A. MỞ ĐẦU
1. lý do lựa chọn đề tài
Để được thực hiện hoạt động tố tụng dân sự cũng như mọi hoạt động tố
tụng khác, điều tiên quyết nhất là đương sự phải chứng minh được lý do khởi
kiện hay yêu cầu của mình với cơ quan tiến hành tố tụng là có căn cứ và hợp
pháp thì mới có cơ sở để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Theo đó, mọi
hoạt động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng
việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Do đó, thấy được việc cung cấp, thu thập
các tài liệu chứng cứ chứng minh trong các vụ án dân sự hay các vụ việc dân sự
là vơ cùng quan trọng, vì nó là căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết của mình một
cách đúng đắn và tránh việc làm xâm hại đến lợi ích chính đáng của các bên
đương sự.
Hiện nay, BLTTDS 2015 ra đời có những điểm mới về chế định chứng
minh và chứng cứ so với BLTTDS 2004 để phù hợp hơn với thực tiễn. Vậy
những điểm mới này là gì, có những tiến bộ gì, có thể đảm bảo được quyền lợi
hơn cho các đương sự hay không,… em xin chọn đề tài: “chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự - những điểm mới trong Bộ luật tố tụng dân sự
2015”.
2. Bố cục báo cáo tốt nghiệp.
Báo cáo tiểu luận gồm 02 phần : Phần nội dung và Phần kết luận.
-Phần nội dung gồm 02 chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự.
Chương II : Phân tích và đánh giá những điểm mới của BLTTDS 2015 về
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
-Phần Kết luận.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
I. Một số vấn đề lý luận về chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.Các khái niệm, đặc tính cơ bản của chứng cứ.
Theo quy định tại điều 93_BLTTDS 2015 thì: “Chứng cứ trong vụ việc
dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm
căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu
cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Thấy rằng trong một vụ việc dân sự thường có rất nhiều tình tiết, sự kiện
mà do các bên trong quan hệ pháp luật tạo ra nó và sau đó thì nó lại tồn tại ngồi
ý chí của con người. Những tình tiết, sự kiện đó bao gồm các tin tức, dấu vết
được thể hiện dưới những hình thức nhất định do Tịa án sử dụng làm cơ sở để
giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ.
*Các đặc tính của chứng cứ.
Thứ nhất về tính khách quan: Thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là cái có thật,
tồn tại ngồi ý muốn của những người tiến hành tố tụng và những người tham
gia tố tụng, mặc dù trong quá trình thực hiện quan hệ dân sự, chứng cứ do các
bên tham gia quan hệ đó tạo ra nhưng khi nó đã phát sinh thì con người khơng
thể tác động làm thay đổi chúng hay tạo ra chúng theo ý muốn chủ quan của họ.
Các chủ thể tham gia tố tụng chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử
dụng chúng.
Thứ hai về tính liên quan: Thể hiện ở chỗ giữa chứng cứ và vụ việc dân
sự có mối quan hệ nhất định. Nhờ có chứng cứ mà tịa án có thể cơng nhận hay
phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện khác có làm phát sinh
tranh chấp của vụ việc dân sự hay không hoặc đưa ra tin tức về nó. Chứng cứ
bao gồm:
22
-Những tin tức, sự kiện liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự. Thơng qua
nó tịa án có thể khẳng định ngay được có hay khơng tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự .
-Những tin tức, sự kiện liên quan gián tiếp đến vụ việc dân sự: nhờ chúng
tịa án vẫn có khả năng đưa ra những kết luận nhất định về vụ việc dân sự đang
giải quyết.
Căn cứ vào tính liên quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ
việc, tịa án có thể loại bỏ được những cái không liên quan đến vụ việc dân sự
tránh sự rườm rà kéo dài thời gian, bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
được nhanh chóng và đúng đắn.
Thứ ba về tính hợp pháp: Việc giải quyết vụ việc dân sự khơng thể tách
rời q trình nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Tính hợp pháp của
chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn nhất định do pháp luật quy định; quá
trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng phải được tiến hành đúng theo
quy định của pháp luật.Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể
chứng minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ. Đối với
những gì khơng được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không được thu
thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật thì
khơng được coi là chứng cứ, không được sử dụng giải quyết vụ việc dân sự.
2.Các chủ thể cung cấp, thu thập chứng cứ theo pháp luật hiện hành.
+Đương sự theo quy định tại điều 91_BLTTDS 2015:
+ Đương sự đưa ra yêu cầu khởi kiện: nguyên đơn có yêu cầu; bị đơn thực
hiện quyền phản tố; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
+ Đương sự phản đối yêu cầu của ngươi khác: bị đơn khi có yêu cầu phản
đối; nguyên đơn phản đối yêu cầu phản tố của bị đơn; người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan.
-Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do pháp luật quy định.
-Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích cơng cộng,…có
hoạt động thu thập chứng cứ giao nộp cho tòa án.
