Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>BÀI THI TÌM HIỂU “Tiên Yên - 60 năm xây dựng và phát triển” Câu 1: Bạn hãy cho biết những nét chính về đặc điểm tự nhiên, xã hội và những tiềm năng phát triển kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp của huyện Tiên Yên? 1. Đặc điểm tự nhiên - Vị trí địa lý: Tiên Yên là một huyện miền núi thuộc khu vực ngã 3 Miền Đông của tỉnh; Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn. Phía Nam giáp vịnh Bắc Bộ. Phía Tây Nam giáp huyện Ba Chẽ và Thành phố Cẩm Phả. Phía Đông Bắc giáp huyện Bình Liêu và Đông Nam giáp huyện Đầm Hà. Với diện tích rộng 617,1 km2, đứng thứ hai trong tỉnh sau huyện Hoành Bồ.. - Địa hình: Địa hình Tiên Yên chủ yếu là đồi núi, thung lũng, có nhiều sông suối. Theo đặc điểm địa hình huyện có thể chia làm 2 vùng sau: Vùng miền núi gồm 6 xã: Hà Lâu, Điền Xá, Yên Than, Phong Dụ, Đại Dực, Đại Thành; vùng đồng bằng ven biển gồm 6 xã, thị trấn: Đông Ngũ, Đông Hải, Hải Lạng, Tiên Lãng, Đồng Rui và Thị Trấn.. - Khí hậu: Tiên Yên có nhiệt độ trung bình năm 22,4 0c, mùa đông ở vùng núi khí hậu lạnh, nhiều ngày có sương muối, nhiệt độ có khi dưới 4 0c, lượng mưa lớn, trung bình năm tới 2427mm, mưa phùn nhiều..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Sông ngòi, thủy văn: Tiên Yên có 2 sông lớn là sông Tiên Yên và sông Khe Tiên (Phố cũ). Sông Tiên Yên bắt nguồn từ vùng núi cao Bình Liêu và sông (Khe Tiên) Phố Cũ bắt nguồn từ Đình Lập là hai sông có lưu vực rộng, mùa mưa hay gây lũ lớn, có thể tạo đập xây dựng các hồ chứa để điều hòa dòng chảy và lấy nguồn nước cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt.. - Giao thông: Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến quốc lộ đi qua. Quốc lộ 18 nối liền với Hạ Long và Móng Cái. Quốc lộ 18C từ thị trấn Tiên Yên đi cửa khẩu Hoành Mô. Quốc lộ 4 chạy từ Mũi Chùa qua Tiên Yên một đoạn dài khoảng 10Km, nối Tiên Yên với các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, là tuyến đường chạy song song với biên giới Việt Trung. Ngoài ra, giao thông thuỷ cũng khá thuận lợi với các bến cảng sâu và kín như cảng Mũi Chùa, Thác Cối, Bến Châu cùng với quân cảng Vạn Hoa ở phía ngoài cửa biển Tiên Yên.. 2. Đặc điểm xã hội - Dân số: Năm 2013 dân số Tiên Yên có khoảng 47.500 người. Mật độ dân số trung bình là 77 người/km2. Trong đó, mật độ dân số cao nhất là Thị trấn 1.096 người/km2 thấp nhất là Hà Lâu 16 người/km2. - Dân tộc: Huyện Tiên Yên có 13 dân tộc, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 50,2% (chủ yếu là đồng bào Dao, Tày, Sán Chỉ,...)..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Tôn giáo, tín ngưỡng : Chủ yếu là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đạo Phật, đạo Thiên Chúa; thờ các vị tướng lĩnh nhà Trần có công với dân với nước, các vị Thành Hoàng làng,... - Về con người, lịch sử văn hoá, xã hội: Tiên Yên là một huyện có lịch sử hình thành từ rất lâu đời. Những di chỉ khảo cổ học được tìm thấy gần cửa sông Hà Tràng, xã Đông Hải cho thấy con người đã cư trú ở đây vào thời kỳ đồ đá mới. Thời Tiền Lê,.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> vùng đất này thuộc châu Tân An. Thời Minh là huyện của phủ Tân Yên. Đến đời Lê, là châu Tĩnh Yên thuộc phủ Hải Đông, thừa tuyên An Bang, sau là châu Tân Yên. Đời Hậu Lê vì kỵ huý của vua Lê Kính Tông là Duy Tân, nên đổi là Tiên Yên, là vùng đất rộng lớn bao gồm cả Cẩm Phả, Đầm Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ. Đời nhà Nguyễn đổi thuộc phủ Hải Ninh, tỉnh Quảng Yên. Nay là huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. 