thuê nhân công rẻ, nguồn dự trữ
nhân công dồi dào.
b) Tác động tiêu cực
12
Hao phí nguồn lực xã hội: con người và máy móc. Quy luật Okun áp dụng
cho nền kinh tế Mỹ nói rằng 1% thất nghiệp chu kỳ làm sản lượng giảm 2,5% so với
mức sản lượng tiềm năng.
Công nhân tuyệt vọng khi thất nghiệp dài hạn. Khủng hoảng gia đình do
khơng có thu nhập. Đời sống nhân dân giảm. Tệ nạn xã hội ngày càng nhiều.
Chính phủ mất nguồn thuế thu nhập và phải trả thêm trợ cấp thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đồng nghĩa với tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
thấp-các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản
phẩm và dịch vụ.
Thất nghiệp cịn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm sản xuất dẫn đến tăng
trưởng kinh tế giảm.
Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa dịch vụ khơng có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả sụt giảm. Hơn
nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi, do đó mà cơ hội đầu
tư cũng ít đi. Các doanh nghiệp giảm lợi nhuận.
4. Các chính sách, giải pháp cải thiện vấn đề thất nghiệp ở nước ta hiện nay.
Tăng nguồn vốn đầu tư (chủ yếu lấy từ dự trữ quốc gia,vay nước ngoài) đẩy
nhanh tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng,làm thuỷ lợi,thuỷ điện,giao thông… nhằm tạo
việc làm mới cho lao động mất việc làm ở khu vực sản xuất kinh doanh,nới lỏng các
chính sách tài chính, cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư của nước
ngồi tạo việc làm mới cho người lao động.
Nhà nước ban hành các chính sách về việc làm và phát triển thị trường lao
động để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và
thế giới. Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Lao động và Luật Việc làm, Chính phủ
và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành các văn bản quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành nhằm quy định cụ thể các chính sách về hỗ trợ tạo và tự tạo
việc làm cho người lao động, nhất là cho các nhóm lao động yếu thế; các chính sách
hỗ trợ người lao động thất nghiệp nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động (chính
sách bảo hiểm thất nghiệp); các chính sách về tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng
lao động, định hướng nghề nghiệp, thông tin dự báo thị trường lao động nhằm kết nối
cung cầu lao động; các chính sách bảo hiểm xã hội, an tồn vệ sinh lao động, bệnh
nghề nghiệp... góp phần đẩy mạnh giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao
thu nhập và cải thiện cuộc sống cho người dân.
Hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm và các Trung tâm hướng nghiệp, dạy
nghề và giới thiệu việc làm được quan tâm và đầu tư nhằm nâng cao năng lực trong
13
tư vấn, giới thiệu việc làm và cung cấp thông tin thị trường lao động; đào tạo kỹ năng
cho người lao động; thực hiện các chương trình, dự án việc làm và tổ chức thực hiện
tốt chính sách bảo hiếm thất nghiệp. Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của hệ thống
dịch vụ việc làm. Xã hội hoá và nâng cao chất lượng đào tạo hệ thống đào tạo dạy
nghề. Khuyến khích sử dụng lao động nữ. Khuyến khích sử lao động là người tàn tật
để hỗ trợ các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật. Chính sách bảo hiểm
thất nghiệp, bảo hiểm xã hội. Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho lao động thuộc
diện chính sách ưu đãi, lao động thuộc đối tượng yếu thế. Tập chung phần vốn tín
dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi xuất ưu đãi do các đối tượng trọng điểm vay
theo dự án nhỏ để tự tạo việc làm cho bản thân gia đình và cơng cộng.
Bên cạnh đó nhà nước phải khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cho các doanh nghiệp vay vốn để mua sắm trang thiết bị sản xuất, mở rộng quy
mô sản xuất.
Thất nghiệp là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan và gây ra những hậu
quả xấu ngăn cản sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề giải quyết thất
nghiệp là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, giảm bớt thất nghiệp không những tạo
điều kiện để phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy ổn định xã hội. Một xã hội có nền
kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp thấp thì tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi, đời sống nhân
dân được nâng cao.
14
1.
2.
3.
4.
5.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Theo giáo trình Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Theo website của tổng cục thống kê về số liệu thống kê về tình hình lao động việc
làm; báo cáo về tác động của COVID-19 đến tình trạng thất nghiệp ở nước ta...
(https:// www.gso.gov.vn)
Theo trang wikipedia về thất nghiệp.
( nghiệp)
Theo “Lý thuyết về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của nhà kinh tế học Keynes.
Theo Kinh tế học vĩ mô.
15