MỤC LỤC
Phần 1:Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời
1.1Tình hình xã hội
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Phần 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đường thành lập Đảng cộng
Sản Việt Nam
2.1 Giai đoạn 1911 – 1921: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước và bước ngoặc thay đổi đường lồi cách mạng của Việt Nam.
2.2 Giai đoạn 1921 – 1925 : Thành lập ra Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên- tiền thân của Đảng.
2.3 Giai đoạn 1925 – 1930 : Mở lớp huấn luyện, truyền bá và đào tạo
con đường cách mạng vô sản.
2.4 Giai đoạn 6/ 1929 - 1/1930: Ba tổ chức Đảng lần lượt ra
đời: Đông Dương Cộng sản, An Nam Cộng Sản Đảng và Đơng Dương
Cộng Sản Liên Đồn nhận thức được việc phải thống nhất các Đảng trước
yêu cầu lịch sử mới.
2.5 Giai đoạn 6/1 – 7/2/1930: Chủ tịch HCM tổ chức Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam bước
ngoặc lớn.
Phần 3 Những thành tựu vẻ vang từ sau khi có Đảng lãnh đạo.
Phần 4 Những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
MỞ BÀI
Bằng cả tấm lòng yêu nước thương dân của mình chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra đi tìm con đường cứu nước đúng đắn cho đồng
bào nhân dân. Người được xem là người thầy vĩ đại của cách
mạng, lãnh tụ kính u của giai cấp cơng nhân nói riêng và cả dân
tộc Việt Nam nói chung. Với sự uyên bác, thơng thái của mình,
Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập
ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam, các lực lượng vũ trang nhân dân vả cả nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào yêu
nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều, đòi hỏi sự
lãnh đạo đúng đắn của một Đảng chân chính của giai cấp cơng
nhân Việt Nam. Trước tình hình đó, Bác đã về gần Việt Nam để
xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng sau một thời gian ở lại Liên
Xơ để nghiên cứu.
PHẦN 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỢI.
1.1 Tình hình xã hội.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng
bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa
thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt
trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế,
biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong
kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế
quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai
trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết
quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị
đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên
ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đơng Dương vì lợi ích của
giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính
sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước
ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy
trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng,
làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại
hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân,
khuyến khích văn hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân
dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của
chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm
cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra
đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ
phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong
xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa
thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là
mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm
lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời
nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh
đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt
Nam đặt ra, cần được giải quyết.
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian
khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn,
tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực
dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại
chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi
nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng
khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa
Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng,
Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dũng, nhưng đã bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu
tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong
trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu
phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự
khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con
đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta
lúc bấy giờ.
Lịch sử Việt Nam vào thời kì này trải qua các giai đoạn lớn.
Giai đoạn 1858-1884:
Vào giữa thế kỉ XIX nước việt Nam phong kiến (dưới triều nhà
Nguyễn) đứng trước một thử thách cam go: đối diện với cuộc xâm
lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha.
Khác với những kẻ thù thường gặp trước kia, lần này tư bản
Pháp mở cuộc chiến tranh với Việt Nam bằng một tham vọng thơn
tính thuộc địa cháy bỏng, một mưu mô được nuôi dưỡng từ lâu và
bằng sức mạnh quân sự vượt trội nhờ thành quả của nền kinh tế kỹ thuật tư bản chủ nghĩa.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống xâm lược, nhân
dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên đấu tranh. Những tên sĩ quan
thực dân đã từng chỉ huy lực lượng viễn chinh đánh chiếm Việt
Nam thời kì này đã phải thừa nhận rằng “Việt Nam là một quốc
gia kiên cường gắn bó với lịch sử riêng, thể chế riêng của mình;
… trong các thế kỉ trước Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục
trước quân thù xâm lược, họ biết đợi thời cơ… Tình trạng của
chúng ta, (Pháp) rất đỗi khủng khiếp bởi vì chúng ta đã phải
đương đầu với một dân tộc thống nhất và tình cảm dân tộc của họ
khơng phải đã bị suy yếu”.
Tuy nhiên, sau 26 năm, cuộc chiến đấu chống xâm lược của
nhân dân Việt Nam cuối thế kỉ XIX tạm thời bị thất bại, mà trách
nhiệm chủ yếu thuộc về nhà Nguyễn.
Sau một loạt hoà ước phải ký với Pháp (1862, 1874, 1883, 1884),
nhà nước phong kiến Việt Nam hoàn toàn đầu hàng, làm tay sai
cho thực dân Pháp đến 1945.
