Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ xung, phát triển năm 2011). Liên hệ thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.5 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất
yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại trong đó có Việt Nam.
Những tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã xuất hiện từ những năm
đầu của thế kỉ XX gắn liền với khát vọng của nhân dân ta có một nhà nước độc lập,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân bằng pháp luật; nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên quy định
của pháp luật.
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, những tư tưởng về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện và ghi nhận trong
các văn kiện, văn bản của Đảng và nhà nước. Trong đó Cương lĩnh 1991 có vị trí,
vai trị, giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu giai đoạn
cách mạng mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trên cơ sở tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 sẽ thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Dự
thảo Cương lĩnh đã được Ban Chấp hành Trung ương công bố rộng rãi cùng với các
dự thảo văn kiện khác trình Đại hội XI để lấy ý kiến tham gia của đơng đảo các
tầng lớp nhân dân, đóng góp trí tuệ vào công việc chung của Đảng. Qua nghiên cứu
dự thảo Cương lĩnh, bản thân rất tâm đắc và bày tỏ sự thống nhất cao với những nội
dung được thể hiện trong dự thảo. Chính vì vậy em xin chọn đề tài “Những đặc
trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xác
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
( bổ xung, phát triển năm 2011). Liên hệ thực tiễn.” làm đề tài cho bài tiểu luận của


mình.

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2


Mục đích của tiểu luận là trên cơ sở nghiên cứu những đặc điểm của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền, nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng pháp luật
của Việt Nam trong những năm qua, tác giả đề tài đề xuất giải pháp cơ bản để góp
phần phát triển pháp luật cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Để thực hiện mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
-

Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận về đặc trưng của nhà nước pháp quyền

-

và nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Phân tích những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá

-

3.
-

độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ xung, phát triển năm 2011), liên hệ thực tiễn
Đề xuất các kiến nghị thực hiện hóa các quy định cương lĩnh và hoàn thiện nhà


nước pháp quyền chủ nghĩa
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn nghiên cứu
lý luận, đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền Việt
Nam.

-

Phạm vị nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước, hệ
thống pháp luật, về vấn đề dân chủ và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân
dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1991 đến nay

4.
-

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là tư tưởng về nhà nước pháp
quyền và pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Đồng thời dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Cơ sở thực tiễn của đề tài là
3


các báo cáo tổng kết, đánh giá về chất lượng, hiệu quả của hệ thống pháp luật, thực
tiễn công tác xây dựng và thi hành pháp luật ở nước ta trong những năm qua.

-

Phương pháp nghiên cứu
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình
thực hiện đề tài, em sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch
sử cụ thể, phương pháp logic, phương pháp hệ thống, thống kê; phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh và điều tra xã hội.

5.
-

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Đề tài phân tích những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ xung, phát triển năm 2011). Làm sâu sắc
hơn đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền

-

Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật phù hợp với tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

4


NỘI DUNG
I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.


Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Trong các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở các nước trên thế

giới, có thể thấy khá nhiều quan niệm về nhà nước pháp quyền. Chẳng hạn, “Nhà
nước pháp quyền là một nhà nước gắn chặt với pháp luật và được hợp pháp hoả bởi
pháp luật” “Nhà nước pháp quyền là toàn thể một quổc gia có trách nhiệm thực
hiện cơng lí, phục tùng pháp luật và quan tâm đặc biệt đến việc tôn trọng các quyền
của con người và nguyên tắc tương ứng”
Ở Việt Nam, quan niệm về nhà nước pháp quyền cũng khá phong phú.
Chẳng hạn Nhà nước pháp quyền “là Nhà nước thừa nhận tẩt cả các đạo luật và văn
bản dưới luật do cơ quan lập pháp và Chính phủ (trong khn khổ thẩm quyền của
nó) đặt ra, đỏ là Nhà nước bị hạn chế bằng pháp luật, Nhà nước đứng trong pháp
luật, chứ khơng phải Nhà nước đứng ngồi hoặc đứng trên pháp luật”,hay “Nhà
nước pháp quyền là tổ chức công quyền trong hệ thống chỉnh trị của xã hội công
dân được xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lí tiến bộ của nhăn loại như
cơng bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giả trị xã
hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới - sự tôn trọng và bảo vệ các
quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động
của Nhà nước, sự phân công quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và chủ
quyền nhân dân”
Từ những quan niệm nêu trên cũng như xuất phát từ biểu hiện của những
nhà nước pháp quyền trong thực tiễn, có thể khẳng định, nhà nước pháp quyền
trước tiên phải là nhà nước theo đúng nghĩa của từ này - tổ chức đặc biệt của quyền
lực chính trị, tổ chức cơng quyền của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền
không phải là một kiểu nhà nước tưong ứng với một hình thái kinh tế - xã hội theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước có
5