3. Những tiềm năng phát triển kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp của huyện Tiên Yên: - Phát triển kinh tế nông nghiệp: Tiên Yên có diện tích đất nông, lâm nghiệp là 54.524,1 ha. Trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 2.445,7 ha thuận lợi cho việc trồng lúa và các loại cây hoa màu, sản xuất chuyên canh, như trồng dong riềng, chế biến miến dong, trồng khoai lang, mía tím, rau xanh, đậu, đỗ, ngô.... - Phát triểnkinh tế Lâm nghiệp: Diện tích đất lâm nghiệp là 50.274,1 ha. Trong đó đất rừng sản xuất là 40.145,1 ha, đất rừng phòng hộ 10.129 ha. Đất rừng tự nhiên phù hợp cho phát triển lâm nghiệp, trồng nhiều loại cây lâu năm có giá trị kinh tế cao như Quế, Sở, Thông, Lát và các loại cây dược liệu quý.. Phát triển kinh tế ngư nghiệp: Tiên Yên có bờ biển dài 35km, tiếp giáp Vịnh bắc bộ. Trong vùng là một hệ thống chuỗi bãi chiều rừng ngập mặn, tạo nên nguồn lợi hải sản khá phong phú, là nơi sinh sống của nhiều loại hải sản có giá trị như: Tôm, cua, cá song, cá cháp, ngán, sái sùng, giun biển… tạo ra một hệ sinh vật biển phong.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> phú, đa dạng, có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển. Trữ lượng hải sản lớn, khả năng cho phép khai thác ổn định khoảng 3500 tấn/năm, chủ yếu là tôm, cá, mực và các loại nhuyễn thể khác.. Câu 2: Bạn hãy kể về diễn biến của sự kiện ngày Tiếp quản Tiên Yên 08/8/1954 ? Ý nghĩa của sự kiện đó đối với sự phát triển của huyện Tiên Yên như thế nào? 1. Diễn biến ngày Tiếp quản Tiên Yên 08/8/1954: * Trước ngày Tiếp quản: Trước ngày 08/8/1954, địch ở trong các đồn bốt, doanh trại cuống cuồng thu vén chuẩn bị rút quân. Nhân dân các dân tộc huyện Tiên Yên công khai đi truyền tin tức về việc Pháp rút khỏi Tiên Yên vào ngày 08/8. Những ngày đầu tháng 8/1954: Ủy ban quân chính đã ra đời có nhiệm vụ đứng ra tiếp nhận mọi công việc bàn giao của thực dân Pháp và tay sai ngụy quyền, bảo đảm sự rút quân an toàn có trật tự của chúng và tổ chức chu đáo việc tiếp đón quân ta vào giải phóng Tiên Yên. Chính quyền cách mạng của huyện trong những ngày này hoạt động liên tục suốt ngày đêm, các kế hoạch tổ chức tiếp quản huyện lỵ Tiên Yên được vạch ra kỹ lưỡng. * Ngày Tiếp quản: - Đúng 12 giờ trưa ngày 08-8-1954, trước sự chứng kiến của hàng ngàn quần chúng, trước sự giám sát của Tổ quốc tế kiểm soát đình chiến tại Tiên Yên, những đơn vị Pháp cuối cùng đã câm lặng làm lễ cuốn cờ rút khỏi Tiên Yên, kéo theo hơn 3000 đồng bào (đa số là họ hàng, vợ con lính ngụy và lính thổ phỉ) theo Voòng A Sáng vào Nam. Khắp nơi trong khu vực thị trấn và các vùng ngoại vi như Tiên Lãng, Phố Cũ, Khe Tù, Lò Vôi…, cả trên bộ, dưới thuyền, một rừng cờ biểu ngữ phần phật tung bay trong nắng thu. Những tiếng hoan hô, những lời chào mừng bộ đội về tiếp quản, được cất lên không ngớt bằng đủ các thứ tiếng dân tộc trong huyện. - Niềm phấn khởi đó càng được dâng lên mạnh mẽ vào giờ phút Ủy ban quân chính của tỉnh và huyện cùng các đơn vị bộ đội du kích có nhiệm vị vào tiếp quản huyện lỵ ra mắt đồng bào và tuyên bố đã chính thức bàn giao chính quyền, hoàn thành công việc tống tiễn quân đội Pháp ra khỏi Tiên Yên. Lễ chứng kiến ra mắt của Ủy ban quân chính đã biến thành một cuộc mít tinh trọng thể và sau đó là một cuộc tuần hành.