Giai đoạn từ 1885 đến 1896:
Năm 1884, thực dân pháp áp đặt nền bảo hộ lên toàn cõi việt
Nam sau khi bắt triều đình Huế kí hiệp ước Paternotre (6-6-1984).
Không chịu khuất phục trước quân xâm lược, phe chủ chiến đo
Tôn Thất Thuyết cầm đầu đã tổ chức cuộc tấn công quân Pháp ở
kinh thành Huế (5-7-1885). Cuộc tấn công thất bại, Tôn Thất
Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra khỏi kinh đô, phát hịch Cần Vương
kêu gọi phò vua cứu nước.
Phong trào Cần Vương bùng nổ và lan rộng ra khắp mọi nơi từ
Nam chí Bắc. Sau giai đoạn bộc phát (1885-1888), phong trào đi
vào chiều sâu, tập hợp xung quanh những cuộc khởi nghĩa có qui
mơ lớn, có trình độ tổ chức cao như khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy,
Hùng Lĩnh, Hương Khê...
Phong trào Cần Vương thể hiện truyền thống yêu nước, anh dũng
kiên cường, bất khuất trước quân xâm lược của nhân dân ta nhưng
đồng thời cũng phản ánh sự bất cập của đường lối đấu tranh vũ
trang truyền thống, dưới ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến. Sau
những cuộc hành quân vây ráp và khủng bố ác liệt của thực dân
pháp, các cuộc khởi nghĩa Cần Vương lần lượt bị thất bại. Năm
1896 khi tiếng súng khởi nghĩa Hương Khê đã tắt, phong trào Cần
Vương chống Pháp do các sĩ phu văn thân lãnh đạo coi như chấm
dứt.
Song song với các cuộc khởi nghĩa Cần Vương là các cuộc khởi
nghĩa tự phát của nông dân và đồng bào các dân tộc thiểu số vùng
núi, điển hình là cuộc khởi nghĩa của nông Dân Yên Thế dưới sự
lãnh đạo của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám. Mục tiêu của các cuộc
khởi nghĩa này chủ yếu nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo vệ
đất đai, chống lại thế lực cường quyền và áp bức xâm nhập từ bên
ngoài. Tuy nhiên, do chưa được hướng dẫn bởi một hệ tư tưởng
tiến bộ cho nên cuộc khởi nghĩa của nông dân giai đoạn này chưa
thể thành công.
Sự thất bại của phong trào vũ trang chống Pháp cuối thế kỉ XIX
đã cho thấy con đường cứu nước theo ý thức hệ đã khơng thể cứu
vãn được dân tộc, cần phải tìm một con đường mới, tiến bộ và
phù hợp hơn.
Giai đoạn đầu thế kỉ XX đến 1918:
Từ những năm cuối thế kỉ XIX, sau khi hồn thành chương trình
bình định qn sự, dẹp yên các cuộc khởi nghĩa. Cần Vương và
phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, thực dân Pháp bắt tay
vào cuộc khai thác đại qui mô, nhằm khai thác tài nguyên thiên
nhiên, sức người, sức của của việt Nam làm giàu cho tư bản chính
quốc.
Để có thể triển khai chương trình khai thác lần này thực dân
Pháp từng bước củng cố nền thống trị việt Nam và trên tồn cõi
Đơng Dương (Việt Nam - Lào - Campuchia): từng bước hồn
thiện chính quyền thuộc địa từ trung ương xuống địa phương, tăng
cường bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù, xây dựng một
nền văn hoá và giáo dục nô dịch. Các ngành kinh tế trọng yếu đều
do tư bản thực dân nắm giữ, ruộng đất bị cướp đoạt – các quyền
tự do dân chủ bị bóp nghẹt: sưu cao, thuế nặng và ách áp bức bóc
lột của tư bản, thực dân phong kiến khiến cho đông đảo các tầng
lớp nhân dân lao động Việt Nam bị bần cùng hoá.
Xã hội Việt Nam bị biến thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến
với một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, dân trí kém phát triển.
Để thốt khỏi tình trạng “vong quốc nơ” trong những năm đầu
thế kỉ XX, đứng trước những yêu cầu mới của lịch sử, nhiều sĩ
phu yêu nước thức thời, tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh... đã mạnh dạn tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản từ Trung
Hoa, Nhật Bản... truyền vào nước ta và coi việc duy tân hướng tới
một nền dân chủ có tính tư sản vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp cứu nước.
Phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX vì thế chứa đựng
khá nhiều nhân tố mới cả về nội dung và hình thức. Nó có tác
dụng tạo ra dư luận xã hội khá mạnh mẽ về sự cần thiết phải thay
đổi tư duy và hành động trong việc kiến tạo một xã hội mới, tiến
bộ hơn. Đó là một xã hội có nền dân chủ tối thiểu, có kinh tế, văn
hố tân tiến, con người được tự do phát huy được sức lực và trí
tuệ của mình. Phong trào đấu tranh lần lượt thất bại vì sự đàn áp
dã man của thực dân Pháp.
