Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.56 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
PHÒNG GD& ĐT QUANG BINH
<b>TRƯỜNG THCS BẰNG LANG</b>
<b>CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM</b>
<b>Độc lập – Tự do – Hạnh phúc</b>
<i> Bằng Lang, ngày 26 tháng 8 năm 2014</i>
<b>BÁO CÁO THAM LUẬN </b>
<b>VỀ DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS HIỆN NAY</b>
<b>1. Đánh giá thực trạng việc giảng dạy nội dung biên giới, biển và hải đảo</b>
<b>trong môn Lịch Sử ở Trường THCS:</b>
- Nội dung SGK vừa thừa, vừa thiếu: dung lượng kiến thức “nặng”, dàn trải, khô
cứng, những diễn biến chi tiết phức tạp, học sinh khó nhớ, thiếu các nhân vật lịch sử,
các mốc lịch sử trình bày chưa trọng tâm. bài viết trong SGK chứa đựng rất nhiều sự
kiện nhưng hiếm có bài nào tường thuật sự kiện một cách cụ thể sinh động với những
nhân vật được khắc họa đầy đủ. Kiến thức liên quan kháng chiến chống Mỹ, chống
Pháp, SGK chỉ dạy nhiều về thiệt hại của địch. Những mất mát, hy sinh, bi hùng lại bị
bỏ qua. Lịch sử khơng chỉ có một chiều. Đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng
dạy. Nền giáo dục của chúng ta đã trải qua nhiều lần cải cách, sách giáo khoa có khá
hơn sau mỗi lần cải cách nhưng vẫn chưa tương xứng với vai trị, vị trí, chức năng của
môn Lịch sử trong trường phổ thông. Về nội dung, thực chất sách giáo khoa lịch sử
bậc phổ thông là tóm tắt lịch sử viết cho người lớn,
- Kênh hình ít, chưa hấp dẫn người học, tài liệu biên soạn chưa thực sự phát huy
tính tích cực chủ động học tập của học sinh. Chương trình chỉ nhằm mục đích kiểm
tra kiến thức học thuộc lịng, chứ khơng vì mục tiêu giáo dục tồn diện năng lực và
phẩm chất của người học.
-Trong điều kiện và hoàn cảnh thực tế của HS Việt Nam, cụ thể tổ chức một số
<i>+ Tổ chức câu lạc bộ: Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khố bổ ích, giúp</i>
học sinh trau dồi kiến thức lịch sử về biển, đảo. Thơng qua các trị chơi, các hoạt động
học tập năng động, học sinh được bồi đắp tâm hồn và nâng cao trách nhiệm đối với
việc giữ gìn biển , bảo vệ môi trường và chủ quyền biển, đảo. Mỗi câu lạc bộ nên có
khoảng 20 đến 30 thành viên đến từ các khối lớp khác nhau. Mỗi câu lạc bộ cần có ít
nhất 1 hoặc 2 giáo viên hướng dẫn. Những giáo viên này cần được tập huấn về cách tổ
chức và thực hiện hoạt động giáo dục về môn lịch sử.
<i>+ Tổ chức thi văn nghệ, triển lãm tranh ảnh, sáng tác thơ về biển , đảo.</i>
<b>2. Đánh giá công tác bồi dưỡng giáo viên và đề xuất nâng cao chất lượng đội</b>
<b>ngũ :</b>
- Trong những năm qua PGD&ĐT đã làm tốt công tác bồi dưỡng đội ngũ : tổ
chức tốt các chuyên đề đổi mới kiểm tra, đánh giá ; chuyên đề sử dụng thiết bị dạy
học môn lịch sử ; chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học… Tỷ lệ giáo viên giỏi các
cấp môn lịch sử không ngừng được tăng lên. Tuy nhiên cơng tác bồi dưỡng vẫn cịn
nặng về lý thuyết, tính thực tế cịn hạn chế. Việc giảng dạy chương trình lịch sử địa
phương của giáo viên chất lượng chưa cao.
