14
Giới v chất thải
Nguyễn Thị Anh Thu
14.1 Tầm quan trọng của giới trong quản lý tổng hợp
chất thải
14.1.1. Khái niệm về giới
Giới là phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ
nữ. Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam
giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế và xã hội chứ
không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay phụ nữ nào.
Vai trò của giới đợc xác định bởi các nhân tố văn hoá, xã hội và kinh tế
mà cả nam và nữ đều nhận thức đợc trong xã hội. Khái niệm giới cũng bao
hàm cả cách ứng xử, thái độ và đặc điểm của nam và nữ. Vai trò của giới và các
kỳ vọng của nó rất năng động và thay đổi theo thời gian.
Giới không chỉ nói về phụ nữ. Nó là mối quan hệ giữa nam và nữ và
những bất bình đẳng hiện đang tồn tại về cơ hội cũng nh lợi ích. Bình đẳng
giới là một quá trình mà nam giới và phụ nữ cùng thụ hởng nh nhau một
hoàn cảnh và cùng có điều kiện bình đẳng nh nhau trong việc thực thi quyền
con ngời của mình cũng nh tiềm năng đóng góp cho sự phát triển chính trị,
kinh tế, xã hội quốc gia và thụ hởng kết quả của các quá trình này. Để đạt
đợc bình đẳng giới, cần thực hiện các biện pháp để nam và nữ đều có các cơ
hội nh nhau và cùng đợc hởng các quỳên, u thế và trách nhiệm trong quá
trình ra quyết định.
Mối quan hệ xã hội và văn hoá giữa nam giới và phụ nữ có ảnh hớng lớn
đến kết quả của phát triển. Vì vậy, trong các kế hoạch phát triển, trong các dự
án phát triển, giới đều đợc xem nh một thành tố về mục tiêu, về công cụ,
phơng pháp tiến hành cũng nh kết quả thực hiện. Để làm rõ yếu tố giới, ngời
ta dùng phân tích giới trong các kế hoạch, dự án phát triển. Đây là một công cụ
331
nhằm phát hiện những bất hợp lý, không công bằng về giới, trên cơ sở đó đề ra
các hoạt động có tính đến công bằng giới nhằm đạt đợc mục tiêu chung của
hoạt động hay chơng trình phát triển.
Phân tích giới là một công cụ khuyến khích sự bình đẳng giới. Công việc
này gồm có việc thu thập và sử dụng các thông tin về sự bất bình đẳng giới biểu
lộ vai trò và trách nhiệm của nam và nữ. Các dữ kiện đợc phân tích để đánh giá
các chính sách hiện có và các chính sách trong tơng lai cũng nh các chơng
trình và dự án tác động khác nhau tới nam giới và phụ nữ ra sao. Kết quả của
phân tích giới đợc lồng ghép vào quá trình lập kế hoạch để đảm bảo các lợi
ích của quá trình phát triển cũng nh các nguồn lực đợc phân bổ công bằng và
có hiệu quả cho cả nam giới và phụ nữ, đồng thời dự báo, tránh đợc những tác
động tiêu cực mà quá trình phát triển có thể tác động đến phụ nữ theo khía cạnh giới.
Lồng ghép giới hay định hớng giới là một chiến lợc để:
- Đảm bảo sự tham gia đầy đủ của phụ nữ vào quá trình phát triển và;
- Đa các nhu cầu, kinh nghiệm, sự quan tâm của phụ nữ, nam giới vào
các hoạt động của chính phủ ở tất cả các cấp kể cả các chính sách, chơng trình
và dự án.
Mục tiêu định hớng giới là để cả phụ nữ và nam giới đều đợc thụ
hởng bình đẳng nh nhau và không có một định kiến bất bình đẳng nào đợc
tồn tại.
14.1.2. Tầm quan trọng của giới trong quản lý tổng hợp chất thải
Phụ nữ và nam giới đóng vai trò khác nhau trong xã hội vì vậy họ có
những nhu cầu là lợi ích khác nhau. Chính vì vai trò khác nhau này mà nam giới
và phụ nữ chịu sự tác động khác nhau của môi trờng. Đồng thời, nam giới và
phụ nữ cũng có sự tác động và ứng xử khác nhau đối với môi trờng nói chung
và chất thải nói riêng.