Điều này được thể hiện trong những vụ đàn áp bắt bớ của chính
quyền thực dân đối với phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông
Kinh Nghĩa Thục... và những bản án dành cho Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh và nhiều nhà yêu nước khác.
Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),
phong trào cách mạng Việt Nam bị khủng hoảng sâu sắc về lãnh
đạo: Các hoạt động của việt Nam Quang phục hội (từ 1912) gặp
nhiều khó khăn. Các cuộc bạo động chống Pháp của họ nổ ra lẻ tẻ
và lần lượt bị dập tắt. Phong trào nông dân mất phương hướng đi
vào con đường duy tân thần bí. Chính trong thời điểm đó, lãnh thụ
Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Với lòng yêu nước
nhiệt thành và với sự nhạy cảm chính trị khác biệt, Nguyễn Ái
Quốc đã quyết định sang phương Tây tìm hiểu những ẩn náu đằng
sau những từ “tự do, bình đẳng, bác ái”, “xem nước Pháp và các
nước khác làm thế nào” để trở về cứu đồng bào mình.
Những hoạt động bước đầu của Nguyễn Ái Quốc đã mở ra một
hướng đi mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn 1919-1930:
Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918 đã tác động to lớn đến
cục diện thế giới. Nó làm thay đổi vị trí và tương quan lực lượng
giữa các nước đế quốc đồng thời cịn đưa đến một hệ quả ngồi ý
muốn của tất cả các nước tư bản: đó là sự bùng nổ cuộc Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 dẫn đến sự ra
đời của Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới.
Dưới sự ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng tháng Mười Nga và
cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công nhân và cuộc
đấu tranh chống đế quốc của nhân dân các nước tư bản phương
tây đã dấy lên mạnh mẽ, sôi nổi.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp đã khiến cho cơ
cấu xã hội Việt Nam thay đổi. Các giai cấp cũ như địa chủ, nông
dân tiếp tục phân hoá. Một số giai cấp và tầng lớp mới ra đời (như
công nhân, tư sản; tiểu tư sản),Ách thống trị và bóc lột của thực
dân Pháp đã khiến cho mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp
trong xã hội Việt Nam ngày càng trở nên sâu sắc.
Đông đảo các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh. Từ trong
phong trào đã xuất hiện những tổ chức chính trị của tư sản và tiểu
tư sản như Đảng Lập Hiến, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên,
trong đó, Đảng Lập Hiến của giai cấp tư sản có tư tưởng cải lương
rõ rệt.
Phong trào dân tộc dân chủ việt Nam những năm sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất đã tạo điều kiện cho những trào lưu tư
tưởng mới, nhất là tư tưởng của chủ nghĩa Mac-Lênin, truyền vào
nước ta.
Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam gắn
liền với những hoạt động Của Nguyễn Ái Quốc. Nhờ có ánh sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin chiếu rọi, phong trào yêu nước và
phong trào cơng nhân Việt Nam có bước phát triển mới. Vào
những năng 1925-1927, các tổ chức. Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam Quốc Dân
Đảng được thành lập.
Đến năm 1929, trước yêu cầu khách quan của lịch sử, ba tổ chức
Đông Dương Cộng sản, An Nam Cộng sản Đảng và Đơng Dương
Cộng sản liên đồn nối tiếp nhau ra đời.
Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản đã thúc đẩy phong trào dân
tộc, dân chủ ở nước ta tiếp tục nâng cao, nhưng đồng thời, tình
trạng phân biệt của ba tổ chức này cũng gây tổn hại không nhỏ
cho sự phát triển của phong trào cách mạng nói chung. Yêu cầu
cấp thiết lúc này là phải thống nhất về hành động, tiến tới thành
lập một tổ chức cộng sản duy nhất có đủ sức lãnh đạo phong trào
công nông Việt Nam đang diễn ra quyết liệt, đồng thời đấu tranh
có hiệu quả chống lại những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tàn bạo
của kẻ thù.
Đúng vào thời điểm đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện
như một vị cứu tinh của cách mạng nước ta.
Đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam tại Cửu Long (Hồng
Kông,Trung Quốc). “Hội nghị hợp nhất họp vào ngày 6-1-1930 và
chỉ có các đại biểu của Đơng Dương Cộng sản Đảng và An Nam
Cộng sản Đảng tham dự... Công việc thống nhất thực sự chỉ tiến
hành vào tháng 2-1930 và kéo dài trong nhiều tuần lễ”.