- Vẫn còn nhiều trường do thiếu giáo viên cịn tình trạng phân dạy trái ban dẫn
đến kết quả học tập, tham dự thi môn lịch sử các cấp chưa đạt kết quả cao.
thuật xây dựng câu hỏi TN (kể cả câu TL) có nhiều điểm chưa hợp lý (chủ yếu là câu
hỏi nhớ mà chưa có những câu hỏi đi sâu vào bản chất sự kiện, giữa câu dẫn và
phương án trả lời chưa thực sự phù hợp, các phương án nhiễu ít có giá trị trong việc
tạo độ khó cho câu hỏi…). Câu hỏi vẫn thiên về kiểm tra kiến thức mà chưa đề cập tới
- Việc chấm bài kiểm tra và sử dung kết quả kiểm tra để điều khiển QTDH chưa
được thực hiện, giáo viên hiểu về mục đích KT, ĐG chưa đầy đủ, vẫn chủ yếu là vì
điểm số đề xếp loại, cách cho điểm cịn tuỳ tiện và chưa được cơng khai đối với học
sinh. Nhìn chung, việc thực hiện chủ trương đổi mới KT, ĐG ở trường THCS hiện
nay còn chậm chạp. Các câu hỏi, bài kiểm tra được xây dựng và sử dụng như trên
khơng phát huy được tính tích cực rèn luyện và hứng thú học tập, không thu được
những thông tin “liên hệ ngược” về hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình
học tập nhằm điều chỉnh hoạt động dạy học.
- Phần lớn học sinh coi môn Lịch sử là môn học khô khan, không sáng tạo, là
thuần tuý học thuộc các sự kiện. Học sinh không chăm lo học tập lịch sử cũng như
các môn học bị coi là “môn phụ”,là thực tế đang diễn ra, điều này cho thấy nhận thức
vị trí bộ môn ngày càng giảm sút, làm cho việc học tập lịch sử mang nặng tính đối
phó với việc kiểm tra, dẫn tới xu hướng “học lệch”, “học tủ”.
- Thực trạng hiện nay cho thấy tình trạng học sinh khơng ham thích học bộ mơn
Lịch sử dẫn tới việc thi tốt nghiệp THPT chọn môn số lượng học sinh tham gia rất ít,
kể cả thi vào các trường Cao Đẳng, Đại học chuyên ngành Lịch Sử cũng rất ít.
<i><b>3. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục nội dung biên giới Biển và hải đảo </b></i>
<i><b>trong môn Lịch Sử.</b></i>
cần được biên soạn theo hướng tăng thêm kênh hình; tiến tới mỗi chương có kèm một
đĩa CD hay DVD tư liệu như một số nước trên thế giới đã làm.
- Xã hội, gia đình, GV và HS cần nhìn nhận lại vai trị của bộ mơn lịch sử để
giáo dục truyền thống, định hướng tương lai.
- Quá trình dạy học phải lấy HS làm trung tâm, phát huy khả năng sáng tạo, tính
tích cực, tự giác, chủ động của HS. GV phải dẫn dắt HS đi tìm chân lí chứ khơng
truyền đạt thơng tin một chiều. Đồng thời phải đổi mới cả khâu kiểm tra, đánh giá để
thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.
<i><b> 4. Đề xuất nội dung giáo dục biển đảo trong xây dựng chương trình, biên</b></i>
<i><b>soạn sách giáo khoa, tài liệu dạy môn Lịch Sử ở trường phổ thông:</b></i>
- Tặng cường bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chuyên sâu dạy học môn lịch sử.
- Cải tiến các chuyên đề, tăng cường tính thực tế và hiệu quả.
- Phát huy tốt vai trị hoạt động của cụm chun mơn trong giảng dạy lịch sử
- Tổ chức cho giáo viên đi tham quan thực tế các danh lam thắng cảnh, di tích
lịch sử, bảo tàng…để tránh mù thơng tin trong q trình giảng dạy.
- Thi làm và sử dụng đồ dùng dạy học môn lịch sử, tổ chức áp dụng các đồ
dùng được giải vào thực tế giảng dạy.
- Cần bổ xung kiến thức vào sách giáo khoa Lịch Sử về việc Trung Quốc đặt
giàn khoan 981 trái phép vào vùng biển Việt Nam.
Nhóm viết báo cáo tham luận:
<b> 1. Nguyễn Thị Thế.</b>