Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.37 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Thứ hai - 14/10/2013 15:05
<b>Câu 1: Tại sao Điện Biên Phủ được lựa chọn là điểm quyết chiến chiến lược giữa quân và dân ta với </b>
<b>thực dân Pháp?</b>
<b>Gợi ý trả lời:</b>
<i><b>* Vài nét về vị trí chiến lược của vùng Tây Bắc và Điện Biên Phủ:</b></i>
- Vùng Tây Bắc:
+ Tây Bắc là một dải đất ở phía Tây Bắc bộ Việt Nam. Phần lớn đất đai là núi cao, rừng rậm; núi
xen kẽ cao nguyên và thung lũng mà đỉnh Phan Xi Păng trên dãy Hồng Liên Sơn là “nóc nhà” của Tây Bắc
với độ cao 3.142m. Các con sông như: Sông Mã, sơng Đà, sơng Thao với dịng nước chảy xiết đã chia Tây
Bắc thành nhiều khu vực. Đường vào Tây Bắc vừa ít lại phải qua nhiều sơng, suối, núi cao hiểm trở nên đi
lại cực kỳ khó khăn.
+ Tây Bắc là một địa bàn chiến lược quan trọng của Bắc bộ Việt Nam nói riêng, của Bắc Đơng
Dương nói chung. Phía Tây tiếp giáp với hai tỉnh Phơng Xa Lì và Sầm Nưa của Lào, phía Bắc giáp tỉnh
Vân Nam Trung Quốc. Phía Đơng là căn cứ địa Việt Bắc. Phía Nam là tỉnh Hịa Bình, nối liền với các tỉnh
thuộc Liên khu III và liên khu IV. Do vị trí địa lý của Tây Bắc có đặc thù như vậy đã khiến cả ta và Pháp
đều rất chú trọng đến địa bàn chiến lược này.
+ Đối với ta, làm chủ được Tây Bắc không những bảo vệ được vững chắc khu đầu não kháng chiến
Việt Bắc, tạo thành thế liên hoàn nối liền một dải hậu phương kháng chiến rộng lớn, mà cịn có điều kiện
thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt là tăng cường thêm tình đồn kết Việt - Lào để
chống kẻ thù chung.
+ Đối với thực dân Pháp, khống chế được khu vực này, chúng sẽ mở rộng được địa bàn hoạt động
nhằm uy hiếp, khống chế bên sườn và sau lưng ta, chia cắt liên lạc và sự chi viện của ta (giữa Việt Bắc và
Liên khu III, Liên khu IV), đồng thời từ đây có thể che chở cho Thượng Lào cùng cố đô Luông Pha Băng.
- Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên), nằm ở
giữa vùng núi rừng Tây Bắc, có lịng chảo Mường Thanh (Mường Then - Mường Trời) dài gần 20km, rộng
từ 6 đến 8 km, cách Hà Nội khoảng 300km, cách Luông Pha Băng (Lào) khoảng 200km đường chim bay,
cách biên giới các nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan từ 150 đến 200 km, cách Việt Bắc, khu IV từ
300km đến 500km đường bộ. Thung lũng này nằm gần biên giới Việt - Lào, là một đầu mối giao thông
quan trọng, có tuyến đường đi Lào, có con sơng Nậm Rốm chảy theo hướng Bắc - Nam đổ xuống sông
Nậm Hu, có sân bay Mường Thanh được xây dựng từ năm 1889. Dân số Điện Biên Phủ lúc đó có khoảng 2
vạn người thuộc 11 dân tộc khác nhau: Kinh, Thái, H’Mông, Nùng, Mường, Tày, Lào, Xá, Puộc, Hoa, Pú
Noi...
Nó như “cái chìa khóa” bảo vệ Thượng Lào, từ đó có thể đánh chiếm lại các vùng đã bị mất ở Tây Bắc
trong những năm 1950 - 1953 và tạo điều kiện để đánh tiêu diệt quân chủ lực của ta tại đây. Đồng thời là
một căn cứ không quân - lục quân lợi hại, phục vụ cho chính sách xâm lược của Mỹ ở Đông Nam châu Á.
