Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.89 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>1. Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐÊ Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Toán cùng với các môn học khác trong nhà trường tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện, rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặc khác các kiến thức, kĩ năng môn toán ( trong đó bao gồm cả toán có lời văn) ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở tiểu học. Các em còn được làm quen với các bài toán có lời văn ngay từ lớp Một và xuyên suốt quá trình học của các em tới lớp 5. Toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói có liên quan tới cuộc sống xảy ra hàng ngày. Điều quan trọng nhất để giải được bài toán là phải hiểu và tìm được các mối quan hệ của bài toán cho và yêu cầu cần phải tìm trong bài toán, để tìm được những câu lời giải đúng và phép tính chính xác. Qua quá trình dạy học nhiều năm ở tiểu học, được trực tiếp thâm nhập vào quá trình học toán của học sinh nhất là học sinh lớp 3, tôi nhận thấy đa phần những hạn chế trong kĩ năng giải toán của học sinh bắt nguồn từ những nguyên sau: + Học sinh đọc đề vội vàng, không chịu phân tích kĩ đề toán khi đọc đề. + Học sinh bỏ qua một bước cơ bản trong giải toán là tóm tắt đề toán, chưa xác định các kiểu tóm tắt đề toán khác nhau phụ thuộc vào từng dạng bài cụ thể. + Học sinh chưa có kĩ năng phân tích , tư duy khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết, các em làm bài toán chỉ làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. + Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài giải, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan của bản thân..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Ngoài ra, còn có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày với các bài toán giải có lời văn phức tạp.Do đó bài làm của các em thường chưa chặt chẽ và sát thực về lời giải, vì vậy kết quả bài làm của học sinh hiệu quả chưa cao Với mong muốn là làm thế nào để học sinh biết cách giải được bài toán có lời văn và cũng để góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân. Trong quá trình giảng dạy tôi đã đúc kết được “Một số giải pháp hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn trong chương trình Toán 3”. 2. Phần thứ hai : NỘI DUNG 1. Cơ sở khoa học: Quá trình dạy học Toán 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề , tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong quá trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được . Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và của đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh tự phát hiện và tự giải quyết bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các kiến thức liên quan đã học, với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ sở để các em giải tốt dạng toán có lời văn. 2. Nội dung cụ thể:.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán, được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên tôi nghĩ chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. * Bước 3: Phân tích bài toán. * Bước 4: Viết bài giải. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: Bước 1: Đọc kĩ đề toán Trong những năm tôi trực tiếp giảng dạy lớp 3 và quan sát học sinh giải toán, tôi thấy các em có một thói quen không tốt là: đọc không kĩ đề bài và giải bài toán ngay. Nên mỗi bài toán tôi yêu cầu học sinh đọc ít nhất 3 lần, nhằm mục đích giúp các em nắm được 3 yếu tố cơ bản: + Những “dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đề bài. + Những “điều kiện” là mối quan hệ giữa cái đã cho với cái cần tìm. + “Những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên quan đến cái cần tìm. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề bài toán là đã làm ngay. Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm. Bước 2: Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán nhanh, chính xác và bài giải sẽ đạt được kết quả tốt. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh: + Tóm tắt bằng chữ (bằng lời giải). + Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào cho dễ hiểu nhất, rõ nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài như: Đối với những bài toán ở dạng nhiều hơn, ít hơn hay gấp lên một số lần thì tôi thường hướng dẫn học sinh nên tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng để bài toán đơn giản hơn làm cho học sinh để hiểu và để tìm ra hướng giải . Ví dụ 1: Có hai can đựng nước mắm , can thứ nhất đựng 36 lít. Can thứ hai đựng nhiều hơn can thứ nhất 3 lít. Hỏi cả hai can đựng bao nhiêu lít dầu? Tóm tắt: Can thứ nhất:. 36 lít. Can thứ hai:. ? lít. Ví dụ 2: Có hai can đựng nước mắm , can thứ nhất đựng 36 lít. Can thứ hai đựng gấp 3 lần số lít nước mắm của can thứ nhất. Hỏi can thứ hai đựng bao nhiêu lít nước mắm ? Tóm tắt: 36 l Can thứ nhất Can thứ hai ? lít Đối với những bài toán ở dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị thì tôi hướng dẫn học sinh nên tóm tắt bằng lời giải. * Ví dụ 3: Cã 35 l mËt ong chia ®ều vµo 7 can. Hái mçi can cã mÊy lÝt mËt ong? Tóm tắt:. 7 can: 35 lít.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> 1 can:… lít? Bước 3: Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên ở bước này tôi đã sử dụng phương pháp phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Cái này biết chưa? - Còn cái này thì sao? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Hay làm thế nào? Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán tốt hơn. Khi phân tích cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “phép 1. chia” nếu bài toán yêu cầu “ tìm 4 ...”. Chọn “ phép trừ” nếu bài toán cho có từ“ bớt đi” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ lấy ra”.Chọn “ phép nhân” nếu bài toán cho có từ “ gấp đôi, gấp 3...”. Chọn “phép cộng” nếu bài toán cho có từ “ nhiều hơn, cả hai”... Tuy nhiên, tùy từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách lựa chọn đặt câu lời giải cho phù hợp. Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Nên trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi để cho các em suy nghĩ, thảo luận theo nhóm ( cặp) ( mô hình lớp VNEN) từng thành viên đọc kỹ đề bài toán suy nghĩ để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp với câu hỏi của bài toán đó, sau đó trình bày ý kiến của mình trước nhóm, cả nhóm theo dõi nhận xét, bổ sung có sự giúp đỡ của giáo viên. Cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với các em) còn các cách khác giáo.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải hay nhất ghi vào bài giải. Bước 4: Viết bài giải : Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích và quá trình tìm hiểu bài các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày bài làm. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp, tuyên dương trước (nhóm, lớp) những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp cho các em đó lên bảng trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập ( chủ yếu vào buổi hai). Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải : Khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước : + Đọc lời giải. + Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí với yêu cầu của bài toán chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. + Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. + Thử lại kết quả, đáp số, xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cáh giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ đọc lập của học sinh. *Hướng dẫn học sinh giải một số bài toán cụ thể : Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, tôi thường xuyên thay đổi hỡnh thức luyện tập. Đõy là một vài vớ dụ tôi đã tiến hành dạy ở trên lớp theo phư¬ng ph¸p vµ h×nh thøc như sau: Ví dụ 1: Có hai can đựng nước mắm, can thứ nhất đựng 36 lít. Can thứ hai đựng nhiều hơn can thứ nhất 3 lít. Hỏi cả hai can đựng bao nhiêu lít nước mắm *Hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề toán:.