Một điều rất rõ ràng là, cả nam và nữ đều có quan hệ với môi trờng,
nhng phụ nữ là những ngời đầu tiên gánh chịu các hậu quả của các vấn đề
môi trờng, vì họ phụ thuộc trực tiếp vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên để
duy trì cuộc sống. Phụ nữ có trách nhiệm phải duy trì sự ổn định của gia đình
trong các vấn đề tạo thu nhập, thức ăn thức uống, mặc dù họ có thu nhập rất
thấp và cơ hội để tìm kiếm và kiểm soát các nguồn lực đối với họ là rất hạn chế.
Ngoài ra, phụ nữ hiện đang có vị thế hoàn toàn khác biệt so với nam giới trong
332
việc tham gia vào quản lý môi trờng nói chung và quản lý chất thải nói riêng.
Nguyên do phổ biến của tình trạng này là:
5 Sự gia trởng và cách thức mà nam giới tự cho mình có quyền thống trị
và kiểm soát đời sống phụ nữ. Quan niệm này đã tồn tại lâu dài trong lịch
sử. Thời gian qua, đợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nớc, đã có các chủ
trơng, chính sách bình đẳng giới đợc ban hành. Tuy nhiên các chủ
trơng và chính sách tác động tích cực đến phụ nữ còn có hạn chế.
Phụ nữ thờng bị xếp thứ yếu về vị trí văn hoá, xã hội. Điều này không
chỉ làm phức tạp thêm các vấn đề về quyền bình đẳng đợc tiếp cận với các
nguồn lực và các dịch vụ xã hội nh trờng học, y tế, kế hoạch hoá gia đình,
công việc, tham gia các hoạt động xã hội mà còn phản ánh những khó khăn
trong việc xác định một chiến lợc tăng cờng quyền lực cho phụ nữ trong các
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quản lý chất thải (Ragnhild Lund, 1995).
Tiếp cận giới trong quản lý chất thải có ý nghĩa quan trọng bởi nhiều lý do:
Thứ nhất, các công việc trong kinh tế chất thải mang tính giới, nghĩa là
chúng do đa phần giới nam hoặc giới nữ đảm nhiệm.
Thứ hai, tính chất giới trong công việc liên quan đến chất thải cũng có
nghĩa là nam và nữ chịu tác động khác nhau đến sức khoẻ, đến thu nhập và địa
vị xã hội trong công việc của họ.
Thứ ba, phụ nữ có trách nhiệm công việc gia đình mà thờng là ngời
chịu trách nhiệm đầu tiên về quản lý chất thải trong nhà.
Thứ t, trách nhiệm chăm sóc con cái của phụ nữ thờng dẫn đến hạn chế
họ về sự năng động và thời gian để tham gia vào kinh tế chất thải.
Sau cùng là, phụ nữ và nam giới dờng nh có quyền lực ra quyết định
cũng nh các quan hệ xã hội khác nhau và điều này có thể ảnh hởng đến năng
lực của cả giới nam và giới nữ trong việc ra quyết định về quản lý chất thải
trong gia đình hoặc cộng đồng.
14.2. giới và quản lý tổng hợp chất thải
Xem xét giới trong quản lý tổng hợp chất thải nhằm trả lới các vấn đề
sau:
- Mối quan hệ giới có tác động nh thế nào đến quản lý tổng hợp chất
thải?
333
- Quan hệ giới có tác động nh thế nào đến hiệu quả vận hành của quản
lý tổng hợp chất thải (QLTHCT)?
- Cơ hội của nam giới và phụ nữ trong QLTHCT có ngang nhau không?
thu nhập của nam giới và phụ nữ trong kinh doanh chất thải có khác
nhau không? vai trò của phụ nữ và nam giới trong việc ra quyết định về
QLTHCT có ngang bằng nhau không?
Các vấn đề trên đây đợc xem xét trong từng hoạt động của quản lý tổng
hợp chất thải.
14.2.1. Giới v quản lý nguồn phát sinh chất thải
Quản lý nguồn phát sinh chất thải có ý nghĩa quan trọng trong QLTHCT.