Hội nghị đã nhất trí hợp nhất Đơng Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, mở ra một thời kì mới
trong lịch sử dân tộc, ngày 24 tháng 2 năm 1930, theo đề nghị của
Đơng Dương Cộng sản liên đồn, Ban chấp hành Trung ương lâm
thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp thuận kết nạp tổ chức
này vào Đảng.
PHẦN 2: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ CON ĐƯỜNG
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Thân thế và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn
lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình
nhà nho u nước, tại làng Hồng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm
Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự
chăm sóc đầy tình thương u của gia đình, đặc biệt là ông bà
ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở
Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha
trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ
Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm
1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học
trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909,
Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào
Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng
02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gịn.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một
làng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng
kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát
vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước.
2.1. Giai đoạn 1911 – 1921: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước và bước ngoặt thay đổi đường lồi cách mạng
của Việt Nam.
Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin làm phụ
bếp trên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville),
một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang
chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille), Pháp.
Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng
Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh),
Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Theo hành trình của tàu, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở cảng
Mácxây, cảng Lơ Havơrơ (Le Havre) của Pháp. Những ngày đầu
tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người
nghèo như ở Việt Nam, anh nhận thấy có những người Pháp trên
đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông
Dương.
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê
cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni đi vịng quanh châu Phi,
đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban
Nha, BồĐào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan,
Rêuyniông… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao
động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị.
Một trong những cảnh ấy anh đã trông thấy ở Đaca (Dacar): “Đến
Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu khơng thể vào bờ. Cũng khơng thể
thả canơ xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ
bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn
người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị
sóng bể cuốn đi”(3). Cảnh tượng đó làm cho Nguyễn Tất Thành rất
đau xót. Anh liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của người
dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của anh. Họ cũng là nạn nhân
của sự hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như
vậy diễn ra khắp nơi trên đường anh đi qua, tạo nên ở anh mối
đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc
địa.
Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních
(Martinique) (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ) và
dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, anh có dịp tìm hiểu
cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn
độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Anh vừa đi làm thuê để kiếm sống
vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Anh đã đến
thăm quận Brúclin (Brooklin) của thành phố Niu Oóc (New York).
Anh đi xe điện ngầm đến khu Háclem (Harlem) để tìm hiểu đời
sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người
da đen.
Với mục đích ra đi để tìm hiểu, do vậy, trong thời gian tàu dỡ
hàng và lấy hàng, Nguyễn Tất Thành đã tranh thủ lúc rỗi rãi đi xem
xét nhiều nơi, từ những khu phố hoa lệ nổi tiếng thế giới với những
ngôi nhà cao chọc trời ở Niu c đến những ngơi nhà ổ chuột ở
khu Háclem.
Dừng chân ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm
nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu
“cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc
lột nhân dân lao động rất tàn bạo. Anh cảm thông sâu sắc với đời
sống của người dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt
chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này
anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về
Lơ Havơrơ, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh
sống, anh nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lị.
Cơng việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày anh đều tranh
thủ thời gian học tiếng Anh.
Từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành gửi thư liên hệ với cụ Phan
Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thơng báo tình hình sinh hoạt,
học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan.
Trong thư Nguyễn Tất Thành cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ
Phan về tình hình thời cuộc.
Cuối năm 1913, sau hai tuần nghỉ việc vì bị cảm, Nguyễn Tất
Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cơớc, đại lộ Đraytơn,
khu Oét Ilinh (Drayton Court, Drayton Av., West Ealing), phía tây
Ln Đơn.
Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ
bếp ở khách sạn Cáclơtơn (Carlton), phố Hây Makét, một khách
sạn sang nổi tiếng ở Luân Đôn. Nguyễn Tất Thành làm việc dưới
sự điều khiển của vua bếp Étcốpphie (Escophier), một người Pháp
có tư tưởng tiến bộ.
Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc
diễn thuyết ngồi trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia
Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu
nước của nhân dân Airơlen. Cũng trong thời gian này anh được đọc
một tờ báo Anh đưa tin về ông Terence Mac Swiney, Thị trưởng
thành phố (Cork), nhà đại ái quốc Airơlen, đấu tranh chống đế quốc
Anh, bị bắt. Trong tù ơng đã tuyệt thực. Ơng nằm nghiêng một
phía, khơng ăn, khơng cử động hơn 40 ngày và hy sinh. Hàng ngàn
người Airơlen lưu vong nối nhau thành hàng dài trên đường phố
Luân Đôn đưa tiễn ông Mac Swiney về yên nghỉ tại Cork. Nguyễn
Tất Thành hết sức xúc động và cảm phục tinh thần bất khuất của
ông: “Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những
người như ơng Cúc sẽ khơng bao giờ đầu hàng”.