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> *Hướng dẫn học sinh Tóm tắt: - Bài toán cho biết gì? (Có hai can đựng nước mắm, can thứ nhất đựng 36 lít. Can thứ hai đựng nhiều hơn can thứ nhất 3 lít. ) - Bài toán hỏi gì? (Hỏi cả hai can đựng bao nhiêu lít nước mắm ?) - Dựa vào đề bài tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt theo sơ đồ đoạn thẳng như sau: - Can thứ nhất đựng 36 lít nước mắm thì ta vẽ 1 đoạn thẳng tương ứng với 36 lít nước mắm. - Can thứ hai đựng nhiều hơn can thứ nhất thì ta vẽ 1 đoạn thẳng dài hơn đoạn thẳng trên 1 đoạn ứng với 3 lít nước mắm. *Tóm tắt bằng sơ đồ được thể hiện như sau: Tóm tắt 36 lít ? lít. Can thứ nhất Can thứ hai. *Hướng dẫn HS phân tích bài toán: - Hỏi: Muốn tìm được số lít nước mắm của cả hai can ta làm thế nào? (HSTL: Muốn tìm được số lít nước mắm của cả hai can ta lấy số lít nước mắm của can thứ nhất cộng với số lít nước mắm của can thứ hai). - Hỏi: Số lít nước mắm của can thứ nhất là bao nhiêu ? (là 36 lít). - Hỏi: Số lít nước mắm của can thứ hai là bao nhiêu ? (là chưa biết). - Chúng ta phải đi tìm số lít nước mắm của can thứ hai trước. Muốn tìm số lít nước mắm của can thứ hai ta phải dựa vào đề bài cho biết gì? (Can thứ hai đựng nhiều hơn can thứ nhất 3 lít. ) - Yêu cầu học sinh tìm số lít nước mắm can thứ hai (ta lấy số lít nước mắm can thứ nhất cộng với 3). - Như vậy, có số lít nước mắm can thứ nhất và can thứ hai. Ta sẽ tính được số lít nước mắm của cả hai can..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Yêu cầu học sinh các nhóm làm bài vào vở. Gọi một học sinh lên bảng làm. - Yêu cầu học sinh nêu lần lượt bài giải. Học sinh và giáo viên kiểm tra nhận xét, sửa chữa. Bài giải: Số lít nước mắm can thứ hai đựng là: 36 + 3 = 39 (lít) Số lít nước mắm cả hai can đựng là : 36 + 39 = 75 (lít) Đáp số : 75 lít nước mắm Trong bài toán này, tôi chú ý cho học sinh các từ ngữ quan trọng “ đựng nhiều hơn”, “cả hai” để khi gặp những bài tập tương tự như vậy các em sẽ biết cách làm ngay. Ví dụ 2 : Có hai can đựng nước mắm, can thứ nhất đựng 36 lít. Can thứ hai đựng gấp 3 lần số lít nước mắm của can thứ nhất. Hỏi can thứ hai đựng bao nhiêu lít nước mắm ? * Hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề toán: Trước tiên tơi yêu cầu các em phải đọc kĩ đề toán và nêu được: + Bài toán cho biết gì ? (Cĩ hai can đựng nước mắm, can thứ nhất đựng 36 lít. Can thứ hai đựng gấp 3 lần số lít nước mắm của can thứ nhất. ) + Bài toán hỏi gì? (Hỏi can thứ hai đựng bao nhiêu lít nước mắm ?) * Hướng dẫn học sinh tóm tắt: Dựa vào đề bài tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt theo sơ đồ đoạn thẳng như sau: - Can thứ nhất đựng 36 lít nước mắm thì ta vẽ 1 đoạn thẳng tương ứng với 36 lít nước mắm . - Can thứ hai đựng gấp 3 lần số lít nước mắm của can thứ nhất thì ta vẽ 1 đoạn thẳng dài gấp 3 lần đoạn thẳng ứng với can thứ nhất. Tóm tắt bằng sơ đồ được thể hiện như sau:.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Tóm tắt: 36 L Can thứ nhất Can thứ hai ? lít * Hướng dẫn phân tích đề: Để giải được bài toán, tôi yêu cầu HS phân tích đề bắt đầu từ bài toán hỏi gì? - Muốn tìm được số lít nước mắm của can thứ hai ta làm thế nào?(HSTL: Muốn tìm được số lít nước mắm của can thứ hai ta lấy sớ lít nước mắm của can thứ nhất nhân với 3). - Vì sao lấy số lít dầu của can thứ nhất nhân với 3? ( Vì số lít nước mắm của can thứ hai gấp 3 lần số lít nước mắm của can thứ nhất). Dựa vào quá trình tìm hiểu bài toán, phân tích đề bài toán các em sẽ viết được bài giải như sau: Bài giải: Số lít nước mắm can thứ hai đựng là: 36 x 3 = 108 (lít) Đáp số: 108 lít nước mắm . GV yêu cầu một vài em đọc bài giải, cả lớp theo dõi, nhận xét. * Đối với bài toán hợp, liên quan đến việc rút về đơn vị. (2 kiểu bài) a) Kiểu bài 1: Ví dụ 1: Có 24 quả táo xếp đều vào 4 đĩa. Hỏi 6 đĩa có mấy quả táo? + GV yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài (3 lần). + Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán à GV ghi bảng: Tóm tắt: 4 đĩa : 24 quả 6 đĩa : …. quả? +Hướng dẫn học sinh phân tích đề: (học sinh thảo luận theo nhóm) ..