Kế hoạch tác chiến của Nava hy vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lại thế chủ động chiến lược,
chuyển bại thành thắng... Ngày 3/12/1953 Nava ra huấn lệnh cho quân đội Pháp tập trung lực lượng phịng
ngự ở Tây Bắc vào căn cứ khơng quân - lục quân ở Điện Biên Phủ và quyết giữ căn cứ này với bất cứ giá
nào.
- Tây Bắc với địa hình phức tạp rất khó khăn cho hoạt động quân sự của địch nhưng lại rất thuận
lợi cho chiến tranh nhân dân của ta. Bởi vậy sau ba chiến dịch, vùng Trung du và đồng bằng (chiến dịch
Trung du, chiến dịch đường số 18 và chiến dịch Hà Nam Ninh), Đảng ta quyết định chọn hướng rừng núi
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định
mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh
nhuệ của địch ở đây, giải phóng Tây Bắc và tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang của Lào giải phóng Bắc
Lào, đồng thời tạo điều kiện để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường Đông Dương. Điện Biên
Phủ trở thành trung tâm điểm của kế hoạch Đông Xuân 1953 - 1954 của ta, là trận “quyết chiến chiến lược”
lớn nhất giữa ta và Pháp.
Trong thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào ngày 22/12/1953, Hồ Chủ tịch nêu rõ: “Chiến
dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về qn sự mà cả về chính trị, khơng những đối với
trong nước mà còn cả đối với quốc tế. Vì vậy, tồn dân, tồn qn, tồn Đảng phải tập trung hoàn thành cho
kỳ được”.
Câu 2: Hãy nêu diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ?
<b>Gợi ý trả lời:</b>
Chiến dịch Điện Biên Phủ được diễn ra trong 56 ngày đêm ác liệt và được chia thành 3 đợt tấn
công:
Đợt tiến công thứ nhất bắt đầu từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954. Nhiệm vụ đợt này là tiêu diệt các
vị trí vịng ngồi của địch, ở phía Bắc và Đơng Bắc gồm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo.
Đúng 17h ngày 13/3/1954, đại đội lựu pháo 806 bắn những loạt đạn đầu tiên vào trung tâm đề kháng
Him Lam mở màn cho chiến dịch. Trung tâm đề kháng Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất
của địch. Him Lam thuộc phân khu trung tâm, cách Mường Thanh 2,5km - Him Lam có nhiệm vụ che chở
cho phân khu trung tâm và ngăn chặn bộ đội ta đánh vào phân khu Bắc. Tại đây Nava bố trí một tiểu đồn
Cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt, kéo dài hơn 5h30’, đến 22h30’ ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm
Him Lam, tiêu diệt và bắt sống gần 500 tên địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược. Lá cờ “Quyết chiến quyết
thắng” đã được cắm lên cứ điểm Him Lam.
Trong trận mở màn, xuất hiện gương chiến đấu dũng cảm của Phan Đình Giót, anh đã lấy thân mình lấp lỗ
châu mai tại mỏm 2 để tạo điều kiện cho bộ đội xung phong tiêu diệt địch.
Thất thủ ngay tại trận mở màn, Đại tá Pirốt chỉ huy pháo binh của thực dân Pháp tại Điện Biên
Phủ bất lực trước pháo binh Việt Nam, đã tự sát.
Phát huy truyền thống đánh thắng trận mở màn, 3h30’ ngày 15/3/1954 ta tấn công đồi Độc Lập. Cứ
điểm Độc Lập nằm trên quả đồi dài 700m, rộng 150m, cách Mường Thanh 4km, do một tiểu đồn Bắc Phi
tăng cường chốt giữ. Vị trí Độc Lập có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta từ hướng Bắc đánh xuống. Sau 3 giờ
chiến đấu, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ đồi Độc Lập.