cách thức tổ chức và hoạt động hoàn toàn khác các nhà nước độc tài, chuyên chế,
nhà nước cai trị. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khn khổ
pháp luật, đó là hệ thống pháp luật dân chủ, phản ánh cơng lí, phù hợp với quyền tự
nhiên của con người. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
chủ quyền nhân dân, có cơ chế phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước nhằm bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, tự do cá nhân. Nhà nước pháp quyền là công cụ để
phục vụ xã hội, phục vụ con người, mang lại lợi ích cho công dân, bảo vệ tự do cá
nhân và công bằng xã hội. Nhà nước cũng như các chủ thể khác trong xã hội đều
luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh
Tóm lại, có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của
pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở
một hệ thống pháp luật dần chủ, công bằng và các ngun tắc chủ qun nhân dãn,
phân cơng và kiểm sốt quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do
cá nhân, cơng bằng, bình đắng trong xã hội
1.2.
-

Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề

của chế độ nhà nước.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân
chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân
chủ của mình thơng qua dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
-

Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật
Hiến pháp và pháp luật ln giữ vai trị điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ


hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của
mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
6


Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có
thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ
thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền
trong nhà nước và xã hội.
-

Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước.

Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền
con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các
quy định của luật pháp.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương
diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân
được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì
luật cho phép, đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.
-

Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện
theo các nguyên tắc dân chủ: phân cơng quyền lực và kiểm sốt quyền lực.
Tính chất và cách thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa

dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm

chung là quyền lực nhà nước khơng thể tập trung vào một người, vào một cơ quan,
mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức
và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền
lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.
-

Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật phù hợp.
7


Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật
dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là
một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn
được tơn trọng, đề cao và tn thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có
thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao,
bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của
Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này.
Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải
xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch
để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã
hội.
-

Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong
các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế, Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng,


nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình kinh
tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của
thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc
phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.
Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trị và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội
(các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy
định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước
pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi
Hiến pháp và pháp luật.
8


II: ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quá trình hình thành và hồn thiện các đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu
việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất cơng. Để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung, phác
thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa (mà
chúng ta gọi đó là những ''đặc trưng''). Nếu khơng phác thảo được mơ hình, những
đường nét cơ bản thì rất khó xác định mục tiêu phấn đấu, định hướng để xây dựng
chủ nghĩa xã hội và biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Hơn nữa, những
đặc trưng thể hiện mơ hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã
hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát
triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng cũng rất khó khăn đối với các Đảng

cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong bối cảnh
tình hình hiện nay, khi mà chủ nghĩa xã hội trên thế giới vẫn đang cịn trong tình
trạng thối trào.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự báo về những đặc
trưng của xã hội chủ nghĩa xã hội dựa trên thực tiễn đương thời. Tuy khơng coi đó
là mơ hình bất biến, song các ơng đã hình dung và phác thảo về chủ nghĩa xã hội một chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn so với các chế độ xã hội trước đó
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc
từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác 9


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận
thấy việc xác định đúng mơ hình chủ nghĩa xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định
đến sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bởi đó là cơ
sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách và pháp luật nhằm hiện thực hoá mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Cương lĩnh 1991) của Đảng, mơ hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng đã được phác hoạ với 6 đặc trưng. Đại hội lần thứ X (năm 2006) của Đảng đã
bổ sung, phát triển làm cho mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam toàn diện hơn, gồm
8 đặc trưng. Trong Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục
xác định 8 đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội trong hai văn kiện nói trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng trong Cương lĩnh 2011 là thành quả của 25 năm đổi mới, trước hết là
thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt
Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa
''cái phổ biến” và ''cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên một mơ hình: Chủ

nghĩa xã hội Việt Nam.
2.1. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1.