Quản lý tốt nguồn phát sinh chất thải có nghĩa là giảm đến mức tối đa có thể sự
phát sinh chất thải hoặc phân loại để tái sử dụng, tái chế hoặc xử lý chúng một
cách hiệu quả hơn. Nguồn phát sinh chất thải rất đa dạng, từ hoạt động sản xuất
(công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông,), từ hoạt động y tế, thơng
mại, từ sinh hoạt.
Phân tích giới trong quản lý nguồn phát sinh chất thải đặt ra vấn đề liệu
nam giới và phụ nữ có tác động khác nhau đến việc quản lý nguồn phát sinh
chất thải không? cần có tác động đến giới nh thế nào để việc quản lý này có
hiệu quả? Ai là ngời sẵn lòng chi trả cho việc phát sinh rác do mình gây ra?
Hoạt động sản xuất công nghiệp của nớc ta phát sinh ra lợng chất thải
khoảng 2.510.000 tấn chất thải không nguy hại và 128.400 tấn chất thải nguy
hại trong một năm (VEM 4). Trong Công nghiệp, thì ngành có tỷ trọng chất thải
cao nhất là ngành ngành chế tạo máy (16,5%), sau đó đến ngành chế biến thực
phẩm (12,7%), ngành công nghiệp nhẹ và hoá chất có tỷ trọng chất thải phát
sinh ngang nhau (5,5%) (Nguyễn Khắc Kinh, Nguyễn Hoà Bình, 2003). Ngành
công nghiệp có tỷ trọng chất thải cao nhất và ngành có nguồn phát sinh chất
thải nguy hại nhiều nhất là nơi có nhiều lao động nam hơn là lao động nữ.
Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm là ngành có tỷ trọng nữ cao và cũng là
ngành có lợng chất thải rắn cao thứ hai, sau ngành chế tạo máy. Trong những
ngành này, vai trò của từng giới có khác nhau trong việc quản lý phát sinh chất
thải. Đối với ngành có tỷ trọng chất thải phát sinh lớn và có tỷ trọng lao động
nam cao, sự hiểu biết và nhận thức, ý thức về quản lý nguồn phát sinh của đội
ngũ lao động nam có ý nghiã quan trọng. Việc tăng cờng giáo dục về quản lý
chất thải đối với họ cũng nh tăng cờng kỹ năng tay nghề, nghề nghiệp, đổi
334
mới công nghệ vào khâu phát sinh nhiều chất thải theo hớng sản xuất sạch hơn
có tầm quan trọng đối với giảm thải. Tơng tự, đối với ngành có nhiều lao động
nữ, thì đối tợng tác động chính sẽ là đội ngũ lao động nữ. So với lao động nam,
lao động nữ thờng cẩn thận hơn, nhng trình độ lao động, tay nghề thờng là
thấp hơn. Do vậy, trọng tâm chú ý đối với lao động nữ trong ngành công nghiệp
chế biến thực phẩm là nâng cao tay nghề và kiến thức về quản lý chất thải, kiến
thức về vệ sinh môi trờng. Bởi họ cũng là những ngời dễ nhạy cảm với bệnh
tật do môi trờng lao động gây ra. Sức khoẻ của họ không chỉ tác động đến khả
năng lao động của họ mà còn tác động rất lớn để tái sản xuất giống nòi.
Trong ngành y tế, nơi mà tỷ lệ lao động nữ cao và họ cũng chính là những
ngời tham gia chủ yếu vào việc phát sinh ra chất thải y tế. Việc nâng cao nhận
thức, hiểu biết cho họ về quản lý nguồn phát sinh chất thải y tế, kiến thức về
phân loại chất thải y tế là hết sức cần thiết. Ngoài ra, họ còn là những ngời trực
tiếp tiếp xúc với các loại chất thải này, việc vệ sinh phòng bệnh và trang bị dụng
cụ bảo hộ lao động cho họ không chỉ nhằm bảo vệ sức khoẻ cho họ mà còn cho
nhiều ngời khác mà họ thờng xuyên tiếp xúc.