815 tiểu đoàn 383, trung đoàn 367 bắn rơi tại chỗ 1 máy bay trinh sát Moran của Pháp - Đơn vị đã được
tặng thưởng Huân chương quân công hạng 3.
Sau gần 5 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ điểm kiên cố vào bậc nhất của địch,
đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch, bức hàng luôn cứ điểm Bản Kéo, tiêu diệt và bắt sống 2.000 tên
địch, bắn rơi 12 máy bay mở toang cánh cửa phía Bắc vào trung tâm tập đồn cứ điểm.
Để đảm bảo chắc thắng trong đợt tấn công thứ hai, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận quyết định phải
xây dựng trận địa tấn công và bao vây và xác định đây là nhiệm vụ trung tâm trong công tác chuẩn bị của
đợt 2.
Hệ thống trận địa tấn công và bao vây: Bao gồm đường giao thông hào trục sâu 1,7m, rộng 1,2m
17h ngày 30/3/1954 đợt tấn công thứ 2 bắt đầu và kéo dài hơn 20 ngày đêm ác liệt (30/3 -
26/4/1954). Nhiệm vụ đợt tấn công này là đánh chiếm các ngọn đồi phía Đơng, đánh chiếm sân bay triệt
đường tiếp tế và tiếp viện, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của phân khu Trung tâm.
Cuộc chiến đấu tại C1 diễn ra quyết liệt ngay từ những ngày đầu. Sau 45 phút chiến đấu, trung
đoàn 98, đại đoàn 316 đánh chiếm đồi C1. Được tăng viện, ngày 9 tháng 4 địch cho quân phản kích. Cuộc
chiến đấu diễn ra 4 ngày đêm liên tục, cuối cùng mỗi bên chiếm một nửa.
Đồi A1 là điểm cao quan trọng nhất trong 5 ngọn đồi phía Đơng, nó cũng là điểm cao cuối cùng
che chở cho phân khu trung tâm.
Từ 30/3 - 4/4 bộ đội ta 3 lần tổ chức tấn công, địch dựa vào hệ thống hầm ngầm ngoan cố chống cự, tổ chức
nhiều cuộc phản cơng có xe tăng và pháo binh yểm hộ, cuối cùng mỗi bên chiếm một nửa đồi A1.
Tại đồi E, khẩu đội Phùng Văn Khầu chiến đấu thông minh, sáng tạo, tiêu diệt nhiều hỏa điểm
địch, sau này đồng chí được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Ngay trong đợt 2, các vị trí 106, 105, 206.... của thực dân Pháp đã bị bộ đội ta đánh chiếm.
Ngay từ hạ tuần tháng 3/1954, bộ đội cao xạ và bộ đội pháo binh hoạt động mạnh, máy bay địch
không hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh được, phải bay cao thả dù, nhiều dù hàng bay sang trận địa
phòng ngự của ta. Từ trung tuần tháng 4/1954 phong trào thi đua “Săn tây bắn tỉa” của bộ đội ta càng làm
cho địch hoang mang, tuyệt vọng. Đối với địch, Điện Biên Phủ đã trở thành địa ngục trần gian, cái chết đến
với chúng bất cứ lúc nào.
Được sự chi viện của hậu phương về cả tinh thần và vật chất, các chiến sỹ Điện Biên Phủ lạc
quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của chiến dịch.
Bộ chỉ huy mặt trận quyết định mở đợt tấn công thứ 3. Đợt tấn công cuối cùng bắt đầu vào đêm
1/5/1954. Nhiệm vụ đợt chiến đấu này được xác định cụ thể là: Đánh chiếm và tiêu diệt các cứ điểm còn lại
của địch, uy hiếp tung thâm chớp thời cơ tiến hành tổng cơng kích.
Phối hợp chặt chẽ với bộ binh, pháo binh và cao xạ hoạt động mạnh, làm cho địch tiếp tục hoảng
loạn.