-Tòa án tự mình thu thập theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
Thấy rằng BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) khơng quy định cụ
thể “tính chủ động” của đương sự trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ trong
33
q trình giải quyết vụ việc dân sự. Khi Tịa án thụ lý vụ việc dân sự và yêu cầu
đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự đã không cung cấp được
đầy đủ, do vậy đã ảnh hưởng đến phán quyết của Tịa án về tính chính xác của
vụ việc. Việc không cung cấp được đầy đủ xuất phát từ những nguyên nhân khác
nhau, ví dụ:
+ Đương sự chưa có đủ nhận thức để khai và đánh giá những thông tin
liên quan trên các tài liệu để xác định đó có phải là tài liệu, chứng cứ của vụ việc
dân sự hay khơng;
+ Có những tài liệu, chứng cứ trong vụ việc dân sự do cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác giữ, nên đã có những trở ngại nhất định cho đương sự…
Nhận thấy điều đó, BLTTDS 2015 đã quy định: trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự, đương sự “chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tịa án” và
“đương sự có quyền u cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng
cứ”. Cụ thể là đương sự khởi kiện chủ động thu thập tài liệu, chứng cứ nhưng
không thể thực hiện được, do đó cần có cơ chế bảo đảm khác, đó là quy định
nghĩa vụ của bên bị khởi kiện cung cấp tài liệu, chứng cứ. Quy định này đã tạo
ra một cơ chế bảo đảm cho đương sự có điều kiện thực hiện quyền một cách
thực sự để thu thập tài liệu, chứng cứ giao nộp cho Tòa án. Đồng thời nhằm việc
bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong một số quan hệ dân sự. Việc bên bị
khởi kiện cung cấp tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa chứng minh mình có lỗi hoặc
khơng có lỗi, thơng qua đó giúp Tịa án có được quyết định chính xác trong q
trình giải quyết vụ việc dân sự (khoản 1 và khoản 3 Điều 91_BLTTDS 2015).
II. Một số vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng dân sự
*/Khái niệm về chứng minh.
44
Theo từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178: “Chứng
minh là dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để ghi rõ điều gì đó đúng hay không
đúng”.
Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, trích 192 ghi : “Chứng
minh là làm cho thấy rõ, là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ”.
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu
thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp, để giải quyết được vụ
việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cúng phải được làm
rõ trước khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Ví dụ, trong vụ án thừa
kế yêu cầu chia di sản theo di chúc thì làm rõ có di chúc khơng ? Người viết di
chúc đã chết chưa ? Di chúc có hợp pháp hay khơng ?
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của
Tịa án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của cá chủ
thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng
với thực tế, do đó, các phương thực được chủ thể chứng minh sử dụng để chứng
minh rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng
minh, các chủ thể của chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất các các căn
cư pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Quá trình chứng minh được diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, hoạt động chứng minh trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự
bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng, trong đó, hoạt động
cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên toà của các chủ
thể là chủ yếu và mang tính quyết định :
-Cung cấp chứng cứ : Là nghĩa vụ chủ yếu, là do đương sự giao nộp cho
Tòa án, đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là có
căn cứ hợp pháp thì trách nhiệm của họ phải cung cấp, giao nộp chứng cứ cho
Tòa án để chứng minh.
55
-Việc cung cấp chứng cứ cịn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấp.
-Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đương sự, hoặc một số trường
hợp Tòa án thu thập, việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ để chứng
minh trong giải quyết vụ việc dân sự phải đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
-Nghiên cứu là đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng
minh. Nó là một q trình logic nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp
của chứng cứ - sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa tình tiết, sự
kiện đã thu thập được với thực tế khách quan. Thông qua nghiên cứu đánh giá
chứng cứ, Tịa án hình thành các các đối tượng chứng minh và sắp xếp các sự
kiện theo một trình tự nhất định. Việc suy đốn chứng cứ có thể được sử dụng
trong q trình đánh giá chứng cứ, nhưng việc suy đoán này phải dựa trên các
chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ sơ chứ khơng được
theo nhận thức chủ quan của người đánh giá.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa làm rõ, xác định các sự kiện,
tình tiết của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự,
chứng minh là biện pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự.
Thơng qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các
chủ thể khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết.
Đối với các đương sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm
rõ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tịa án bảo vệ,
trước Tịa án, nếu được sự khơng chứng mịnh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp
pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể khơng được Tịa án bảo
vệ. Trên thực tế, Tịa án có thể sai lầm trong việc xác định, đánh giá chứng cứ,
khơng làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Điều kiện đó
dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật và làm cho đương
sự không được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Chứng minh khơng chỉ có
66
ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tịa án, mà cịn có ý
nghĩa đám bảo cho đương sự được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để giải quyết bất kỳ một vụ việc dân sự thì đều được phải làm rõ những
sự việc, tình tiết về cơ bản trước khi Tịa án tiến hành giải quyết. Mà thực chất
hoạt động chứng minh phần lớn bao gồm việc cung cấp chứng cứ của đương sự
và việc Tịa án xem xét tồn bộ hệ thống văn bản, tài liệu liện quan được áp
dụng nhằm có cơ sở giải quyết vụ việc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công
dân và của Nhà nước.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động của các chủ thể
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự mà theo đó việc làm rõ các sự kiện,
tình tiết của vụ việc là cần thiết; trong đó cịn bao gồm các hoạt động áp dụng
luật của Tòa án dối với vụ việc dân sự cụ thể cần giải quyết.