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> + Đại diện nhóm trình bày, các nhóm khác nhận xét: - Muốn tính được số quả táo có trong 6 đĩa ta làm thế nào? (ta phải biết 1 đĩa đựng bao nhiêu quả táo ). - Làm thế nào để tìm được số quả táo có trong 1 đĩa? (lấy số quả táo trong 4 đĩa chia cho 4). + Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 đĩa có bao nhiêu quả táo ? + Yêu cầu học sinh nêu cách tính 6 đĩa khi đã biết 1 đĩa . (lấy số quả táo có trong 1 đĩa nhân với 6). GV yêu cầu 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán ( bảng phụ) , cả lớp làm vào vở. + Học sinh trình bày lại bài giải. Cả lớp và giáo viên kiểm tra, nhận xét, sửa chữa, bổ sung . Bài giải: Số quả táo có trong mỗi đĩa là: 24 : 4 = 6 ( quả) Số quả táo có trong 6 đĩa là : 6 x 6 = 36 ( quả) Đáp số: 36 quả táo. Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: ( Bước tìm số quả táo trong 1 đĩa gọi là bước rút về đơn vị). * Hướng dẫn HS củng cố dạng toán liên quan đến rút về đơn vị: (kiểu bài 1) Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: + Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị (giá trị 1 phần trong các phần bằng nhau, ta thực hiện phép chia), (đây là bước rút về đơn vị). + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng nhau, ta thực hiện phép nhân). + Học sinh áp dụng các bài toán tương tự: + GV nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng: 3 túi : 45 kg 12 túi : ...? kg.. Hoặc: 4 thùng : 20 gói 5 thùng : …? gói..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> + HS nêu kết quả và giải thích cách làm. GV nhận xét, sửa chữa. b) Kiểu bài 2: Ví dụ 2: Có 30 kg đường đựng đều trong 6 túi. Hỏi có 35 kg đường thì đựng trong mấy túi như thế? + GV yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài (3 lần). + Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán à GV ghi bảng: Tóm tắt: 30 kg : 6 túi 35 kg : ...túi ?. * Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán theo nhóm đôi. + GV yêu cầu từng cặp học sinh phân tích: - Muốn biết 35 kg đường đựng trong bao nhiêu túi ta làm thế nào? (Tìm 1 túi chứa bao nhiêu kg đường). + GV yêu cầu học sinh nhẩm số kg đường có trong 1 túi ? (1 túi : 5 kg) + Đã biết 5 kg chứa trong 1 túi yêu cầu học sinh tính 35 kg chứa bao nhiêu túi ? (lấy số kg có chia cho số kg đường chứa trong 1 túi). + GV cho HS các nhóm làm bài vào bảng phụ. + Giáo viên, lớp kiểm tra chéo và nhận xét các kết quả. Bài giải; Số kg đường có trong mỗi túi là : 30: 6 = 5 (kg) Số túi để đựng 35 kg đường là : 35 : 5 = 7 (túi) Đáp số: 7 túi Yêu cầu học sinh nhắc lại bước rút về đơn vị: (Bước tìm số kg đường trong 1 túi gọi là bước rút về đơn vị) . * Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán rút về đơn vị (kiểu bài 2): + Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị (giá trị 1 phần trong các phần bằng nhau, ta thực hiện phép chia), (đây là bước rút về đơn vị)..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> + Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) (ta thực hiện phép chia). Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương pháp hơn. Đặc biệt khi xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết quả bài giải (thử lại theo yêu cầu của bài). Tóm lại: Trên đây là phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải một số dạng bài toán có lời văn. Tôi tin rằng nếu chúng ta làm được như vậy thì các em nắm được phương pháp giải dạng toán này tốt hơn, chắc chắn hơn, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin khi giải toán. * Kết quả nghiên cứu: Trong suốt quá trình quan sát học sinh giải toán, tôi nhận thấy các em rất thích giải toán khi các em có đủ vốn kiến thức và phương pháp gi ải toán. Các em giải toán đúng, chính xác hơn khi các em được thầy cô nhiệt tình hướng dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất. Với phương pháp này tôi đã trang bị cho các em vốn kiến thức, phương pháp c ơ bản để các em giải các bài toán có lời văn không nhần lẫn, sai sót dẫn đến ch ất lượng học của các em được nâng lên rõ rệt. Qua khảo sát cu ối n ăm h ọc tôi thu được kết quả như sau : Tổng số học sinh 26. 