Các đại đồn bộ binh nhanh chóng đánh chiếm C1, A1, các vị trí ở dưới chân các ngọn đồi phía
đơng, tiến đánh khu trung tâm Mường Thanh. Chớp thời cơ, 15h ngày 7/5/1954, quân ta được lệnh mở cuộc
tổng cơng kích vào tập đồn cứ điểm.
17h30 phút ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm sở chỉ huy địch, Thiếu tướng Đờ Cát và bộ tham
mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống. Lá cờ <i>Quyết chiến Quyết thắng</i> của quân đội ta đã tung bay trên nóc hầm
sở chỉ huy địch, binh lính địch ở các cứ điểm cịn lại lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ
tồn thắng.
<b>Câu 3: Hãy nêu vai trị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ?</b>
<b>Gợi ý trả lời:</b>
đặc biệt gắn với tên tuổi của vị tướng huyền thoại - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người đã có một quyết
định táo bạo và khó khăn trong cuộc đời binh nghiệp của mình khi quyết định chuyển phương án tác chiến
trong chiến dịch Điện Biên Phủ từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Ông quyết định
“kéo pháo ra” khi mọi lực lượng đã sẵn sàng chỉ cịn chờ hiệu lệnh tiến cơng.
Hạ tuần tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến
lược trong Đông Xuân 1953 - 1954. Đảng ủy chiến dịch được chỉ định gồm các đồng chí: Tham mưu
trưởng Hồng Văn Thái; Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm; Chủ nhiệm Cung cấp Đặng Kim Giang và Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch.
Chiều ngày 12/1/1954, Hội nghị Đảng ủy mặt trận đã được triệu tập ở hang Thẩm Púa. Trong cuộc
Nhưng đại tướng Võ Nguyên Giáp khơng nhất trí với quyết định trên vì thấy phương án <i>"Đánh nhanh thắng </i>
<i>nhanh"</i> mang nhiều tính chủ quan, không đánh giá đúng thực lực hai bên không thể đảm bảo chắc thắng.
Ngày 14/1/1954, tại Hội nghị phổ biến kế hoạch tác chiến được tổ chức ở hang Thẩm Púa,
phương án đánh nhanh thắng nhanh và nhiệm vụ của các đơn vị, các binh chủng đã được đưa ra. Cán bộ cao
cấp, trung cấp các đại đoàn tham gia chiến đấu đều có mặt. Dự kiến trận đánh sẽ diễn ra trong hai ngày, ba
đêm. Trước mắt, tập trung toàn bộ lực lượng bộ đội hoàn thành đường kéo pháo và đưa pháo vào trận địa dã
chiến bí mật, an tồn. Khơng khí hội nghị phấn khởi và tin tưởng, chỉ huy các đại đoàn đều biểu thị quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Theo báo cáo của Cục Quân báo, lúc này binh lực ở Điện Biên Phủ đã từ sáu tiểu đoàn lúc đầu, tăng
lên 11 tiểu đoàn bộ binh và dù. Hàng ngày máy bay địch tiếp tục vận chuyển và thả dù hàng trăm tấn lương
thực, vũ khí, đạn dược... xuống sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm. Đồi Độc Lập nay đã trở thành một
trung tâm đề kháng vững chắc. Cụm cứ điểm Him Lam đã được tăng cường.
Hai ngày trước giờ nổ súng (Ngày 23/1/1954), Cục phó Cục Bảo vệ Phạm Kiệt báo cáo: Pháo của
ta đều bố trí ở trận địa dã chiến, địa hình rất trống trải, nếu bị phản pháo hoặc không quân đánh phá sẽ khó
tránh khỏi tổn thất. Một số pháo vẫn chưa kéo được tới trận địa. Đồng thời, khi kiểm tra tình hình chiến đấu
của Đại đồn 312, Đại đồn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo là đơn vị phải đột phá liên tục ba phòng tuyến
của địch mới vào được trung tâm...