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ NHỮNG ĐIỂM MỚI
CỦA BLTTDS 2015 VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
1.Xác định chứng cứ.
Việc bổ sung nguồn của chứng cứ để xác định là chứng cứ đã tạo điều
kiện để đương sự, người đại diện của đương sự lựa chọn các hình thức, phương
thức thu thập tài liệu, chứng cứ khác nhau trên cơ sở các bên đương sự đã giao
dịch trên thực tế. Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung một số
trường hợp được xác định là chứng cứ. Theo đó những thơng tin, tài liệu xác
định chứng cứ trong BLTTDS 2015 là quan trọng, qua đó giúp chủ thể đánh giá
chứng cứ có nhiều thơng tin khác nhau liên quan đến vụ việc dân sự so sánh,
đánh giá một cách tồn diện để tìm đến sự thật khách quan. Tuy vậy, tài liệu,
chứng cứ được thu thập là khách quan, nhưng việc đánh giá nó là chủ quan nên
khơng thể tránh khỏi được những thiếu sót nhất định. Do vậy, việc xác định
chứng cứ là quan trọng, quyết định bản chất của vụ việc dân sự.
2. Giao nộp tài liệu, chứng cứ .
77
Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) có
nội dung quy định, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tịa án; nếu đương sự khơng nộp hoặc nộp
khơng đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc khơng nộp hoặc nộp khơng đầy đủ
đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong q trình giải quyết vụ
việc dân sự, để bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình, đương sự thường chủ động
giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Tuy vậy, trên thực tế, do những trở ngại
khách quan nhất định (lý do chính đáng) và trường hợp khác là đương sự không
biết được, đến khi có quyết định giải quyết vụ việc dân sự, tại phiên ṭa, phiên
họp hoặc quá tŕnh giải quyết vụ việc dân sự tiếp theo mặc dù đương sự có thể đã
có tài liệu, chứng cứ nhưng khơng có quyền giao nộp cho Tịa án nữa. Đó là
những vấn đề trên thực tế chưa có cơ chế đủ điều kiện để bảo đảm quyền lợi của
đương sự.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn, hạn chế nêu trên, Điều 96 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã bổ sug các quy định:
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự là quyền và nghĩa vụ của đương sự. Theo đó bổ
sung quy định “ Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị
xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy
định của BLTTDS 2015 ( khoản 4 điều 96)”. Quy định này đảm bảo cho việc
giải quyết vụ việc của tòa án không bị kéo dài và để thực hiện nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử. Đây là một điểm mới được các nhà làm luật coi là
mang tính đột phá của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và nhằm đảm bảo sự
tương thích với pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
Thứ hai, xác định giới hạn về quyền và nghĩa vụ đương sự giao nộp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án trong thời hạn sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét
88
xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Tuy
vậy, tại thời điểm này có hai trường hợp khác nhau:
+ Trường hợp khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự đương sự mới cung cấp,
giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự
khơng giao nộp được vì có “lý do chính đáng” thì đương sự phải chứng minh lý
do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Thực tế thấy rằng việc xác định
được “ lý do chính đáng” là rất mơ hồ và mang tính chủ quan; pháp luật không
quy định rõ các trường hợp nào được coi là lý do chính đáng. Vì vậy, lý do mà
đương sự chậm giao nộp tài liệu chứng cứ ra có thể được coi là hợp lý với người
này nhưng lại khơng được coi là chính đáng đối với người khác. Tuy nhiên,
điểm này đảm bảo hơn quyền của các đương sự trong việc chứng minh và tạo
điều kiện cho tòa án được tiếp cận nhiều hơn với các tình tiết sự kiện để từ đó
đưa ra được quyết định đúng đắn nhất.
+ Trường hợp khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đối với tài liệu, chứng cứ
mà trước đó Tịa án khơng u cầu hoặc đương sự khơng biết được trong quá
trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp,
trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai
đoạn tố tụng tiếp theo.
Thứ ba, xác định nghĩa vụ của đương sự khi giao nộp tài liệu, chứng cứ
cho Tịa án thì phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người
đại diện của đương sự khác. Việc này đảm bảo cho các bên đều được tiếp cận
các chứng cứ của vụ việc, đồng thời đảm bảo cho quá trình tranh tụng diễn ra
một cách công bằng nhất. Tuy vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã loại trừ
những tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể sao gửi được “thì phải thơng
báo bằng văn bản cho đương sự và người đại diện của đương sự”, đó là các tài
liệu chứng cứ (quy định tại khoản 2_ điều 109) có liên quan đến bí mật nhà
nước, thuẩn phong mỹ tục, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá
nhân, gia đình… Quy định này là rất hợp lý và cần thiết, vì nó đảm bảo hơn các
99
quyền con người (ví dụ: quyền được giữ bí mật đời tư), quyền sở hữu trí tuệ
cũng như quyền kinh doanh của các đương sự.