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> kéo dài qua các khu phố của thị trấn Tiên Yên. Đoàn người đi trong biển cờ, biểu ngữ và vang dậy tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng lao động Việt Nam muôn năm”. Trên nét mặt mọi người đều ngời sáng một niềm tin vào chế độ mới, vào cuộc sống mới. * Ý nghĩa của sự kiện đối với sự phát triển của huyện Tiên Yên: Ngày 08/8/1954 Tiên Yên hoàn toàn giải phóng! Đây là ngày sẽ mãi mãi còn lưu lại trong lòng những người dân Tiên Yên, những người đã trải qua những năm tháng đấu tranh không mệt mỏi để giải phóng quê hương, giải phóng cuộc đời nô lệ cho bản thân mình và cho các thế hệ mai sau. Là ngày có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với nhân dân các dân tộc huyện Tiên Yên, đưa Tiên Yên đã chuyển sang trang mới, đó là giai đoạn đấu tranh, xây dựng và phát triển đi lên. Câu 3: 3.1. Thời gian và địa điểm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Tiên Yên? 3.2. Thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế-xã hội của huyện Tiên Yên qua 60 năm xây dựng và phát triển? 3.3. Đến tháng 12 năm 2013, trên địa bàn huyện Tiên Yên có bao nhiêu đơn vị tập thể được Nhà nước phong tặng danh hiệu“Anh hùng LLVT’’? Bao nhiêu bà mẹ được phong tặng (truy tặng) danh hiệu “Mẹ ViệtNam anh hùng’’? 1. Thời gian và địa điểm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Tiên Yên: - Thời gian: tháng 10 năm 1948. - Địa điểm: Đỉnh núi Khe Giao, xã Điền Xá, huyện Tiên Yên.. 2. Thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế-xã hội của huyện Tiên Yên qua 60 năm xây dựng và phát triển: Từ năm 1954 đến nay Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Tiên Yên không ngừng trưởng thành và phát triển, diện mạo của huyện đã có nhiều đổi thay, kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh xuống còn 6,92% (năm 2013)..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> * Về Kinh tế: Những năm đầu sau khi tiếp quản, kết cấu hạ tầng của huyện Tiên Yên lúc đó còn hết sức nghèo nàn, lạc hậu. Từ năm 1990, huyện đã đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ bản, xây dựng nhiều công trình kinh tế trọng điểm, công trình phúc lợi đem lại hiệu quả thiết thực. - Nông, lâm, ngư nghiệp: Chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chú trọng ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, đem lại giá trị kinh tế cao. Từ năm 2011 đến nay, chương trình xây dựng nông thôn mới được tổ chức tốt trong toàn huyện, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội... Đến năm 2013, năng suất lúa đạt 46 tạ/ha/vụ, sản lượng lương thực đạt gần 17.000 tấn; tổng đàn gia súc 32.734 con, đàn gia cầm 181.600 con; diện tích rừng trồng mới 1.815 ha; khai thác gỗ rừng trồng 71.177m3, khai thác nguyên liệu giấy 1.525 tấn, quế vỏ 318 tấn, nhựa thông 110 tấn; Tổng sản lượng thuỷ sản khai thác 2.662 tấn;... Kinh tế nông nghiệp từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, toàn huyện hiện có 1.200 máy cày, trên 600 máy tuốt lúa. Phát triển trên 98 mô hình chăn nuôi theo hướng trang trại, gia trại, trong đó có 46 trang trại và 52 gia trại (Hiện có 29/46 trang trại đạt tiêu chí theo quy định của Trung ương).. Công nghiệp, thương mại - dịch vụ, xây dựng: Năm 2013, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 24,3 tỷ đồng; tổng giá trị hàng hoá bán ra 465,8 tỷ đồng; khối lượng hàng hoá vận chuyển 191 nghìn tấn;...100% đường giao thông đến các xã được bê tông hoá, 100% thôn, khe bản có điện lưới; tiến hành thảm nhựa các tuyến đường phố; xây dựng điện chiếu sáng từ Ngã ba Yên Than đến Dốc Nam xã Tiên Lãng..