Sau nhiều ngày đêm chật vật, những khẩu pháo mới xích tới gần trận địa dã chiến. Gần ngày N.,
một chiến sĩ của Đại đồn 312 khơng may bị địch bắt. Ngày 24/1, qua tin trinh sát kỹ thuật, ta lại biết địch
đã nắm được thời gian ta nổ súng và thông báo cho nhau. Bộ Chỉ huy chiến dịch đã quyết định hoãn thời
gian nổ súng lại 24 tiếng. Và phân công cán bộ đi nắm lại tình hình sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị.
Ngày 26/1/1954, trong cuộc họp Đảng ủy mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định phải
cho lui quân do ba khó khăn rõ rệt.
<i><b> 1.</b></i> Các đơn vị bộ đội chủ lực chưa có khả năng trong một thời gian ngắn, tiêu diệt cả chục tiểu
đồn địch phịng ngự trong tập đồn cứ điểm. (Hiện tại địch có: 49 cứ điểm, binh lực, hỏa lực mạnh, có
cơng sự vững chắc và hệ thống vật cản dày đặc...).
<i><b> 2.</b></i> Ta chưa có kinh nghiệm đánh hợp đồng bộ binh và pháo binh trên quy mơ lớn. Cán bộ cịn lúng
túng trong việc chỉ huy.
<i><b> 3.</b></i> Bộ đội phải chiến đấu liên tục trong hai ngày ba đêm với một kẻ địch có ưu thế về khơng qn,
pháo binh và xe tăng trên địa hình trống trải, nhất là trên cánh đồng Mường Thanh khá rộng thì rất khó
tránh thương vong, khó hồn thành nhiệm vụ.
<i>thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Nay quyết định hỗn cuộc tiến cơng. Ra lệnh cho bộ đội trên </i>
<i>toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra. Cơng tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh</i>
<i>lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới”.</i>
Quyết định ngày 26/1/1954 đã được thực tiễn chứng minh là đúng qua những trận thắng trong các
đợt tiến công của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Việc quyết định thay đổi phương châm tác chiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện một trí
tuệ tuyệt vời, một tinh thần dũng cảm vơ song, một tinh thần trách nhiệm rất cao trước vận mệnh của đất
nước và sinh mệnh của cán bộ, chiến sĩ; thể hiện một sự quán triệt rất sâu, rất chắc phương châm “tích cực,
chủ động, cơ động, linh hoạt” và thực hiện đúng lời Bác Hồ căn dặn trước lúc lên đường: “Trận này rất
Ba mươi lăm năm sau, trong cuốn hồi ức về Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi quyết
định ngày 26/1/1954 thay đổi phương châm và cách đánh chiến dịch là quyết định khó khăn nhất trong cuộc
đời chỉ huy của mình. Đây là một quyết định lịch sử trong một chiến dịch lịch sử.
<b>Câu 4: Hãy nêu ngày, tháng, năm và nội dung chính bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi động </b>
<b>viên cán bộ, chiến sĩ trước ngày nổ súng mở màn chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ?</b>
<b>Gợi ý trả lời:</b>
Trước ngày nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, cuộc đấu trí cùng với cuộc tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953 - 1954 của quân ta với quân địch trên khắp các chiến trường từ Nam bộ xa xôi đến
đồng bằng Bắc bộ, thực sự là một cuộc đối đầu quyết liệt, dương đông kích tây, căng địch ra mà đánh. Quân
ta đánh thắng địch ở các nơi buộc chúng vào thế bị động, lúng túng phải phân tán nhỏ lực lượng để đối phó
với quân ta.
Thời cơ tấn cơng tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ đã tới. Ngày 11/3/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi thư để động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Bức thư đó có nội dung như sau:
<i> Thân ái gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận,</i>
Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang.
Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và
chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy
thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.
Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.
Chúc các chú thắng to.
Bác hôn các chú.
Chào thân ái và quyết thắng
Hồ Chí Minh
<b>Câu 5: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có bao nhiêu cán bộ, chiến sĩ lập cơng xuất sắc được Nhà </b>
<b>nước phong tặng danh hiệu Anh hùng? </b>
<b>Gợi ý trả lời:</b>
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã có 18 cán bộ, chiến sĩ lập công xuất sắc được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (trong đó có 4 liệt sĩ).