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân
Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao

nhất là dân vì dân là chủ” ; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”.
10


Với Hồ Chí Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước.
Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho
bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước
được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của
nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thơng qua chế độ bầu cử
dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác
lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp
nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.
Đặc trưng này là kế thừa của Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường
lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một số người khi cho rằng ''dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' nghĩa là Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật,
nêu trong Cương lĩnh 2011 đã thay từ “dưới'' sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng
từ ''do'' Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Trong nhiều đặc trưng còn lại của Cương lĩnh 2011, đều có sự bổ sung, phát
triển cho phù hợp với thực tiễn và nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Ngay cả ở
đặc trưng về văn hóa ''có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc'' tuy khơng
có sự thay đổi gì về câu chữ so với Cương lĩnh 1991 và Văn kiện Đại hội X song
vẫn chứa đụng những nhận thức mới sâu sắc hơn của Đảng ta về nội hàm khái niệm
''nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, về vai trị của văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa...

11


Kế thừa Văn kiện Đại hội X, trong Cương lĩnh 2011 Đảng ta khẳng định lại
đặc trưng ''do nhân dân làm chủ'' (bỏ cụm từ ''lao động'' trong Cương lĩnh năm
1991). Sự khẳng định đó nhằm phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc; mỗi người dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng
đất nước, dù mình sống trong hay ngồi nước.
2.1.2.

Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa gia cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Các nhà kinh điển Mácxít đã luận chứng sâu sắc về bản chất nhà nước.

Theo đó, nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp (giai cấp thống trị, cầm
quyền).Trên thực tế, nhà nước chiếm hữu nô lệ mang bản chất giai cấp chủ nô, nhà
nước phong kiến mang bản chất giai cấp địa chủ phong kiến, nhà nước tư sản mang
bản chất giai cấp tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu mang bản chất giai
cấp công nhân.
Trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là “lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại” (V.I. Lênin), đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, lại

được trang bị học thuyết khoa học, cách mạng là chủ nghĩa Mác -Lênin, có sứ
mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản
trên phạm vi toàn thế giới. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử này, giai cấp công nhân
không thể không liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
cùng tất cả những người lao động khác trong cuộc đấu tranh cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Ở Việt Nam, trong lịch sử, giai cấp công nhân đã liên minh chặt chẽ với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã làm cuộc Cách mạng thángTám thành công, giành thắng lợi trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày nay, trong
12


điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế, “giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp
lãnh đạo xã hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm
những người làm công hưởng lương, hoạt động trong lĩnh vực cơng nghiệp và
dịch vụ, tích cực sản xuất ra của cải vật chất và trở thành đội qn chủ lực trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đạihóa và hội nhập quốc tế”, cùng với giai cấp
nơng dân và đội ngũ“những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và
làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã
hội hợp thành nền tảng vững chắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.3.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân cơng, phối hợp,


kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính
ngun tắc chỉ đạo trong thiết kế mơ hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Trong các tổ chức thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền thì dù ở chế độ xã hội nào việc xác lập và
sử dụng các hình thức và cơ chế giám sát luôn được đặt ra một cách tất yếu bởi vì
Nhà nước pháp quyền về thực chất là để cơng khai hố quyền lực và chống lạm
dụng quyền lực. Trên thực tế, các hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đa
dạng và linh hoạt hơn rất nhiều so với những hình thức kiểm tra, giám sát của Nhà
nước. Về cơ bản, có thể nhóm lại những mơ hình chủ yếu sau:
-

Các hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
13


đồn thể nhân dân – sự tham chính của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
-

-

2.1.4.

nhân dân.
Các hình thức của cơ chế kiểm tra giám sát trực tiếp của cá nhân công dân
đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước.
Giám sát nhân dân chuyên trách - Ban thanh tra nhân dân
Nhà nước ban hành pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.

Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi

ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với
tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta:
Công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và
bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần
và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp
luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn
tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của
xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công
dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước là người làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt
mình trong sự ràng buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong
khuôn khổ các quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và
lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng.
Tuy nhiên, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến bản
chất dân chủ và giá trị cơng bằng, bình đẳng của nó. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách
hàng đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đặt cơng việc đó trên một nền tảng khoa học.
14


III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ THỰC HIỆN HÓA QUY ĐỊNH CƯƠNG LĨNH
VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
3.1. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước
-


Thứ nhất, tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho cử tri
tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thơng tin để trao đổi, nhận xét, lựa
chọn và bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ trên cơ sở có sự lãnh đạo,
hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu. Quy định nhiều hình thức thích hợp để duy trì
sự liên hệ thường xun giữa đại biểu dân cử và cử tri, để các đại biểu luôn luôn
sát thực tiễn, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, yêu cầu của dân. Các đại biểu phải
định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cử tri, nếu khơng đủ tín nhiệm
thì cử tri thực hiện quyền bãi miễn. Có các hình thức để nhân dân có thể dự
thính hoặc theo dõi trực tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng các kỳ họp
của cơ quan dân cử. Cải tiến cách thức để nhân dân tham gia thảo luận và góp ý
kiến vào các dự án luật, các dự thảo nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà
nước thật sự thiết thực và có hiệu quả, tránh làm hình thức, tràn lan, tốn kém.

-

Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và
là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước, của địa phương. Các cơ quan hành chính nhà nước
phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ quan dân cử trong trách
15


nhiệm, quyền hạn đã được pháp luật quy định và chịu sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan dân cử.
-

Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực
tiếp liên quan đến đời sống nhân dân. Nhà nước giảm tối đa cơ chế xin phép cho phép trong từng vụ việc, rút kinh nghiệm về cơ chế “một cửa” đã thực hiện

có hiệu quả ở một số địa phương để chỉ đạo áp dụng rộng ở các ngành các cấp.
Các nội dung trên được đăng trên các phương tiện thông tin, cơng báo, niêm yết
hoặc lưu trữ ở các phịng thơng tin, trụ sở, nơi tiếp dân.

-

Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hỗn,
chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cần có quy chế tạo thuận lợi để người dân
trình bày ý nguyện, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình, ngăn chặn
những hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối.
Tăng cường công tác giám sát và kiểm tra của cấp trên đối với công tác giải
quyết khiếu tố của cấp dưới. Tiếp tục kiện tồn và phát huy vai trị của tồ án để
xét xử các khiếu kiện hành chính.

-

Thứ năm, các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa đổi, bổ
sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế cụ thể, rõ ràng về
quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân. Thanh tra nhà nước cùng Mặt trận Tổ
quốc, Liên đoàn lao động các cấp cần phối hợp và có biện pháp xây dựng, củng
cố thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện,
cơ quan để thanh tra nhân dân thực sự trở thành công cụ sắc bén của nhân dân
trong việc phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, góp phần xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh. Không chấp nhận các tổ chức thanh tra tự phát.