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Tiên Yên được quy hoạch trở thành trung tâm dịch vụ khu vực Miền Đông của tỉnh, là đô thị trung tâm tiểu vùng có chức năng tổng hợp, liên kết - hỗ trợ với các trung tâm vùng theo Quyết định số 1151/QĐ-TTg, ngày 30/8/2007 của Thủ Tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt - Trung đến năm 2020 và là khu vực trung chuyển hàng hóa qua biên giới; dịch vụ hậu cần cho các khu kinh tế mở (Móng Cái, Vân Đồn) của Tỉnh. * Văn hoá - xã hội: - Khi mới tiếp quản và đến trước những năm 1960 Tiên Yên chỉ có vài lớp học cấp 1 ở Thị trấn với gần 20 giáo viên; Bệnh viện huyện Tiên Yên với 5 ngôi nhà tranh tre lợp lá và một đội ngũ thầy thuốc với: 1 bác sỹ, 1 y sĩ, 4 y tá, 1 dược tá, 1 nữ hộ sinh, 2 hộ lý; 02 trạm y tế xã; 01 cửa hàng dược; Phong trào văn hóa, văn nghệ, TDTT, xây dựng đời sống mới, ăn chín uống sôi, xây dựng công trình vệ sinh, chăn nuôi xa nhà ở... đã dần phát triển trong nhân dân; nhiều xã, thôn xây dựng được đội văn nghệ nghiệp dư; huyện có một đội chiếu bóng lưu động phục vụ nhân dân.. - Hiện nay toàn huyện có 36 trường học, các trường học cơ bản đã hoàn thành việc ngói hoá và cao tầng đảm bảo cho học sinh học tập; toàn huyện hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS, có 16 trường học đạt trường chuẩn quốc gia; xây dựng Bệnh viện Tiên Yên trở thành Bệnh viện Đa khoa khu vực Tiên Yên, quy mô 140 giường bệnh, 132 cán bộ, công nhân viên chức trong đó có 17 bác sỹ; duy trì hoạt động 70 đội văn nghệ, 27 CLB thể thao, trên 130 sân chơi các môn thể thao…Tổ chức tốt các lễ hội truyền thống..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> * Công tác quốc phòng, an ninh: - Tình hình chính trị ở Tiên Yên sau ngày giải phóng rất phức tạp, toàn huyện vẫn còn 850 tên tề ngụy, 90 tên chỉ điểm cùng bọn thổ phỉ và bọn phản động trong người Hoa vẫn tiếp tục âm mưu chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chờ thời cơ pháp quay lại... trong khi đó chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ, chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức quản lý xã hội mới. - Đến nay tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững; an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tình hình nội bộ nhân dân ổn định, không để xảy ra xung đột bất ngờ; không để hình thành các điểm nóng... Xây dựng và triển khai hiệu quả nhiệm vụ công tác quốc phòng, tổ chức tốt các đợt ra quân huấn luyện và phong trào thi đua quyết thắng.. * Xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể: - Trước những năm 1960 Tiên Yên mới chỉ có 69 đảng viên với 13 chi bộ, toàn huyện mới thành lập được 10 chi đoàn với 144 đoàn viên; hội phụ nữ được khôi phục nhưng hoạt động chưa mạnh, bước đầu giúp chị em giải phóng được tự ti của giới phụ nữ; hội nông dân thành lập Ban Chấp hành gồm3 đồng chí....