Đó là:
6 - Anh hùng Phan Đình Giót (Liệt sĩ).
7 - Anh hùng Đặng Đình Hồ.
8 - Anh hùng Trần Đình Hùng.
9 - Anh hùng Phùng Văn Khầu.
10 - Anh hùng Đinh Văn Mẫu.
11 - Anh hùng Chu Văn Mùi.
12 - Anh hùng Đặng Đức Song.
13 - Anh hùng Phan Tư.
14 - Anh hùng Nguyễn Văn Ty.
15 - Anh hùng Lưu Viết Thoảng.
16 - Anh hùng Lộc Văn Trọng.
17 - Anh hùng Hồng Văn Nơ.
Câu 6: Hãy cho biết đơi nét về quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ - một địa danh đã làm rạng
<b>ngời trang sử Việt Nam?</b>
<b>Gợi ý trả lời:</b>
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ gồm nhiều hạng mục, là những bằng chứng sinh động gắn
liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Một số hạng mục di tích đáng kể nhất ở đây là:
<i><b> 1.</b><b>Di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ</b></i> ở Mường Phăng do Đại tướng Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp kiêm tư lệnh chiến dịch đặt tại một khu rừng già dưới chân núi Pú Đồn thuộc xã Mường
Phăng, huyện Điện Biên. Cách trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch ở Mường Thanh 10km
theo đường chim bay và 38km đường bộ. Sở chỉ huy chiến dịch được xây dựng dọc theo một con suối nhỏ
và được bố trí thành một hệ thống liên hồn, có hầm hào, lán trại thuận tiện. Nhà làm việc của các cơ quan
trong Sở chỉ huy là những lán nhỏ nằm dưới tán cây rừng, dưới nền lán là những căn hầm. Trên đỉnh núi Pú
Đồn là đài quan sát tồn bộ tình hình mặt trận Điện Biên Phủ. Hiện nay, một số hạng mục của di tích đã
được tu bổ, tơn tạo và giữ gìn phục vụ đơng đảo khách tham quan trong và ngoài nước
<i><b> 2. Di tích đường kéo pháo và trận địa pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ</b></i> nằm sát Quốc lộ 279
thuộc địa phận bản Nà Nhạn, xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ 18km. Đường
kéo pháo chính thức được mở vào ngày 15/1/1954 với tổng quân số hơn 5.000 cán bộ chiến sĩ và các đơn vị
với quyết tâm “mở đường thắng lợi”. Hiện tại, đường kéo pháo sẽ khôi phục lại 3.966,40m, trong đó, sẽ
khơi phục lại một đoạn đường dài 100m nguyên bản đường kéo pháo năm xưa để khách tham quan có thể
hình dung được cả tuyến đường. Đối với trận địa pháo sẽ khôi phục lại công sự pháo cho một khẩu đội pháo
105 ly của đại đội 806, đơn vị đã bắn phát đạn đầu tiên vào trung tâm đề kháng Him Lam mở màn chiến
dịch Điện Biên Phủ và một dàn hỏa tiễn H6 - Loại vũ khí góp phần quan trọng trong việc giành chiến thắng
ở đợt tấn công thứ 3 từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 5 năm 1954.
<i><b> 3. Đồi A1:</b></i>
Là điểm cao quan trọng nhất có tính quyết định của chiến trường Điện Biên Phủ. Nơi đây bộ đội ta
đã phải chiến đấu suốt 36 ngày đêm cực kỳ gian khổ. Hy sinh mất mát rất nặng nề cho cả hai phía. Tối ngày
6 tháng 5 năm 1954, bộ đội ta phát lệnh nổ quả bộc phá gần một tấn, khiến bọn địch sống sót phải đầu hàng.