Giữa lúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra ác liệt, tình
hình Đơng Dương đang có những biến động, vào khoảng cuối năm
1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực
tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân
Pháp.
Trở lại Pháp, đến Thủ đô Pari, lúc đầu Nguyễn Tất Thành ở phố
Sarôn (Charonne) trong một thời gian ngắn; từ ngày 7 đến 11-61919 ở nhà số 10, phố Xtốckhôm (Stokholm); ngày 12-6-1919,
chuyển đến ở nhà số 56 phố Mơxiên lơ Pơranhxơ (Monsieur le
Prince); tháng 7-1919, ở nhà số 6, phố Vila đê Gôbơlanh (Villa des
Gobelins), quận 13; ngày 14-7-1921, chuyển đến ở nhà số 12, phố
Buyô. Trong tháng 7-1921, Nguyễn Tất Thành chuyển đến nhà số
9, ngõ Côngpoanh (Compoint), quận 17, một trong những khu lao
động nghèo nhất của Thủ đô nước Pháp. Ngày 14-3-1923, anh đến
ở nhà số 3, phố Mácsê đê Patơriácsơ.
Thời gian đầu khi tới Pari, chưa có giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất
Thành được các đồng chí trong Ban đón tiếp những người lao động
nhập cư của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Trong khi chờ các đồng
chí tìm cho giấy tờ quân dịch hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn
chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống của anh lúc
đó gặp rất nhiều khó khăn. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm
sống một cách chật vật, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì
vẽ thuê cho một xưởng đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa, nhưng anh vẫn
kiên trì, hăng say học tập và hoạt động. Anh thường xuyên gặp gỡ
với những người Việt Nam ở Pháp, có tư tưởng và khuynh hướng
tiến bộ như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Ái Quốc
từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân
và lao động Pháp.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội
Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì đây là tổ chức
duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái”.
Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18-61919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị
ở Vécxây (Versailles) (Pháp). Hội nghị này cịn gọi là Hội nghị hồ
bình Pari, nhưng thực chất đó là nơi chia phần giữa các nước đế
quốc thắng trận và trút hậu quả chiến tranh lên đầu nhân dân các
nước thua trận và các dân tộc bị áp bức. Văn kiện chính của hội
nghị là Hiệp ước Vécxây xác định sự thất bại của nước Đức và các
nước Đồng minh của Đức, phân chia lại bản đồ thế giới theo hướng
có lợi cho các đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.
Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn
Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản
Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. Dưới bản
Yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên: Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần
đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Nguyễn Ái Quốc tới
lâu đài Vécxây gửi bản u sách cho văn phịng Hội nghị, sau đó
lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn đại biểu các nước Đồng
minh dự hội nghị. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư trả lời
Nguyễn Ái Quốc.
Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới người có tên Nguyễn Ái Quốc.
Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường
Hooctiquyntơ tại Pari, viên mật thám Pháp Pôn Ácnu (Paul
Arnoux) chuyên theo dõi người Việt Nam sống ở Pari, tận mắt
chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang phân phát truyền đơn in bảnYêu
sách cho những người có mặt, đã phải thốt lên dự cảm: “Con người
thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt
chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”.
Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam
không được hội nghị xem xét. Đối với dư luận Pháp, u sách
cũng khơng có tiếng vang như mong muốn, nhưng lại tác động
mạnh mẽ đến người Việt Nam trong nước và nước ngoài. Một
người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn
đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, địi cho Việt Nam có những
quyền cơ bản chính đáng, thiết thực. Đây là dấu hiệu mới của cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc.
Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc
nhận thấy, như sau này Người đã viết: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là
một trò bịp bợm lớn”và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có
thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản thân
mình”.
Từ u cầu thực tiễn đấu tranh, Nguyễn Ái Quốc thấy cần phải
học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Phong trào công
nhân và chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa anh đến với hoạt động báo
chí. Trong hai năm 1919-1920, Nguyễn Ái Quốc đã viết 5 bài báo.
Bài đầu tiên làVấn đề bản xứ (10), đăng trên báo Nhân đạo (L’
Humanité), ngày 2-8-1919.
Bài báo nhắc lại những nội dung chính bản Yêu sách của nhân
dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây, tháng 6-1919, khẳng định
nguyện vọng đó của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố
cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp
bóc của thực dân Pháp ở Đơng Dương và tin tưởng rằng nhân dân
tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và cơng
lý của nhân dân Việt Nam.