<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Đảng bộ huyện thường xuyên quan tâm củng cố tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, thực sự là hạt nhân lãnh đạo; thực hiện tốt công tác phát triển đảng, xây dựng hệ thống chính quyền các cấp; Hoàn thành Đề án về việc “xoá thôn, bản chưa có đảng viên, chưa có tổ chức đảng”. Toàn huyện hiện có 33 chi, đảng bộ cơ sở; hơn 2000 đảng viên..... hoạt động chính quyền, đoàn thể được đẩy mạnh.... 3.3. Đến tháng 12 năm 2013, trên địa bàn huyện Tiên Yên có 03 đơn vị tập thể được Nhà nước phong tặng danh hiệu“Anh hùng LLVT’’ và 06 bà mẹ được phong tặng (truy tặng) danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng’’: * Tập thể: 03 tập thể + Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Yên. + Đảng bộ và nhân dân xã Tiên Lãng. + Đảng bộ và nhân dân xã Phong Dụ. * Mẹ Việt Nam anh hùng: 06 bà mẹ: + Mẹ Lê Thị Quân, thôn Thác Bưởi 1 xã Tiên Lãng. + Mẹ Nguyễn Thị Điểm, thị trấn Tiên Yên (truy tặng) + Mẹ Đỗ Thị Tình, xã Tiên Lãng (truy tặng). + Mẹ Phạm Thị Xuân, xã Tiên Lãng (truy tặng) + Mẹ Việt Nam anh hùng Bùi Thị Thơi, thị trấn TiênYên (truy tặng). + Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Lan, thị trấn Tiên Yên (truy tặng)..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Câu 4: Sinh thời, Bác Hồ đã bao nhiêu lần đến với Tiên Yên? Bạn hãy cho biết địa điểm và sơ lược nội dung mỗi lần Bác Hồ đến với Tiên Yên? - Sinh thời, Bác Hồ 2 lần đã đến với Tiên Yên. + Lần thứ nhất (ngày 08/5/1961): Bác đến Trung đoàn 248. Tại địa điểm thị trấn Tiên Yên (nay thuộc địa phận Đoàn kinh tế Quốc phòng327). Nội dung: Bác Hồ đến thăm cán bộ, chiến sĩ Trung Đoàn 248 thị trấnTiên Yên, huyện Tiên Yên. + Lần thứ hai (ngày 09/5/1961). Địa điểm: Sân bay đất Tiên Lãng (nay là thôn Xóm Nương, xã Tiên Lãng, huyệnTiên Yên). Nội dung: Bác Hồ thăm và nói chuyện với quân và nhân dân các dân tộc huyện Tiên Yên. Bác căn dặn Tiên Yên là huyện miền núi có nhiều dân tộc, vì vậy nhiệm vụ trọng tâm của các cô, các chú phải đoàn kết các dân tộc anh em. Cán bộ phải đi xuống cơ sở, sâu sát với nhân dân. Đảng viên, Đoàn viên phải gương mẫu trong các phong trào củng cố Hợp tác xã nông nghiệp. Xã viên phải coi Hợp tác xã là nhà, phải có tinh thần làm chủ, đoàn kết, tiết kiệm, chí công vô tư. Cải tạo tiểu thủ công thương, phát triển sản xuất nâng cao đời sống nhân dân. Câu 5: Đề xuất những ý tưởng và giải pháp nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh về tự nhiên, xã hội của Tiên Yên để xây dựng Tiên Yên ngày một giàu đẹp văn minh. Có nhiều đề án, quy hoạch phát triển Tiên Yên trong tương lai của các chuyên gia, rất hiện đại và đồng bộ; tuy nhiên với cương vị của một công dân sinh ra, gắn bó và trưởng thành tại mảnh đất giàu có nhiều tiềm năng này, tôi cũng đưa ra một số ý kiến tham gia để cùng các cấp, các ngành đưa Tiên Yên phát triển đi lên trong một tương lai không xa. Nếu bàn và đưa ra giải pháp phát triển dựa trên các thế mạnh của “rừng vàng, biển bạc”, vị trí địa lý thuận lợi cho giao thương, tập chung phát triển các đặc sản ẩm thực địa phương như gà Tiên Yên, bánh gật gù, kẹo lạc hồng hay phát triển du lịch.