Chất thải sinh hoạt chiếm tỷ trọng không nhỏ. Những ngời trực tiếp
tham gia vào nguồn phát sinh chất thải sinh hoạt chính là phụ nữ, những ngời
nội trợ, ngời chăm lo công việc gia đình. Nâng cao ý thức tái sử dụng, sử dụng
tiết kiệm bao bì hoặc loại dễ phân huy (giấy, lá cây,), kiến thức và ý thức về
phân loại chất thải trớc khi đa ra hệ thống thu gom của thành phố, và ý thức
bảo vệ môi trờng công cộng, không vứt ra ra nơi công cộng, đờng phố, vỉa
hè,là biện pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mặt khác, phụ nữ trong gia
đình với t cách ngời mẹ, nếu ý thức và nhận thức của họ tốt về quản lý nguồn
phát sinh chất thải sinh hoạt, còn có tác dụng giáo dục tốt đến các thành viên
khác trong gia đình.
Một nội dung của quản lý nguồn phát sinh chất thải đó là việc nộp phí thu
gom chất thải. Việc này, không chỉ chi trả công cho ngời thu gom và vận
chuyển chất thải mà còn có ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của ngời phát sinh ra
chất thải. Trong gia đình, ngời trực tiếp phát sinh ra chất thải đa phần là phụ
nữ. Theo nghiên cứu của nớc ngoài, ở những nớc nghèo, thu nhập còn thấp,
phụ nữ trong gia đình cha phải là ngời kiểm soát toàn bộ thu nhập, trong khi
đó họ phải lo chi trả cho mọi sinh hoạt trong gia đình, thì sự sẵn lòng chi trả cho
dịch vụ thu gom của họ có hạn chế. Còn nam giới, khi đợc hỏi về việc có sẵn
lòng chi trả dịch vụ nay không, thờng họ quan niệm rằng, chi này là việc chi
lặt vặt và thuộc về trách nhiệm của phụ nữ.
335
Tóm lại, phụ nữ là những ngời chủ chốt trong hoạt động quản lý nguồn
phát sinh chất sinh hoạt và chất thải y tế. Còn đối với chất thải công nghiệp, có
lĩnh vực nam giới có tác động lớn hơn và ngợc lại, có lĩnh vực khác thì phụ nữ
lại có tác động lớn hơn, tuỳ thuộc theo tính chất của hoạt động sản xuất thu hút
nhiều lao động nam giới hay phụ nữ.
14.2.2. Giới v các hoạt động thu gom v vận chuyển chất thải
Các hoạt động thu gom và vận chuyển chất thải hiện nay do khu vực
chính thức và phi chính thức tiến hành. Khu vực chính thức có các công ty Vệ
sinh Môi trờng Đô thị của các tỉnh/thành đảm nhiệm. Ngoài ra, ở một vài địa
phơng còn có hợp tác xã hoặc doanh nghiệp t nhân đăng ký hoạt động trong
lĩnh vực này. Khu vực phi chính thức có các hình thức tổ chức và cá nhân tham
gia thu gom đa dạng: Hợp tác xã, tổ dân phố, các cá nhân những ngời nhặt rác
hoặc cá nhân nhặt và thu mua rác. Thành viên của các tổ chức hoặc cá nhân thu
gom rác này bao gồm cả nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ làm việc
trong lĩnh vực này thờng cao hơn nam giới. Chẳng hạn, tỷ lệ nữ làm trực tiếp
(thu gom chất thải, dọn vệ sinh, vận chuyển chất thải) tại Công ty Môi trờng
Đô thị Hà Nội là 72,24% (Nghiêm Xuân Đạt, 1995) và trong các công ty Môi
trờng đô thi cả nớc khoảng 60-80% (Đặng Kim Chi, 2003). Trong khu vực
không chính thức, các cá nhân thu gom, tuy cha có số liệu thống kê chính xác
về tỷ lên nam, nữ tham gia hoạt động này, nhng trong thực tế chúng ta cũng
thấy đại bộ phận số ngời thu mua, hoặc nhặt rác là nữ, trừ một số ít là nam thu
mua phế liệu hoặc các chất thải là đồ dùng cơ khí, hoặc đồ điện. Ví dụ ở Hà
Nội, số ngời nhặt rác đờng phố khoảng 6000 ngời, trong đó đa phần là nữ
(Đặng Kim Chi, 2003).