16



-

Thứ sáu, nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở
cấp cơ sở

3.2. Hoàn thiện Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
tịa án
Cần hồn thiện Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ
chức tịa án để phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ba cơ quan đại
diện cho việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chỉ trên cơ sở các
đạo luật như vậy mới có thể nói đến vị trí độc lập của ba cơ quan thực hiện ba
nhánh quyền lực nhân dân.
3.3. Cần hoàn thiện Luật tổ chức tòa án và Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân để đảm cho tư pháp độc lập.
Luật Tổ chức tịa án cần được hồn thiện theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Nghị quyết 49-NQ/TW đã chỉ rõ “Hệ thống Tòa án nhân dân cần được
tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tồ
án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện;
Tồ án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một
số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc
thẩm; Tồ án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Chỉ khi thiết kế mơ hình Tịa án độc lập với cơ cấu, tổ chức của cơ quan quyền lực
nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước mới có thể đảm bảo sự độc lập của Cơ
quan pháp.
Về Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, cần hoàn thiện quy định về
cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm và nhiệm kỳ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Cần
mở rộng thêm diện tuyển chọn thẩm phán là luật sư, giảng viên luật của các trường
đại học đáp ứng được yêu cầu của thẩm phán sẽ giúp bổ sung được sự thiếu hụt về
17



số lượng, hạn chế về trình độ của đội ngũ thẩm phán và khắc phục được khâu đào
tạo thẩm phán. Thay đổi thành phần tuyển chọn thẩm phán tòa án nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện. Thành phần Hội đồng tuyển chọn thẩm phán phải do Chánh án tòa
án các cấp tỉnh làm chủ tịch. Quy định Hội đồng tuyển chọn thẩm phán như hiện tại
vơ hình tạo sự chi phối, can thiệp của Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động
xét xử của thẩm phán. Thành phần tuyển chọn thẩm phán hiện nay đa số là những
người không chuyên trong lĩnh vực xét xử nên không đủ khả năng để lựa chọn
được những thẩm phán đáp ứng được yêu cầu xét xử. Hơn nữa nhiệm kỳ của thẩm
phán hiện tại là 5 năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cũng làm
giảm tính độc lập của thẩm phán nói riêng và Tịa án nói chung. Do vậy, cần thay
đổi nhiệm kỳ hiện nay bằng quy định thời hạn công tác của thẩm phán đến hết tuổi
lao động theo quy định của Bộ luật lao động. Quy định như vậy sẽ giúp thẩm phán
yên tâm thực hiện công việc chuyên môn, khắc phục được tư duy nhiệm kỳ. Đồng
thời, để tránh tình trạng thẩm phán sẽ ỷ lại nếu kéo dài thời hạn công tác đến hết
tuổi lao động như trên thì cần hồn thiện bộ quy tắc về chuẩn mực của thẩm phán.
Nếu thẩm phán khơng cịn đáp ứng được chuẩn mực thì Chánh án tịa án nhân dân
tối cao có thể miễn nhiệm. Việc mở rộng diện tuyển chọn và cơ chế bổ nhiệm thẩm
phán như trên đã được áp dụng phổ biến ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và nhiều quốc
gia khác. Do vậy, Việt Nam có thể nghiên cứu tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của
các quốc gia và vận dung phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.

18


KẾT LUẬN
Nhà nước pháp quyền là một thành tựu của nhân loại trong quá trình phấn
đấu vì tự do dân chủ của con người. Từ trong lịch sử đến hiện tại, rất nhiều quan
điểm tư tưởng của các triết gia, luật học tiếp cận vấn đề từ nhiều khía cạnh, phương

diện của vấn đề nhằm làm rõ đặc trưng, cách thức tổ chức và phương thức hoạt
động của nhà nước pháp quyền. Khi nói tới đặc trưng của Nhà nước pháp quền xã
hội chủ nghĩa là nói tới những đặc trưng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội chủ
nghĩa mà trong đó nhà nước là trung tâm. Tựu trung lại, đặc trưng khác biệt và nỗi
bất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gồm ba nội dung chính đó là bản
chất của nhà nước (nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân) với tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân). Cơ sở tổ chức, hoạt động và quản lý (quản
lý xã hội bằng pháp luật xã hội chủ nghĩa, Đảng cầm quyền lãnh đạo duy nhất,
quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng phối hợp giữa các cơ
quan trong thực hiện quyền lực nhà nước). Mục đích cuối cùng là thực hiện và bảo
vệ quyền con người.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,

2.
3.

NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
Nhà nước pháp quyền lịch sử và hiện tại ( 1993 ), NXB. Thông tin Khoa học xã

4.

hội.

Trần Đại Quang, “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, www.nhandan.com.vn,
2017.

20



×