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> sinh thái tại những Thác nước, bãi triều ven biển thì có lẽ là không mới và huyện cũng đang tiến hành triển khai để nâng tầm các thứ đó. Tuy nhiên, điều muốn bàn ở đây là có quy hoạch cho sự phát triển cần bằng hài hòa giữa các miền địa lý, giữa sự phát triển của các dân tộc thiểu số trên các xã vùng cao với vùng thấp và ven biển. Để có được sự phát triển hài hòa như vậy, trong những năm tiếp theo huyện cần có những chính sách hợp lý, có những giải pháp cụ thể để dần dần xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các dân tộc tại đó. Huyện đã có đầu tư “điện, đường, trường, trạm” tại tất cả các xã, đường giao thông đến hầu hết các thôn, khe bản xa, tỉ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi cũng chiếm tỉ lệ cao, đời sống nhân dân nhiều thay đổi khi đã có điện chiếu sáng, các thôn vùng cao khó khăn như Nà Hắc (Hà Lâu), Khe Mạ (Phong Dụ), Nà Cam (Đại Thành)… đều có đường đi đến tận thôn, có Nhà văn hóa, điểm trường, đó là sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước đến đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng sa. Nhân dân, vùng cao được hưởng lợi rất nhiều từ sự ưu đãi của Nhà nước, cụ thể là chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (gọi tắt là chương trình 135); mục đích ý nghĩa của Chương trình là rất nhân văn ý nghĩa, muốn đồng bào dân tộc vùng cao thu hẹp dần khoảng cách với đồng băng, tuy nhiên nó lại có mặt trái là đồng bào lại có tư tưởng trông trờ, ỷ lại quá nặng nề vào các dự án, đề án của chương trình, nên không mạnh dạn phát triển kinh tế để thoát nghèo. Chính vì lẽ đó nên tôi cũng đề xuất với các cấp các ngành một số giải pháp để dần hạn chế và khắc phục tư tưởng trông trờ ỷ lại của nhân dân vùng cao, như sau: Một là: Hiện nay nhân dân không có tư liệu sản xuất (đất), nguồn tài nguyên rừng cạn kiệt, chỉ đi là thuê và kiếm sống qua ngày nên đời sống vẫn còn vất vả; Do vậy, nên chia cho người dân không có đất một số diện tích đất rừng sản xuất phù hợp, tránh hiện tượng người dân ở giữa rừng núi nhưng không có đất sản xuất. Hai là: Đầu tư các mô hình, dự án phát triển kinh tế nhưng phải có ký cam kết giữa Nhà nước và nhân dân để có sự ràng buộc và ý thức chịu trách nhiệm của người dân, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, không hiệu quả, được thì dân hưởng không được thì cũng chẳng sao. Quy hoạch các vùng sản xuất cây lâu năm, cây có giá trị kinh tế cao phù hợp với địa phương, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng hàng hóa. Ba là: Dần dần xóa bỏ tính trông trờ ỷ lại của nhân dân các dân tộc vùng cao, từng bước giảm các hỗ trợ, trợ cấp; Khi đưa dự án, công trình cần phải có sự cam kết thực hiện và phát triển có hiệu quả, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Để thực hiện được điều này, phải tuyên truyền, phổ biến nhân dân để xóa dần trong nhân dân nếp nghĩ đã ăn sâu vào họ “mặc kệ kiểu gì ta cũng được cho”. Bốn là: Tiếp tục đầu tư cho sự phát triển giáo dục đào tạo, đầu tư hệ thống nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, trang bị sách, thiết bị nghe nhìn để thay đổi dần những suy nghĩ bảo thủ, trì trệ lạc hậu của người dân, đồng thời trang bị khoa học kỹ thuật tiên tiến ứng dụng vào sản xuất và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đầu tư để nhân dân vùng cao phát triển, thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển so với vùng thấp không chỉ là nhiệm vụ riêng của cả huyện mà là mục tiêu chung của Đảng, Nhà nước; tuy nhiên muốn địa phương phát triển, ngoài sự quan tâm tạo điều kiện của Nhà nước, thì bản thân người dân tại đó phải có ý thức vươn lên, phải tự xấu hộ trước cái nghèo, lạc hậu của mình. Kinh tế - xã hội vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, là điều kiện quan trọng để huyện có sự phát triển trong tương lai./..
<span class='text_page_counter'>(14)</span>