Tuy nhiên các quy định trên của pháp luật lại có một số điểm hạn chế như
sau:
-Thời hạn cung cấp chứng cứ không được xác định cụ thể trong Điều luật
dẫn tới làm khó cho người tham gia tố tụng bởi mỗi vụ án sẽ được thẩm phán ấn
định khác nhau, người tham gia tố tụng sẽ bị động về thời hạn cung cấp chứng
cứ trong vụ án của mình.
-Về nguyên tắc thì thời hạn cung cấp chứng cứ phải được thẩm phán ấn
định và công bố cho người tham gia tố tụng biết trước khi kết thúc thời hạn đó
một thời gian hợp lý để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp
chứng cứ của mình nhưng Bộ luật cũng khơng đề cập về nội dung này.
-Theo quy định, đương sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thì phải
chịu hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, chưa có quy định pháp luật nào về chế
tài của hành vi đương sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nên khơng có tính
răn đe. Trái lại, đối với thẩm phán, nhu cầu thực tế là để giải quyết vụ án phải có
đầy đủ tài liệu, chứng cứ của vụ án đó, nên khi đương sự vi phạm nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ thì thẩm phán là người sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết chính
xác vụ án.
Như vậy, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về thời
hạn cung cấp chứng cứ và hậu quả của việc đương sự vi phạm nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ, nhưng xem xét kỹ thì thấy chưa cụ thể mà chỉ chung chung, mang
tính chất trao quyền cho thẩm phán trong việc ấn định thời hạn cung cấp chứng
cứ. Thiết nghĩ, với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như vậy, cần
phải có hướng dẫn chi tiết thi hành của Tòa án nhân dân tối cao và tránh việc
trao quyền lớn cho thẩm phán, khi mà thẩm phán không thực sự khách quan,
công minh hoặc sáng suốt sẽ làm ảnh hưởng tới quyền của đương sự về cung
cấp chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi của họ tại Tòa án.
3.Xác minh, thu thập chứng cứ.
Tên điều 85 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) là “thu thập
chứng cứ”, còn tên Điều 97 BLTTDS 2015 là “xác minh, thu thập chứng cứ”.
10
Điều đó được hiểu là, hoạt động xác minh tạo tiền đề cho việc thu thập chứng cứ
được khách quan, chính xác.
Theo Điều 85 BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011): chủ thể thu
thập chứng cứ là thẩm phán, Viện kiểm sát để giải quyết vụ việc dân sự. Điều 97
BLTTDS 2015 đã bổ sung chủ thể xác minh, thu thập chứng là cơ quan, tổ chức,
cá nhân và thẩm tra viên theo những nội dung, biện pháp mới. Bên cạnh đó, điều
luật đã bổ sung hai biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ đối với Tòa án và xác
định thời gian Tịa án phải thơng báo tài liệu, chứng cứ đã thu thập được để
đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Trong trường hợp đương sự khơng thể tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ
thì họ có quyền làm đơn u cầu tịa án thu thập tài liệu chứng cứ. Ngồi ra,
trong q trình giải quyết vụ án dân sự, tịa án có thể tự mình tiến hành một số
biện pháp để thu thập tài liệu chứng cứ khi thấy cần thiết như: lấy lời khai của
đương sự (điều 98); lấy lời khai của người làm chứng ( điều 99); đối chất giữa
các đương sự với nhau hay giữa đương sự với người làm chứng (điều 100);
trưng cầu giám định (điều 102, 103); định giá tài sản (điều 104); xem xét thẩm
định tại chỗ (điều 101), ủy thác thu thập xác minh tài liệu, chứng cứ (điều 105);
yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc
giải quyết vụ án dân sự (điều 106); xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của
đương sự tại nơi cư trú; các biện pháp khác theo quy định của bộ luật này.
Những vấn đề nêu trên cho thấy, BLTTDS 2015 mở rộng thêm về chủ thể
và các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ tạo tiền đề cho Tòa án xem xét vụ
việc một cách toàn diện. Bên cạnh đó, cũng đã xác định nghĩa vụ của chủ thể
xác minh, thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm quyền lợi của đương sự, chẳng hạn
Tịa án phải thơng báo tài liệu, chứng cứ đã thu thập được cho đương sự để họ
thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình quy định tại khoản 5 Điều 97 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015.
4.Đánh giá chứng cứ.
Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính
xác. Việc lựa chọn chứng cứ để thu thập có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc
11
dân sự và việc thu thập chứng cứ tạo tiền đề cho việc đánh giá nó. Việc đánh giá
chứng cứ đó phải có tính liên quan .Mặt khác, việc đánh giá tài liệu, chứng cứ
đó phải “hợp pháp” (về mặt pháp lý như: quyền thu thập tài liệu, chứng cứ, xuất
xứ nguồn chứng cứ…). Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về
“tính hợp pháp, tính liên quan” là nằm trong nội dung, mục đích này. Mặt khác,
những quy định mới đó cũng cho thấy, điều luật đã xác định rõ về phạm vi cũng
như nội dung đánh giá chứng cứ, được xem là khâu quan trọng để có được quyết
định chính xác.
5.Thơng báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải.
Pháp luật Việt Nam rất coi trọng việc hòa giải để giải quyết các tranh chấp
mâu thuẫn, bảo đảm giữ được mối quan hệ hài hòa giữa các bên tranh chấp.