Báo Dân chúng (Le Populaire) đăng bài Đông Dương và Triều
Tiên của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo nhắc đến sắc lệnh của Thiên
Hồng cơng bố tại Tơk ngày 19-8-1919 với nội dung định rõ
quyền bình đẳng giữa người bản xứ Triều Tiên với người Nhật
trong tất cả các luật lệ. Bài báo so sánh chính sách cai trị của đế
quốc Nhật ở Triều Tiên và đế quốc Pháp ở Đơng Dương, nghiêm
khắc lên án chính sách ngu dân của Pháp và đặt câu hỏi: Nước
Pháp có thể đối với Đơng Dương ít nhất một cách sáng suốt như
Nhật đối với Triều Tiên không?
Qua các bài báo trên, chúng ta thấy rõ về mặt tư tưởng, Nguyễn
Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ nghĩa thực
dân Pháp. Khát vọng của Người là đấu tranh giải phóng dân tộc,
nhưng làm thế nào và đi theo hướng nào để đạt được mục đích đó,
Nguyễn Ái Quốc vẫn cịn đang tìm kiếm.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919,
Lênin và những người theo chủ nghĩa Mác ủng hộ lập trường của
Lênin họp đại hội ở Mátxcơva, thành lập Quốc tế III – tức Quốc tế
Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước phương Đông.Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông
qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày
16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Tên đầu bài có liên
quan đến vấn đề thuộc địa lập tức thu hút sự chú ý của Nguyễn Ái
Quốc. Trong văn kiện này, Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm
của những người đứng đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp
hịi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản
là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc
địa và phụ thuộc, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư
bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù
chung là đế quốc và phong kiến.
Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường
giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể
lại sự kiện quan trọng đó, Người nói: “Luận cương của Lênin làm
cho tơi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi
vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi
nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào
bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta”!
Từ đó, tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” .
Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy
phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ
sở tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường cách
mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quyết tâm đi theo con
đường của Lênin vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc xin gia nhập Uỷ ban
Quốc tế III, do một số đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp lập ra,
nhằm tuyên truyền vận động gia nhập Quốc tế III.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp
từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua (Pháp), đã
tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc tế II,
thành lập Đảng Cộng sản, hay giữ nguyên Đảng Xã hội. Nguyễn Ái
Quốc tham dự đại hội với tư cách là đại biểu chính thức và duy
nhất của các nước thuộc địa Đông Dương.
Tại phiên họp buổi chiều ngày 26-12-1920, Nguyễn Ái Quốc
được mời phát biểu. Trong bài phát biểu, Người lên án chủ nghĩa
đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông
Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đơng Dương khơng
những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ
và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái
Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở
Đông Dương, và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một
cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng
“Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước
thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa…”.
Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời kêu gọi thống
thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng
viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tơi kêu gọi: Các đồng
chí, hãy cứu chúng tơi!”
Tại đại hội lịch sử này, cùng với những người cách mạng chân
chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham
gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng
sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vơ cùng quan
trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong
lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái
Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là phát pháo hiệu thức
tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì
việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã
đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay
đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của
Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin. 40 năm
sau nhìn lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách
mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng
của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tơi đã tìm thấy
chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã từ một người yêu nước tiến
bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, từ năm 1911 đến năm 1920, là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc
khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến. Người đã
vượt qua ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Trải qua
những tháng năm lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế
của những người lao động nhiều nước trên thế giới, Nguyễn Ái
Quốc thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, anh vô cùng
xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động các nước. Đến một số nước thuộc địa châu Phi, Người
thấy rõ ở đâu người dân mất nước cũng khổ cực như nhau. Bước
đầu anh rút ra kết luận quan trọng là: ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng
tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc
lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là
bọn đế quốc thực dân. Anh nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân
lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ
thù. Sau này anh đã khái quát thành một chân lý:
“Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người:
giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản” .
Cũng từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những
người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp cận với
chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường
cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vơ sản mà sau này
Người đã đúc kết:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản” .
Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào
lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ
nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước
chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác –
Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây có một phương
hướng mới.