1 -> 4 điểm SL % 0 0. 5 -> 6 điểm SL % 5 19,2. 7 -> 8 điểm SL % 8 30,8. 9 -> 10 điểm SL % 13 50. Nhìn vào bảng kết quả trên, tôi thấy đó là kết quả thực chất của các em. Với kết quả đó cho chúng ta thấy được có phương pháp tốt thì học sinh làm bài tốt hơn. Chất lượng của học sinh không tự nhiên mà có được, mà đòi hỏi mỗi người giáo viên chúng ta biết phương pháp truyền đạt tới từng đối tượng học sinh. Cho nên dạy toán ở các dạng này chúng ta càng cẩn thận, chi tiết bao nhiêu thì chất lượng tiếp thu và làm bài càng tăng lên, các em học toán sẽ tự tin hơn. Cùng với hướng dẫn phương pháp giải toán, tôi còn hiểu được đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn . Đối với những em tiếp thu.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> bài chậm , thường rụt rè, tự ti, tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “ tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh sẽ có tác dụng khích lệ các em trong học tập. Cho nên dạy học là cả một nghệ thuật, bên cạnh việc truyền đạt kiến thức, kĩ năng cho học sinh. Người giáo viên phải tạo được hứng thú học tập cho các em, để các em thêm yêu trường, yêu lớp, yêu thích các môn học và nhất là môn toán. Học sinh không còn cảm thấy ngại học , chán nản mà say mê , háo hức mỗi khi đến giờ học Toán trên lớp 3. Phần thứ ba: KẾT LUẬN CHUNG Ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành phương pháp trên để hướng dẫn giải các bài toán có lời văn. Chính vì vậy, các em đã nhanh chóng nắm được cách giải, các em biết phân tích để thấy được sự giống nhau, khác nhau khi thực hiện bài giải, đặc biệt là các em biết nhận dạng từng dạng toán một cách thành thục, có kĩ năng, kĩ xảo tốt hơn. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế. Tuy nhiên vận dụng có hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào khả năng truyền đạt của giáo viên. Theo tôi kĩ năng thực hành của giáo viên là yếu tố quan trọng nhằm rèn luyện năng lực thực hành cho học sinh, để học sinh đạt được kết quả cao trong học tập. Ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên luôn luôn theo dõi những tiến bộ trong học tập của học sinh, từ đó có thể cải tiến, điều chỉnh hoạt động dạy học cho phù hợp và có hiệu quả . Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh giải tốt dạng toán có lời văn mà bản thân tôi đã nghiên cứu , vận dụng đối với học sinh lớp tôi phụ trách và phần nào cũng đã có hiệu quả. Tôi thiết nghĩ với phạm vi thực hiện còn hạn hẹp nên những giải pháp tôi trình bày ở trên không tránh khỏi những khiếm khuyết .Kính mong được đón nhận những ý kiến góp ý chân thành của các đồng.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> nghiệp giúp giải pháp trên của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thị trấn Mai Châu, ngày 25 tháng 5 năm 2014 Người viết. Đỗ Thị Tuyết Lan. HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP KHOA HỌC.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN MAI CHÂU Nhất trí xếp loại: T/ M NHÀ TRƯỜNG. HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO MAI CHÂU Nhất trí xếp loại:.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Mục lục 1. Phần thứ nhất : Đặt vấn đề. Trang 1& 2. 2. Phần thứ hai : Nội dung 1. Cơ sở khoa học.. Trang 2. 2. Nội dung cụ thể.. Trang 3. * Bước 1: Đọc kỹ đề toán. Trang 3. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. Trang 3 - 4. * Bước 3: Phân tích bài toán. Trang 5. * Bước 4: Viết bài giải. Trang 6. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh gía cách giải. Trang 6. * Hướng dẫn học sinh giải một số bài toán cụ thể.. Trang 6 - 12. * Kết quả nghiên cứu.. Trang 12 - 13. 3. Phần thứ ba : Kết luận chung.. Trang 13.
<span class='text_page_counter'>(17)</span>