Điều 183 BLTTDS 2004 quy định trước khi tiến hành hịa giải, Tịa án phải
thơng báo về thời gian, địa điểm, nội dung việc hịa giải… Đó là sự thể hiện để
các bên đương sự biết mà chủ động tham gia và trình bày tại phiên hịa giải. Tuy
vậy, những nội dung quy định trên chưa đủ, mà cần quy định thêm và diễn giải
cụ thể về những vấn đề đó, giúp đương sự nắm và hiểu được để thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình, đồng thời xác định về trách nhiệm của thẩm phán thực
hiện việc hịa giải tại phiên tịa. Theo đó, BLTTDS 2015 vẫn giữ thủ tục hòa giải
trong tố tụng dân sự nhưng đã phát triển thành phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải (được quy định trong các điều 208,
209, 210, 211). Về trình tự, nội dung của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải được quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015. Quy định này cũng còn một số hạn chế:
Một là, về trình tự phiên họp gần như tách riêng thành hai phần là kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ; hịa giải mà khơng có sự kết
hợp, gắn kết nên nhiều thủ tục đã thực hiện trong phần trước đã lặp lại trong
phần sau gây sự nhàm chán, kéo dài thời gian không cần thiết của phiên họp.
Hai là, tại điểm d khoản 2 Điều này quy định cho đương sự có quyền đề
xuất thẩm phán hỏi đương sự khác về “những vấn đề khác mà đương sự thấy cần
thiết”. Quy định này không rõ ràng, “những vấn đề khác mà đương sự thấy cần
12
thiết” là những vấn đề gì? Nếu mở rộng những vấn đề mà đương sự có quyền
yêu cầu thẩm phán hỏi đối với đương sự khác thì dẫn đến thủ tục của phiên họp
đã dài lại càng tốn nhiều thời gian hơn.
Ba là, Một nội dung quan trọng là thẩm phán phải kết luận về giá trị của
chứng cứ tại phiên họp thì BLTTDS 2015 của Việt Nam đã khơng quy định.
Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao nên có hướng dẫn cụ thể các nội dung về
các thủ tục để tránh lặp lại; quy định đương sự có quyền đề xuất thẩm phán hỏi
những vấn đề về chứng cứ của vụ án mà đương sự thấy cần thiết để tránh kéo
dài thời gian của phiên họp.
6. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục của Bộ
luật Tố tụng dân sự, nhưng nguồn của chứng cứ được xác định giới hạn nhất
định theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 đã bổ sung thêm các trường hợp là nguồn của chứng cứ sau:
- Dữ liệu điện tử: Giao dịch dân sự bằng dữ liệu điện tử được các bên thực hiện
truyền thơng tin từ máy tính đến máy tính nhằm góp phần giản tiện về thời gian,
chi phí... nhưng vẫn bảo đảm được hiệu quả của công việc. Đây là phương tiện
hiện nay trong các mối quan hệ về dân sự, kinh doanh, thương mại được sử dụng
khá phố biến và phù hợp với Điều 1 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Do đó,
việc bổ sung nguồn chứng cứ này là cần thiết nhằm đáp ứng được những yêu
cầu thực tế đặt ra.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập:
Không phải mọi văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý đều được xem là
nguồn của chứng cứ, mà văn bản đó chỉ có hiệu lực pháp lý khi được thực hiện
bởi người có chức năng lập. Theo quy định của pháp luật thì việc ghi nhận lại sự
kiện, hành vi pháp lý do những người khác nhau thực hiện. Việc bổ sung nguồn
chứng cứ này là để bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi của đương sự.
- Văn bản công chứng, chứng thực: Không phải mọi văn bản công chứng, chứng
thực đều là nguồn của chứng cứ mà văn bản cơng chứng, chứng thực đó phải
được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật về cơng chứng, chứng thực quy
định. Trong đời sống xã hội nói chung, giao dịch dân sự nói riêng, do nhu cầu
13
nên văn bản công chứng, chứng thực được thực hiện phổ biến. Vì vậy, việc bổ
sung nguồn văn bản cơng chứng, chứng thực là cần thiết. Việc thực hiện công
chứng, chứng thực do người của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện nên
tính xác thực cao, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm quyền lợi trong đời sống xã
hội nói chung, trong giao dịch dân sự nói riêng, là cơ sở quan trọng để Tịa án có
được quyết định chính xác trong bản án, quyết định.
7. Các hình thức xác minh, thu thập, đánh giá chứng cứ
7.1. Xác định chứng cứ
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, những thông tin, tài liệu là
phong phú và đa dạng. Tuy vậy, không phải mọi thông tin, tài liệu thu thập được
đều xác định là chứng cứ. Chỉ những thơng tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc
dân sự và có nguồn là chứng cứ mới được xác định là chứng cứ. Việc bổ sung
nguồn của chứng cứ để xác định là chứng cứ đã tạo điều kiện để đương sự,
người đại diện của đương sự lựa chọn các hình thức, phương thức thu thập tài
liệu, chứng cứ khác nhau trên cơ sở các bên đương sự đã giao dịch trên thực tế.
Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung một số trường hợp được
xác định là chứng cứ. Việc bổ sung những thông tin, tài liệu xác định chứng cứ
trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là quan trọng, qua đó giúp chủ thể đánh
giá chứng cứ có nhiều thơng tin khác nhau liên quan đến vụ việc dân sự so sánh,
đánh giá một cách tồn diện để tìm đến sự thật khách quan. Tuy vậy, tài liệu,
chứng cứ được thu thập là khách quan, nhưng việc đánh giá nó là chủ quan nên
không thể tránh khỏi được những thiếu sót nhất định. Do vậy, việc xác định
chứng cứ để xác định “làm chứng cứ” là quan trọng, quyết định bản chất của vụ
việc dân sự.
7.2. Giao nộp tài liệu, chứng cứ
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, việc đương sự giao nộp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án là quyền nhưng đồng thời là nghĩa vụ. Điều đó có
nghĩa là, khi một cá nhân, cơ quan, tổ chức xét thấy quyền lợi của mình bị vi
phạm, họ có quyền làm đơn khởi kiện đến Tịa án, song cùng với đó là có nghĩa
vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án. Người bị kiện có quyền phản đối yêu
cầu của người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
14
độc lập có quyền đưa ra yêu cầu, nhưng đồng thời có nghĩa vụ cung cấp tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho phản tố, yêu cầu đó là có căn cứ và cần được bảo
vệ. Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) có
nội dung quy định, trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự khơng nộp hoặc nộp
khơng đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ
đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, để bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình, đương sự thường chủ động
giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Tuy vậy, trên thực tế, do những trở ngại
khách quan nhất định (lý do chính đáng) và trường hợp khác là đương sự khơng
biết được, đến khi có quyết định giải quyết vụ việc dân sự, tại phiên tòa, phiên
họp hoặc quá trình giải quyết vụ việc dân sự tiếp theo mặc dù đương sự có thể
đã có tài liệu, chứng cứ nhưng khơng có quyền giao nộp cho Tịa án nữa. Đó là
những vấn đề trên thực tế chưa có cơ chế đủ điều kiện để bảo đảm quyền lợi của
đương sự.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn, hạn chế nêu trên, Điều 96 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã quy định:
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự là quyền và nghĩa vụ của đương sự. Trong q
trình đó, Tịa án xem xét thấy tài liệu, chứng cứ đương sự giao nộp chưa đầy đủ
cơ sở để giải quyết thì thẩm phán yêu cầu đương sự nộp bổ sung. Nếu đương sự
không giao nộp hoặc giao nộp khơng đầy đủ mà khơng có lý do chính đáng “thì
Tịa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập
để giải quyết vụ việc dân sự”, tức là đương sự phải chịu hậu quả về việc không
giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ về các tài liệu, chứng cứ vụ việc dân sự
cho Tòa án.
Thứ hai, xác định giới hạn về quyền và nghĩa vụ đương sự giao nộp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án trong thời hạn sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Tuy
vậy, tại thời điểm này có hai trường hợp khác nhau: Trường hợp khi đã có quyết
15
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải
quyết việc dân sự “đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa
án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự khơng giao nộp được vì có lý do chính
đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng
cứ đó”. Trường hợp khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đối với tài liệu, chứng cứ
mà trước đó Tịa án khơng u cầu hoặc đương sự khơng biết được “trong q
trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp,
trình bày tại phiên tịa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai
đoạn tố tụng tiếp theo”.
Thứ ba, xác định nghĩa vụ của đương sự khi giao nộp tài liệu, chứng cứ
cho Tịa án thì phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người
đại diện của đương sự khác. Tuy vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã loại
trừ những tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể sao gửi được “thì phải
thơng báo bằng văn bản cho đương sự và người đại diện của đương sự”.
Như vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định bổ sung các điều kiện, thời
điểm về giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự cho Tòa án, đồng thời thông
báo tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác, người đại diện của đương sự khác đã
tạo những điều kiện có thể để bảo đảm quyền lợi của đương sự, góp phần cho
Tịa án có được phán quyết khách quan, chính xác.