2.2 Giai đoạn 1921 – 1925: Thành lập ra Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên – tiền thân của Đảng.
Thời điểm những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc chưa
thể thành lập được Đảng Cộng sản ở Việt Nam do nhiều nguyên
nhân trong đó việc dân chúng ở Việt Nam chưa biết và chưa hiểu
về chủ nghĩa cộng sản là một trong những yếu tố quyết định chỉ có
thể thành lập được một đảng xã hội dân tộc mà các lãnh tụ của nó
có nhiệm vụ dần dần đưa các hội viên của mình tới chủ nghĩa
Mác”, để giúp quần chúng nhân dân biết, có cảm tình rồi đi theo
chủ nghĩa cộng sản thì trước nhất cần thành lập một tổ chức cách
mạng có khuynh hướng mácxít rồi từ đó tìm cách truyền bá những
quan điểm, học thuyết Mác - Lênin vào Việt Nam, giúp quần chúng
nhân dân đặc biệt là giai cấp công nhân Việt Nam hiểu được sứ
mệnh và trách nhiệm lịch sử trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Với mong muốn tập hợp những thanh niên Việt Nam ưu tú, giàu
lòng yêu nước, đang khát khao tìm đến con đường cứu nước đúng
đắn, để xây dựng một tổ chức cách mạng.Ngay sau khi được tiếp
xúc với Phan Bội Châu và nhận được danh sách do Đồng chí thân
cận của cụ chuyển cho, Nguyễn Ái Quốc quyết định lập ra một
nhóm bí mật làm hạt nhân cho một số rộng lớn sau này, thông qua
một lớp huấn luyện về phương pháp tổ chức trong khoảng thời gian
3 tháng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được Nguyễn Ái
Quốc thành lập vào tháng 6 năm 1925 từ 9 thành viên của Tâm
Tâm xã đã được ông giác ngộ. Nguyễn Ái Quốc là người lãnh đạo
Hội. Trong số các thành viên lớp đầu có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Sơn, Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh, Trương Vân Lĩnh, Lưu
Quốc Long, Lâm Đức Thụ Trụ sở của Hội đặt tại Quảng Châu.
Theo Chánh mật thám Pháp là Louis Marty, Nguyễn Ái Quốc
ngay sau khi đến Quảng Châu đã nghiên cứu tính cách của từng cá
nhân của tất cả những người Việt Nam ở Quảng Châu từng theo
Phan Bội Châu (Tâm Tâm xã,...) và chọn ra những người nói trên
để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Tháng 6 năm 1925, trên cơ sở hạt nhân là Cộng sản Đoàn, Người
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thơng qua Chính
cương, Điều lệ và Chương trình hành động của Hội, được tổ chức
thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Mục đích
của Hội là “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc
cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập cho
xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và
thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một tổ chức của
Nguyễn Ái Quốc hoạt động chống lại thực dân Phám tại Đông
Dương và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Tên của Hội ghi
trong điều lệ của mình là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
nhưng trong các tài liệu về sau thường ghi là Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí Hội.
Điều lệ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nêu: "Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên phấn đấu để thu phục lấy đại bộ phận
thợ thuyền, dân cày và binh lính, dẫn đạo cho quần chúng bị lao
khổ ấy liên hiệp với vô sản giai cấp thế giới để một mặt đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp, chế độ phong kiến; một mặt tham gia vào
cuộc thế giới cách mạng sản trừ tư bản chủ nghĩa cả thế giới đặng
thực hiện chủ nghĩa Cộng sản".
Trong cuốn Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc viết rằng: "Nói
tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin".
Sau khi thành lập, Hội đã phái người về nước để tuyển người
sang Trung Quốc dự các lớp huấn luyện ở Quảng Châu hay để gửi
sang Liên Xô học tại Trường Đại học Phương Đông. Đồng thời,
Hội tiến hành lập các chi bộ các cấp ở trong nước. Từ đầu năm
1925 đến tháng 9 năm 1927, Hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo
cho các học viên được tuyển mộ. Các bài giảng của Nguyễn Ái
Quốc cho các học viên sau đó được tập hợp lại thành tập sách
Đường kách mệnh.
Trong quần chúng nhân dân, ngày 21 tháng 6 năm 1925, Báo
Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ra đời, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ
đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt. Những bài viết của Báo Thanh
niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề
cập những vấn đề chính: đế quốc và thuộc địa; cách mạng và cải
lương; thực tiễn của cách mạng Việt Nam; đảng cách mạng và
Đảng Cộng sản; cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; cách
mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; học tập lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin …
Thông qua Báo Thanh niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tun
truyền giáo dục ở trong và ngồi hội, góp phần quan trọng vào việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Hội xuất bản
tuần báo tiếng Việt Thanh niên từ tháng 6 năm 1925 phát hành
trong số những người Việt Nam sống ở miền Nam Trung Quốc
cũng như đưa về nước và đưa sang Xiêm. Báo này vừa tuyên
truyền đường lối cách mạng của Hội vừa phê phán những tồn tại ở
các tổ chức cách mạng khác như Việt Nam Quang Phục Hội và Việt
Nam Quốc dân Đảng.
Nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt thực hiện các
nhiệm vụ truyền bá về chủ nghĩa cộng sản cho cách mạng Việt
Nam, cuối năm 1925, lớp huấn luyện chính trị chính thức khai mạc
tại Quảng Châu, Trung Quốc. Học viên được nghiên cứu về tình
hình thế giới, Quốc tế Cộng sản, các hình thức tổ chức của Đảng,
hình thức tuyên truyền và cổ động, công tác vận động, tổ chức
quần chúng … Giảng viên chính là Nguyễn Ái Quốc, Người vừa
giảng bài vừa hướng dẫn và theo dõi nhiều hoạt động, học tập,
tham quan tình hình thực tế cách mạng tại Quảng Châu. Các đồng
chí Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn là phụ giảng. Nguyễn Ái Quốc
còn mời một số nhà cách mạng Trung Quốc và cố vấn, chuyên gia
Liên Xô đến giảng bài.
Tác phẩm quan trọng nhất được viết trên cơ sở những bài giảng
của Nguyễn Ái Quốc tại lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu là
cuốn Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách giáo khoa chính trị đầu
tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận
cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu như lời chỉ dẫn của Lê nin mà
Người viết trang trọng ở đầu cuốn sách “Khơng có lý luận cách
mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động … Chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm
cách mệnh tiền phong”.
Nội dung cơ bản của cuốn sách bao hàm những vấn đề cơ bản
của cách mạng: cách mạng là gì, các loại cách mạng trên thế giới
và cách mạng Việt Nam, lực lượng cách mạng và nhân tố bảo đảm
cho cách mạng thành cơng là phải có đảng cách mạng. Đường
Kách mệnh chứa đựng những đường nét cơ bản của con đường giải
phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới, là sự
vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin về cách mạng giải
phóng thuộc địa. Đề cập các nhân tố thành công của cách mạng,
Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân, nhưng phải biết làm cho
dân giác ngộ, hiểu lý luận, phải hướng dẫn sách lược cho dân; và
Người nêu bật yếu tố quan trọng nhất đưa cách mạng đến thành
công là phải có đảng cách mạng.
Cùng với Đường Kách mệnh và Báo Thanh niên, các tờ báo và
nguyệt san bí mật được chuyển về Việt Nam, đã góp phần quan
trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng và con
đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Đây là tổ chức tiền thân có tính chất q độ, thích hợp với thực
tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ; giúp cho những người Việt Nam
yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng
cách mạng của Người, đồng thời thúc đẩy phong trào công nhân và
yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Sự trưởng thành của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, đã chứng minh tài tổ chức nhuần
nhuyễn, sâu sắc, tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái
Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức, xây dựng lực lượng cho cách
mạng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3 Giai đoạn 1925-1930: Mở lớp huấn luyện, truyền bá và
đào tạo con đường cách mạng vô sản.
Từ năm 1925 đến tháng 4 năm 1927, Người đã trực tiếp huấn
luyện 75 học viên. Phần lớn được đưa về nước hoạt động tuyên
truyền lý luận cách mạng và xây dựng tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, sự nỗ lực
của các hội viên được cử về nước hoạt động, hệ thống tổ chức của
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên nhanh chóng bắt rễ, phát triển
trên phạm vi cả nước.
Năm 1927, các kì bộ lần lượt ra đời, sau đó là tỉnh bộ, thành bộ
và cuối cùng là huyện bộ. Năm 1929, cơ cấu tổ chức của Hội gồm
5 cấp được thiết lập và phát triển khắp đất nước. Số lượng hội viên
lên tới 1.700 người và có cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan).
Hội đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Máclenin trong nhân dân và trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu
tranh của nhân dân chống Pháp.
Năm 1928, Hội chủ trương "vơ sản hóa", tun truyền vận động
cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp cơng nhân.
Phong trào công nhân càng phát triển mạnh, trở thành nòng cốt của
phong trào dân tộc trong cả nước, nổ ra tại các trung tâm kinh tế,
chính trị.
Phong trào cách mạng “vơ sản hố” bắt nguồn từ tư tưởng của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tiếp thu và truyền bá Chủ nghĩa Mác –
Lê nin vào Việt Nam. Trong những năm 1924-1927, Nguyễn Ái
Quốc đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu,
Trung Quốc cho hàng trăm thanh niên Việt Nam yêu nước mà phần
lớn là học sinh, trí thức rồi phái họ về nước đi vào cơng nhân, nông
dân, học sinh để phát triển Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và
tuyên truyền vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Điều lệ của
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã quy định: “các hội viên
phải đi vào quần chúng để vận động cách mạng...” Song để tư
tưởng đó vào cuộc sống, biến nó thành cách mạng rộng lớn thì phải
kể tới vai trị của Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc
Kỳ. Đại hội lần thứ nhất của Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ (28/9/1928)
nhận định: “Cơ sở của Hội thanh niên ở các vùng kinh tế quan
trọng như thành phố, hầm mỏ, đồn điền còn yếu, số lượng hội viên