Phân tích giới trong hoạt động thu gom chất thải là tìm ra vấn đề: liệu
những ngời thu gom chất thải là nam giới có khác gì so với những ngời thu
gom là phụ nữ? hành vi thái độ đối với công việc thu gom của họ có khác nhau
không? khả năng, kỹ thuật thu gom của họ có khác nhau không? các phơng
tiện mà họ có đợc hoặc đợc sử dụng trong công tác thu gom có khác nhau
không? sự tham gia của nam giới và phụ nữ vào quá trình ra quyết định thu gom
có khác nhau không? lợi ích do thu gom chất thải đem lại có ngang nhau cho
nam giới và phụ nữ không? và tổ chức tiến hành thu gom chất thải do nam giới
làm chủ có khác gì so với phụ nữ làm chủ?
336
a) Khu vực chính thức
Đa số những ngời trực tiếp thu gom, dọn vệ sinh môi trờng đờng phố
của Công ty Vệ sinh Môi trờng đô thị (URENCO) là phụ nữ. Trình độ học vấn
của họ không cao và hầu nh là lao động phổ thông, cha đợc qua các khoá
đào tạo về kỹ thuật hoặc về vệ sinh cộng đồng hoặc y tế cộng đồng. Các phơng
tiện làm việc của họ là chổi, xẻng xúc rác, xe đẩy. Họ đều đợc trang bị quần
áo bảo hộ và khẩu trang, gang tay và ủng. Công việc mà họ đảm nhận chủ yếu
là quét, xúc rác vào xe đẩy và tập kết tại các điểm vận chuyển rác. Những việc
này là các công việc thủ công. Ngời công nhân phải tiếp xúc nhiều với vi
khuẩn, bụi, mùi, chịu nắng, gió và nhiệt độ ngoài trời.
Nam giới thờng đảm nhiệm công việc vận chuyển chất thải bằng xe cơ
giới. Họ đợc học qua trờng kỹ thuật, có bằng lái xe. Năng suất lao động trong
khâu này cao hơn khâu thu gom. Khác với ngời thu gom phải trực tiếp tiếp xúc
với bụi và mùi, thì ngời vận chuyển ít phải tiếp xúc trực tiếp với bụi và nắng
gió ngoài trời, nhng đòi hỏi phải tập trung cao độ hơn khi điều khiển xe cơ
giới.
Ngoài ra, còn có hoạt động hút bùn từ các cống trong thành phố. Tham
gia công việc này đa phần là nam giới và cũng có phụ nữ. Lao động của họ một
nửa là cơ giới, có trợ giúp của máy hút bùn. Họ phải tiếp xúc trực tiếp ô nhiễm
mùi, không khí và các vi khuẩn.
Một nghiên cứu tiến hành ở Công ty Môi trờng Đô thị Hà Nội cho thấy,
đối với lao động quét đờng phố, vi khuẩn yếm khí trong cơ thể của ngời công
nhân khi lao động tăng gấp 3.13 lần so với lúc trớc khi lao động và cầu khuẩn
tan trong máu gấp 1.78 lần. Tại khâu chuyển rác lên xe, thì lợng vi khuẩn yếm
khí có trong cơ thể ngời khi đang lao động cao gấp 5.37 lần so với trớc lúc
lao động, còn cầu khuẩn tan trong máu là 2.2 lần. Về mức kích thích hô hấp đối
với nam giới và phụ nữ của Công ty cũng khác nhau: có 79,5% nam giới không
bị triệu chứng kích thích hô hấp, trong khi đó phụ nữ có 70,3% số còn lại chịu
ảnh hởng kích thích hô hấp (Nghiêm Xuân Đạt, 1995).
Với tay nghề kỹ thuật cao hơn và công việc điều khiển xe cơ giới, những
ngời làm công việc vận chuyển chất thải có thu nhập cao hơn so với những
ngời thu gom. Mặt khác, xã hội có thái độ coi thờng hơn đối với công việc
mà phụ nữ đảm nhận (quét rác, xúc rác, quét rác nhà vệ sinh) hơn là đối với
công việc do nam giới đảm nhận (lái xe rác, sửa chữa cơ khí). Cụ thể xem bảng
14.1 dới đây.
337