7.3. Xác minh, thu thập chứng cứ
Tên Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011) là “thu thập chứng cứ”, còn tên Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
là “xác minh, thu thập chứng cứ”. Điều đó được hiểu là, hoạt động xác minh tạo
tiền đề cho việc thu thập chứng cứ được khách quan, chính xác. Theo Điều 85
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), chủ thể thu thập
chứng cứ là thẩm phán, Viện kiểm sát để giải quyết vụ việc dân sự thì Điều 97
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung chủ thể xác minh, thu thập chứng
là cơ quan, tổ chức, cá nhân và thẩm tra viên theo những nội dung, biện pháp
mới. Bên cạnh đó, điều luật đã bổ sung hai biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ
16
đối với Tòa án và xác định thời gian Tòa án phải thông báo tài liệu, chứng cứ đã
thu thập được để đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Những vấn đề nêu trên cho thấy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mở rộng
thêm về chủ thể xác minh, thu thập chứng cứ cũng từ đó là các nguồn chứng cứ
khác nhau, tạo tiền đề Tòa án xem xét vụ việc một cách toàn diện. Bên cạnh đó,
cũng đã xác định nghĩa vụ của chủ thể xác minh, thu thập chứng cứ nhằm bảo
đảm quyền lợi của đương sự, chẳng hạn Tịa án phải thơng báo tài liệu, chứng cứ
đã thu thập được cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình quy
định tại khoản 5 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7.4. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng
- Lấy lời khai của đương sự: Theo Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì việc lấy lời khai của đương sự được thẩm
phán hoặc thư ký Tòa án thực hiện. Trên thực tế, quá trình giải quyết vụ việc dân
sự không phải lúc nào hoạt động lấy lời khai cũng được thực hiện tại trụ sở Tịa
án mà có lúc được thực hiện ngồi trụ sở Tịa án, trong những trường hợp như
vậy thì “phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân…”. Thực
chất hoạt động xác nhận của “Ủy ban nhân dân…” là nhằm đề cao trách nhiệm,
đồng thời xác định về mức độ tin cậy của biên bản lấy lời khai đó giúp Tịa án
lấy làm chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Vì Ủy ban nhân dân là nơi quản
lý về hành chính nên họ nắm được những thơng tin liên quan đến con người đó
nên để đánh giá mức độ tin cậy về biên bản lấy lời khai là rất cao. Tuy vậy, điều
luật quy định “Ủy ban nhân dân” nên về lý luận cũng như thực tiễn thì gồm có
cấp xã, cấp huyện đến cấp tỉnh nên khơng sát với thực tế vì nếu xác nhận của
cấp huyện, cấp tỉnh thì mức độ tin cậy về lời khai khơng cao bằng cấp xã xác
nhận như đã nêu ở trên. Do đó, khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 đã quy định rất cụ thể về thẩm quyền xác nhận của Ủy ban nhân dân là cấp
xã.
Lấy lời khai người làm chứng: Khi thẩm phán tiến hành các hoạt động thu
thập tài liệu, chứng cứ nói chung, lấy lời khai nói riêng đối với người tham gia
tố tụng phải xác định được họ “có đầy đủ” năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể là
năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự, đó là
17
những điều kiện để xác định giá trị pháp lý của tài liệu, chứng cứ. Khoản 3 Điều
87 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) là quy định về
trường hợp không bảo đảm năng lực chủ thể, do vậy khi tiến hành lấy lời khai
đối với họ phải có mặt của người đại diện… thì lời khai đó mới có giá trị được
sử dụng là chứng cứ của vụ việc dân sự. Tuy vậy, trên thực tế, giải quyết vụ việc
dân sự còn có những trường hợp khác mà việc lấy lời khai đối với người làm
chứng khơng có người đại diện… thì chắc chắn lời khai đó khơng bảo đảm tính
khách quan, chính xác. Khoản 3 Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã
tháo gỡ được những khó khăn, hạn chế này bằng quy định bổ sung khi lấy lời
khai đối với người làm chứng là “người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi” thì phải có mặt của người đại diện, người đang quản lý, trông nom đó. Như
vậy, bằng những quy định bổ sung nêu trên của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 đã xác định thêm về nhiệm vụ, trách nhiệm của thẩm phán, bảo vệ người
làm chứng
7.5. Xem xét, thẩm định tại chỗ
Điều 89 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Tuy vậy, điều luật
không xác định rõ việc thẩm phán thực hiện nhiệm vụ đó là chủ động thực hiện
hay là do yêu cầu của đương sự. Điều 101 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã
quy định cụ thể về điều kiện để thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại
chỗ đó là theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết. Bên cạnh đó,
Điều 101 này đã bổ sung về chủ thể tham gia xem xét, thẩm định tại chỗ là công
an xã, phường, thị trấn.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ là quan trọng, bởi trên thực tế có đối
tượng tranh chấp khơng thể hiện trên tài liệu hoặc có thể thể hiện nhưng khơng
đầy đủ, thậm chí có nghi ngờ về tính chính xác đó trên tài liệu thì phải xem xét,
thẩm định tại chỗ, những quy định mới của điều luật nêu trên là việc thể hiện
quyền của đương sự, nhiệm vụ và trách nhiệm của thẩm phán, đồng thời việc
tham gia của công an cấp xã khi thực hiện đã tạo điều kiện bảo đảm thực hiện
thuận lợi công việc.
7.6. Đánh giá chứng cứ
18
Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính
xác. Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, nguồn chứng cứ đa dạng, phong
phú. Tuy vậy, việc lựa chọn chứng cứ để thu thập có ý nghĩa cho việc giải quyết
vụ việc dân sự là quan trọng, điều đó phụ thuộc vào nhận thức, khả năng… và
quan trọng là việc thu thập chứng cứ tạo tiền đề cho việc đánh giá nó. Việc thu
thập và đánh giá chứng cứ đó phải “liên quan”, tính liên quan là vơ cùng, nhưng
trong giải quyết vụ việc dân sự, tính liên quan được thể hiện cơ bản: (i) Đối với
vụ án dân sự là người yêu cầu với người bị yêu cầu (có thể là phản tố lại), người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (nếu có); (ii) Đối với việc
dân sự là các bên trong mối quan hệ đó. Mặt khác, việc đánh giá tài liệu, chứng
cứ đó phải “hợp pháp”, hợp pháp là sự thể hiện về mặt pháp lý, như là quyền thu
thập tài liệu, chứng cứ, xuất xứ nguồn chứng cứ… trên cơ sở đó làm độ tin cậy
để xác định có làm chứng cứ của vụ việc dân sự hay không. Điều 108 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 quy định về “tính hợp pháp, tính liên quan” là nằm trong
nội dung, mục đích này. Mặt khác, những quy định mới đó cũng cho thấy, điều
luật đã xác định rõ về phạm vi cũng như nội dung đánh giá chứng cứ, được xem
là khâu quan trọng để có được quyết định chính xác.