<i><b> 4. Sân bay Mường Thanh: </b></i>
Được Pháp xây dựng ở trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sân bay Mường Thanh có chiều
dài 2000m, chiều rộng 50m, là con đường vận chuyển tiếp tế hàng hóa, vũ khí... quan trọng nhất của Pháp ở
chiến trường Điện Biên Phủ. Ngày nay sân bay Mường Thanh vẫn giữ nguyên vị trí như trước đây. Riêng
đường băng, nhà ga đã được nâng cấp thành Cảng Hàng khơng Điện Biên Phủ, góp phần đưa đón các đồn
khách tham quan trong và ngồi nước về thăm mảnh đất Điện Biên anh hùng.
<i><b> 5. Di tích hầm Đờ Cát (De Castries):</b></i>
300m về phía Tây Nam. Hầm được thiết kế và xây dựng bằng các vật liệu chắc chắn, đủ sức chịu đựng sự
công phá của các loại hỏa lực của đối phương. Ngày nay, di tích hầm Đờ Cát đã được tơn tạo lại theo
nguyên bản, bằng những vật liệu bền vững để nơi đây thực sự là bằng chứng mãi mãi tôn vinh sức mạnh vĩ
đại của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc.
<i><b> 6. Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ: </b></i>
Đây là nơi lưu giữ và sưu tập rất nhiều hiện vật mơ tả khái qt tồn bộ cuộc chiến đấu vô cùng gian
khổ của quân và dân Việt Nam để làm nên chiến thắng vẻ vang năm 1954. Những hiện vật này được trưng
bày cả trong nhà và ngoài trời.
<i><b> 7. Nghĩa trang: </b></i>Nghĩa trang đồi Al, nghĩa trang đồi Him Lam, nghĩa trang đồi Độc Lập, là nơi yên
nghỉ của các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Nơi đây hàng năm vào những ngày
nghỉ, ngày lễ, tết, ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, nhân dân các dân tộc Điện Biên và nhân dân khắp nơi
trong cả nước về dâng hương tưởng niệm những người anh hùng đã hy sinh vì vận mệnh dân tộc.
Câu 7: Hãy cho biết kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ? Từ ý nghĩa đó nêu
<b>cảm nghĩ của mình với chủ đề “Âm vang Điện Biên” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc </b>
<b>hiện nay (bài viết về cảm nghĩ của bản thân không quá 1.000 từ).</b>
<b>Gợi ý trả lời:</b>
<b> +/ Kết quả chiến thắng Điện Biên Phủ:</b>
Sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân đội ta đã tiêu diệt toàn bộ cứ điểm Điện Biên Phủ, loại
khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, trong đó có: 1 thiếu tướng, 16 quan năm, 353 sĩ quan từ quan một đến
quan tư và 1396 hạ sĩ quan. Bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại. Thu toàn bộ phương tiện chiến tranh
gồm 28 cỗ đại bác 105 ly và 155 ly; 10 súng phun lửa, 64 xe các loại, trong đó có 3 xe tăng 18 tấn, 542 máy
vơ tuyến điện, 51 máy các loại, trong đó có 5 máy xúc đất, 5915 súng các loại; 20.000 lít xăng dầu, 21.000
chiếc dù, 20 tấn thuốc và dụng cụ y tế cùng rất nhiều đạn dược, quân trang quân dụng, giải phóng hồn tồn
khu vực Tây Bắc.
<b> +/ Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ:</b>
- Quân và dân ta đã làm phá hủy hoàn toàn kế hoạch Nava, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp.
- Chúng ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch thuộc các đơn vị thiện chiến nhất của thực dân
Pháp ở Đơng Dương, phá hủy nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng được nhiều vùng đất đai
rộng lớn, có ý nghĩa về mặt chiến lược.
- Mở ra một cục diện chính trị mới, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ 1954 bàn về
việc lập lại hịa bình ở Đơng Dương.
- Đây không chỉ là chiến thắng của dân tộc Việt Nam, mà còn là thắng lợi của các dân tộc nhỏ trên thế giới
đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.
<b>+/ Cảm nghĩ: (Bài viết về cảm nghĩ của bản thân không quá 1.000 từ).</b>