8. Thơng báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai
chứng cứ và hịa giải
Điều 183 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định trước khi tiến hành hịa giải, Tịa án phải thơng báo về thời gian, địa
điểm, nội dung việc hịa giải… Đó là sự thể hiện để các bên đương sự biết mà
chủ động tham gia và trình bày tại phiên hịa giải. Tuy vậy, những nội dung quy
định trên chưa đủ, mà cần quy định thêm và diễn giải cụ thể về những vấn đề đó,
giúp đương sự nắm và hiểu được để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình,
đồng thời xác định về trách nhiệm của thẩm phán thực hiện việc hòa giải tại
phiên tòa. Vấn đề này đã được đáp ứng tại Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, làm nền tảng cho q trình hịa giải được thực hiện thuận lợi và chính xác.
19
9. Cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm
Điều 287, Điều 330 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là những quy định
mới quy định về cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm. Đó là những nội dung cơ bản về quyền của đương sự được cung
cấp tài liệu, chứng cứ, nhưng phải bảo đảm các điều kiện nhất định; quyền của
người có thẩm quyền kháng nghị thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo đảm
việc kháng nghị.
Tóm lại, để đưa ra phán quyết đúng đắn, khách quan, thuyết phục, “thấu
tình, đạt lý” thì Tịa án cần có “chứng cứ” làm căn cứ phán quyết. Điều đó địi
hỏi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải nắm vững khái niệm
chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ; phân biệt được chứng cứ với nguồn
chứng cứ, chứng cứ với tài liệu, các văn bản tố tụng; cũng như việc xem xét,
đánh giá chứng cứ đúng đắn, có hiệu quả. Q trình xem xét, đánh giá, sử dụng
chứng cứ phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm tính cơng bằng,
minh bạch… Để bảo đảm việc tiến hành thu thập chứng cứ được khách quan thì
đối với trường hợp Tịa án tiến hành thu thập chứng cứ cần cân nhắc, quy định
người tiến hành việc thu thập chứng cứ không phải là thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án mà phải là một thẩm phán khác hoặc bộ phận chun trách
của Tịa án để tránh tình trạng thẩm phán đã nghiên cứu hồ sơ và chỉ tiến hành
thu thập chứng cứ theo nhận thức chủ quan của mình. Bên cạnh đó, cần cụ thể
hóa hơn các quy định về việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của
Tịa án, trong đó có việc cản trở hoạt động thu thập chứng cứ để khắc phục
những bất cập trong thực tiễn hiện nay.
20
KẾT LUẬN
Để đưa ra phán quyết đúng đắn, khách quan, thuyết phục, “thấu tình, đạt
lý” thì Tịa án cần có “chứng cứ” làm căn cứ phán quyết. Điều đó địi hỏi người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải nắm vững khái niệm chứng cứ,
các thuộc tính của chứng cứ; phân biệt được chứng cứ với nguồn chứng cứ,
chứng cứ với tài liệu, các văn bản tố tụng; cũng như việc xem xét, đánh giá
chứng cứ đúng đắn, có hiệu quả. Q trình xem xét, đánh giá, sử dụng chứng cứ
phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm tính cơng bằng, minh bạch…
Bên cạnh đó, cần cụ thể hóa hơn các quy định về việc xử lý các hành vi cản trở
hoạt động tố tụng của Tịa án, trong đó có việc cản trở hoạt động thu thập chứng
cứ để khắc phục những bất cập trong thực tiễn hiện nay.
21
1.
2.
3.
4.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật Tố Tụng Dân Sự 2015 (đang có hiệu lực pháp luật)
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)_đã hết hiệu lực pháp
luật
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự 2015_ TS. Bùi Thị Huyền (chủ biên)
Các trang web tham khảo:
- />ItemID=277 (Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chứng cứ
và chứng minh_ ThS. Đinh Tuấn Anh)
- />ItemID=267 (Một số điểm cần lưu ý trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015_
-
Trịnh Văn Chung (sở tư pháp tỉnh HD))
/>- />ItemID=2110 (Chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015)…
22
CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT
1. BLTTDS
– Bộ luật tố tụng dân sự
23
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN SINH VIÊN THỰC TẬP
HƯỚNG DẪN THỰC TẬP
…………………………………..
……………………………………
……………………………………
……………………………………
Trần Văn Long
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
…………………………………………………………
…………………………………………………………
………………………………………………………….
……………………………………………………………
24